Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

CUỘC SỐNG đô THỊ vấn đề được QUAN tâm đặc BIỆT TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.54 KB, 94 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong lịch sử phát triển của văn học nhân loại, ở mỗi thời đại
người ta thường xuyên xem xét lại những vấn đề xuất phát từ mục đích
từ yêu cầu của thời đại mình, lí giải chúng theo quy luật phát triển của
thời đại. Do đó, hầu như những cái là ổn định đối với thời đại trước thì
đối với thời đại này lại có những vấn đề để mà bàn luận hay chí ít cũng
được nhìn nhận lại một cách sâu sắc tồn diện và đúng đắn hơn. Văn
xi Việt Nam thời kỳ đổi mới cũng khơng nằm ngồi quy luật ấy. Đặc
biệt là từ sau 1986, khi diễn ra đại hội VI của Đảng, đất nước ta chính
thức bước sang một thời đại mới trên tất cả lĩnh vực. Chưa bao giờ con
người và đời sống hiện thực được phản ánh đa chiều như thế. Đề tài
chiến tranh và cách mạng, lịch sử và dân tộc dần dần nhường chỗ cho đề
tài đạo đức, thế sự và đời tư. Văn xuôi thời kỳ này đã phát huy được khả
năng tiếp cận và phản ánh được hiện thực của con người trong giai đoạn
mới một cách nhanh nhạy và sắc bén. Một trong những vấn đề nổi cộm
của hiện thực xã hội lúc này là vấn đề cuộc sống đô thị - đây là bức tranh
sinh động phản ánh những mảng màu pha tạp của cuộc sống một cách
chân thực.
1.2. Văn xuôi giai đoạn thời kỳ đổi mới, đặc biệt là tiểu thuyết có
một vị trí vơ cùng quan trọng trong nền văn học Việt Nam. Khơng thể
hình dung được diện mạo của nền văn học nếu “lãng quên” tiểu thuyết.
Cùng với các thể loại khác, tiểu thuyết đã có những cách tân và thu được
nhiều thành tựu đáng kề về nội dung lẫn hình thức biểu hiện. Tiểu thuyết,
với những ưu thế riêng, là thể loại văn xuôi nghệ thuật đáp ứng nhanh và
đa dạng những yêu cầu mới mẻ, phong phú của đời sống xã hội Việt
Nam sau đổi mới. Như vậy, nghiên cứu vấn đề cuộc sống đô thị trong
tiểu thuyết sau đổi mới đã góp phần giúp chúng ta nhìn nhận được đặc


2



điểm của tiểu thuyết nói riêng và diện mạo của văn xi nói chung trong
thời kỳ đổi mới.
1.3. Từ 1986 trở lại đây, văn xi nước nhà thực sự có những bước
chuyển mình, như thổi vào luồng khơng khí mới, đề tài văn học được nói
đến trở nên sơi động hơn bao giờ hết. Khám phá từ bước đi nhỏ trong
cuộc sống đến những suy nghĩ trải nghiệm về cuộc sống xung quanh
mình. Xã hội càng phát triển cuốn theo những cơn lốc của kinh tế thị
trường, tuy nhiên cũng bộc lộ những mặt trái của nó, đồng tiền làm xã
hội đảo lộn, những chuẩn mực đạo lý đang có chiều đi xuống cùng với
nhiều hiện tượng băng hoại, tha hóa đạo đức. Đặc biệt, nền kinh tế ấy đã
ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ tới cuộc sống đô thị.
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề cuộc sống đô thị là đề tài mới, xoay quanh cuộc sống con
người và những vấn đề nhức nhối của xã hội, gây được sự chú ý đối với
độc giả và giới nghiên cứu. Tuy nhiên, các bài nghiên cứu, bình luận về
đề tài này chưa thật nhiều. Có thể kể tên một số cơng trình, bài viết sau:
- Bài viết Văn xi gần đây và quan niệm con người, Bùi Việt
Thắng, tạp chí văn học số 6 – 1991.
- Bài viết Dấu ấn hậu hiện đại trong văn học Việt Nam sau 1986,
Phùng Gia Thế, vannghechunhat.net
- Bài viết Tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà và thi pháp hậu hiện đại,
Phùng Gia Thế, evan.com
- Cảm hứng phê phán trong truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến
2000, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trương Thị Chính.
- Một số đặc điểm của văn xuôi Việt Nam sau 1985 (Qua những
truyện ngắn và tiểu thuyết tiêu biểu), Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Lê Thị
Hằng.



3

Trong các cơng trình trên, chúng tơi thấy có một số ý kiến đáng
chú ý sau:
Phùng Gia Thế trong Dấu ấn hậu hiện đại trong văn học Việt Nam
sau 1986 đã đưa ra cách nhìn mới về cái “hậu hiện đại” nổi bật nhất
trong đây chính là “cảm quan hậu hiện đại”. Thời đại lịch sử - xã hội cụ
thể hiển nhiên sẽ làm nảy sinh trong nó những kiểu tâm trạng xã hội
tương ứng. Vậy, cái gì là “cảm quan hậu hiện đại”? Có thể nói vắn tắt, đó
là một kiểu cảm nhận đời sống đặc thù thể hiện trạng thái tinh thần của
thời đại: nhận thấy sự đổ vỡ của những trật tự đời sống, tính áp đặt của
cái chính thống, của các phát ngơn lớn, sự đảo lộn trong các thang bảng
giá trị đời sống, sự mất niềm tin, bơ vơ, lạc loài, vong thân, tâm trạng hồ
nghi tồn tại và tình trạng bất an của con người... Đấy là tinh thần chung
nhất. Còn sự thể hiện chúng trong văn chương lại khá đa dạng, phức tạp.
Có thể lấy một ít ví dụ trong văn xi ở ta gần đây. Tiểu thuyết Nguyễn
Bình Phương ám ảnh bởi sự khủng hoảng niềm tin của con người, của
nhà văn vào con người và cuộc đời, sự đổ vỡ của những trật tự đời sống
xã hội và gia đình, sự ngắc ngoải ngưng đọng của đời sống, sự đánh mất
bản ngã, phương hướng, sự băng hoại đạo đức, sự đau đớn bơ vơ, tình
trạng bất an của con người. Tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà thể hiện cái nhìn
về một đời sống hỗn loạn, đổ vỡ. Văn chương Tạ Duy Anh là nỗi khắc
khoải đi tìm bản ngã, tìm một giá trị thật sự nhân bản trên cái đời sống
đổ nát, điêu tàn, là sự loay hoay lý giải, hoá giải những nỗi đoạ đầy con
người từ tiền kiếp. Nhìn đời sống như những mảnh vỡ, tiểu thuyết Hồ
Anh Thái thể hiện tinh tế những nỗi hoang mang về con người...
Trong bài viết Văn xuôi gần đây và quan niệm con người của Bùi
Việt Thắng cho rằng Văn xuôi Việt Nam gần đây, như nhiều người nhận
xét, đã “áp sát tới cuộc sống và con người, bước đầu đem đến cho bạn
đọc một cảm nhận trung thành về thực tại. Ta thấy ở đây có một lối sống



4

thực dụng, chạy theo đồng tiền là một hoàn cảnh lắm “vi trùng” làm con
người bị nhiễm một thứ bệnh “mất nhân tính”. Cũng chính hồn cảnh đã
tạo ra một kiểu người vô cảm như Vạn (Bến không chồng), thông điệp
của tiểu thuyết Khải huyền muộn về một thực trạng tha hóa đầy lo ngại
trong cuộc sống hiện nay.…Có thể nói con người đang bị tha hố với tốc
độ đáng sợ. Sự tha hoá là tất yếu của cuộc sống đang ở thời kỳ khủng
hoảng, làm lại, tất cả đang bị xuống cấp nghiêm trọng. Con người không
thể đứng cao, thốt khỏi hồn cảnh. Một thiết chế xã hội thiếu nền móng
pháp luật, thiếu kinh nghiệm quản lý kinh tế, điều hành xã hội tất yếu
sinh ra những kẽ hở lớn cho bọn “sâu mọt” sản sinh. Trong Sóng lừng
của Triệu Xuân đã dũng cảm vạch mặt một tên “quan cách mạng” điển
hình (Tám Dơn) và cảnh tỉnh những người có trách nhiệm đã thiếu trách
nhiệm để bọn cơ hội đục khoét, vơ vét đầy túi…
Tác giả Phùng Gia Thế trong Tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà và thi
pháp hậu hiện đại đã viết: Sự độc đáo của Cơ hội của Chúa thể hiện
trước hết ở cái nhìn đời sống của nhà văn. Trong Cơ hội của Chúa, ta
khơng tìm thấy đâu là lý tưởng, bản ngã, đâu là ý nghĩa đích thực của
cuộc đời. Thế cuộc hỗn loạn, trớ trêu. Các thang bảng giá trị đời sống tan
tành đổ vỡ. Cả những niềm tin tôn giáo cũng trở nên đáng ngờ vực,
mong manh. Qua lối “umua đen” của nhà văn, đâu đâu cũng thấy “những
khái quát xanh rờn” về thời buổi, đại loại: “thị trường còn trinh nguyên
nhưng đã tự làm suy yếu bằng thói bn bán thủ dâm”; “các company
nhiều như nấm sau mưa, nơi liên doanh của quan chức cơ hội với bọn
bn lậu liều lĩnh”; “chín mươi ba phần trăm các công ti tư doanh chọn
sự lừa đảo làm kim chỉ nam của hoạt động nghiệp vụ”; cơ quan công
chức là “một thứ vườn trẻ để gửi con ông cháu cha”, nơi cán bộ nhà

nước “trở nên sung túc vì biết ăn cắp”; “muốn cơng ty đứng vững chỉ có
hai cách trốn thuế và bn lậu”...


5

Sự “nhố nhố nhăng nhăng” của thời buổi trong đây quả là cơ hội
lớn cho những trí thức tha hố tồn diện và “khốn nạn có gien” như
Lâm, Trần Bình, Sáng. Và, trớ trêu, những kẻ bất chấp thủ đoạn, chỉ biết
chạy theo danh lợi (và sẵn sàng biến người khác thành nạn nhân của
danh, lợi) - những quan chức, trí thức, doanh nhân, lại là gương mặt của
tương lai. Trong Cơ hội của Chúa, nhân vật đa phần là những kẻ ham hố.
Chỉ có điều, người “mạnh mẽ quyết đốn nhưng chưa đủ độc ác” (như
Tâm), thì “rất khó giàu”. Loại người muốn kinh doanh “chân chính bằng
đúng trí thơng minh và bản lĩnh” (như Tâm, Thắng), chỉ có thể là mẫu
người của xã hội tương lai.
Có thể nói, dưới một kiểu cảm quan đời sống đặc thù, tiểu thuyết
Nguyễn Việt Hà đã thể hiện khá sinh động những trạng thái tinh thần tiêu
biểu và câu chuyện tâm thức đặc thù của con người thời đại: xem đời
sống như một sự hỗn loạn, như những mảnh vỡ, tâm thế hồ nghi tồn tại,
đánh mất lý tưởng, loay hoay vô hướng, cõi nhân sinh thiếu vắng tính
người, nhà văn bất lực, khơng đi tìm chân lý, trật tự cho đời sống nữa,
mà “chơi” cùng nó, chung sống an nhiên cùng nó... Đây cũng là những
đặc điểm nổi bật của cảm quan hậu hiện đại trong văn chương, như các
nhà nghiên cứu gần đây khái quát.
Lê Thị Hằng trong luận văn thạc sĩ Ngữ văn Một số đặc điểm của
văn xuôi Việt Nam sau 1985 (Qua những truyện ngắn và tiểu thuyết tiêu
biểu) viết: “Văn học sau 1985 nói chung và văn xi sau đổi mới nói
riêng phái gánh trên vai mình một trọng trách hết sức nặng nề. Đó là việc
tìm ra những vấn đề trở thành nhu cầu bức bách của cuộc sống, của con

người để giải quyết. Trong quá trình đi tìm hướng đi đúng đắn cho mình,
văn học phải không ngừng đổi mới. Muốn như vậy các nhà văn phải nhìn
nhận lại mình, phải biết phê phán những vấn đề chưa làm được của văn
học của giai đoạn trước đó, tìm cách khắc phục những hạn chế để phù


6

hợp với quá trình đổi mới văn học, mang đến văn học luồng sinh khí
mới”.
Khi nhìn lại chặng đường đã qua của văn xuôi, Tôn Phương Lan
khái quát: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải vốn gắn bó lâu năm với đề
tài chiến tranh, nay đi vào tâm lí xã hội cũng trăn trở trước bao số phận
con người trong đời thường sau chiến tranh. Ma Văn Kháng báo hiệu
những bi kịch gia đình và xã hội trước nguy cơ sụp đổ của những giá trị
đạo đức truyền thống trong sự tác động của mặt trái nền kinh tế hàng
hố, có chế thị trường bắt đầu hình thành.
Luận văn này khơng đi từ “mảnh đất trống” mà tham khảo ý kiến
của những người đi trước, giúp chúng tơi có định hướng cho luận văn, từ
đó tiếp thu và tiếp tục khám phá những mảng màu khác nhau trong bức
tranh chung về cuộc sống đô thị trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề đô thị và con người đô thị trong
tiểu thuyết sau 1986.
4. Phạm vi tư liệu khảo sát
Luận văn của chúng tơi chỉ giới hạn tìm hiểu về vấn đề cuộc sống
đô thị trong tiểu thuyết của những cây bút tiêu biểu như: Chu Lai, Trung
Trung Đỉnh, Ma Văn Kháng, Nguyễn Việt Hà, Tạ Duy Anh, Đỗ Vĩnh
Bảo, Nguyễn Bảo,…Đối với sáng tác của những nhà văn này chúng tôi
cũng chỉ chọn những tiểu thuyết thể hiện rõ vấn đề cuộc sống đô thị.


5. Phương pháp nghiên cứu
Khi Tiến hành đề tài này chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên
cứu cơ bản sau: Phương pháp so sánh – đối chiếu, phương pháp phân
loại – thống kê, phương pháp phân tích – tổng hợp.


7

6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn được triển khai trong 3 chương:
Chương 1: Cuộc sống đô thị - vấn đề được quan tâm đặc biệt trong
tiểu thuyết Việt Nam sau 1986.
Chương 2: Những vấn đề của cuộc sống đô thị được đặt ra trong
tiểu thuyết Việt Nam sau 1986.
Chương 3: Một số đặc điểm về hình thức thể hiện cuộc sống đô thị
trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986.

CHƯƠNG 1
CUỘC SỐNG ĐÔ THỊ - VẤN ĐỀ ĐƯỢC QUAN TÂM ĐẶC BIỆT
TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986
1.1. Khái niệm đô thị


8

Đơ thị hố là xu thế tất yếu của mọi quốc gia trên con đường phát
triển. Những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, ở những mức độ khác
nhau và với những sắc thái khác nhau, làn sóng đơ thị hố tiếp tục lan

rộng như là một q trình kinh tế, xã hội tồn thế giới - q trình mở
rộng thành phố, tập trung dân cư, thay đổi các mối quan hệ xã hội; quá
trình đẩy mạnh và đa dạng hố những chức năng phi nơng nghiệp, mở
rộng giao dịch, phát triển lối sống và văn hố đơ thị.
Q trình đơ thị hố ở Việt Nam tuy diễn ra khá sớm, ngay từ thời
trung đại với sự hình thành một số đô thị phong kiến, song do nhiều
nguyên nhân, q trình đó diễn ra chậm chạp, mức độ phát triển dân cư
thành thị thấp. Thập kỷ cuối thế kỷ XX mở ra bước phát triển mới của đô
thị hoá ở Việt Nam. Đặc biệt, sau khi Quốc hội Việt Nam ban hành Luật
Doanh nghiệp (năm 2000), Luật Đất đai (năm 2003), Luật Đầu tư (năm
2005); Chính phủ ban hành Nghị định về Qui chế khu công nghiệp, khu
chế xuất (năm 1997)… nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài tăng vọt, gắn theo đó là sự hình thành trên diện
rộng, số lượng lớn, tốc độ nhanh các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
đô thị mới và sự cải thiện đáng kể kết cấu hạ tầng ở cả thành thị và nông
thôn. Làn sóng đơ thị hố đã lan toả, lơi cuốn, như thổi luồng sinh khí
mới và tác động trực tiếp đến nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt
Nam.
Một đô thị hay khu đơ thị là một khu vực có mật độ gia tăng các
cơng trình kiến trúc do con người xây dựng so với các khu vực xung
quanh nó. Các đơ thị có thể là thành phố, thị xã, trung tâm dân cư đông
đúc nhưng thuật từ này thông thường không mở rộng đến các khu định
cư nông thôn như làng, xã, ấp. Các đô thị được thành lập và phát triển
thêm qua q trình đơ thị hóa. Đo đạt tầm rộng của một đơ thị sẽ giúp
ích cho việc phân tích mật độ dân số, sự mở rộng đơ thị, và biết được các


9

số liệu về dân số nông thôn và thành thị. Không như một đô thị, một

vùng đô thị không chỉ bao gồm đơ thị mà cịn bao gồm các thành phố vệ
tinh cộng vùng đất nông thôn nằm xung quanh có liên hệ về kinh tế xã
hội với thành phố đô thị cốt lỏi, tiêu biểu là mối quan hệ từ công ăn việc
làm đến việc di chuyển hàng ngày ra vào mà trong đó thành phố đơ thị
cốt lỏi là thị trường lao động chính. Thấy rõ các đơ thị thường kết hợp và
phát triển như trung tâm hoạt động kinh tế, dân số trong một vùng đô thị
lớn hơn.
Định nghĩa về đơ thị thì khác nhau tại các quốc gia khác nhau.
Thông thường mật độ dân số tối thiểu cần thiết để được gọi là một đô thị
phải là 400 người trên một cây số vuông hay 1000 người trên một dặm
vuông Anh. Các quốc gia châu Âu định nghĩa đô thị dựa trên cơ bản việc
sử dụng đất thuộc đơ thị, khơng cho phép có một khoảng trống tiêu biểu
nào lớn hơn 200 mét. Dùng không ảnh chụp từ vệ tinh thay vì dùng
thống kê từng khu phố để quyết định ranh giới của đô thị. Tại các quốc
gia kém phát triển, ngoài việc sử dụng đất và mật độ dân số nhất định
nào đó, một điều kiện nữa là phần đông dân số, thường là 75% trở lên,
khơng có hành nghề nơng nghiệp hay đánh cá. Để thấy rõ hơn khái niệm
đô thị ở các quốc gia khác, khảo sát một số nước với khái niệm đô thị ta
sẽ thấy rõ hơn khái niệm đô thị ở Việt Nam.
Tại Úc, các đô thị thường được ám chỉ là các "trung tâm thành thị"
và được định nghĩa như là những khu dân cư chen chúc có từ 1000 người
trở lên và mật độ dân cư phải tối thiểu là 200 người trên một cây số
vuông. Tại Canada, một đơ thị là một vùng có trên 400 người trên một
cây số vuông và tổng số dân phải trên 1.000 người. Nếu có hai đơ thị
hoặc nhiều hơn trong phạm vi 2 km của nhau, các đô thị này được nhập
thành một đô thị duy nhất. Các ranh giới của một đô thị không bị ảnh
hưởng bởi ranh giới của các khu tự quản (thành phố) hoặc thậm chí là


10


ranh giới tỉnh bang. Tại Trung Quốc, một đô thị là một khu thành thị,
thành phố và thị trấn có mật độ dân số hơn 1.500 người trên một cây số
vng. Đối với các khu thành thị có mật độ dân số ít hơn 1.500 người
trên một cây số vng thì chỉ dân số sống trong các đường phố, nơi có
dân cư đơng đúc, các làng lân cận nhau được tính là dân số thành thị. Tại
Pháp, một đơ thị là một khu vực bao gồm một vùng phát triển do xây cất
(gọi là một "đơn vị thành thị" - gần giống như cách định nghĩa của đô thị
Bắc Mỹ và các vùng vành đai ngoại ô). Tại Nhật Bản, các đô thị được
định nghĩa như là các vùng cận kề nhau gồm các khu dân cư đông đúc.
Điều kiện cần thiết là đơ thị phải có mật độ dân số trên 4.000 người trên
một cây số vuông. Tại Ba Lan, định nghĩa chính thức về "đơ thị" đơn
giản là ám chỉ đến các địa phương có danh xưng là thị trấn, thành phố.
Vùng "nông thôn" là những vùng nằm ngoài ranh giới của các thị trấn
này. Sự phân biệt đơn giản này có thể gây lầm lẫn trong một số trường
hợp vì một số địa phương có danh xưng làng xã có thể có dân số đơng
hơn các thị trấn nhỏ. Tại Hoa Kỳ, có hai loại khu đơ thị. Thuật từ
urbanized area dùng để chỉ một khu đô thị có từ 50.000 dân trở lên. Các
khu đơ thị dưới 50.000 dân được gọi là urban cluster. Cụm từ Urbanized
areas được sử dụng lần đầu tiên tại Hoa Kỳ trong cuộc điều tra dân số
năm 1950 trong khi cụm từ urban cluster được thêm vào trong cuộc điều
tra dân số năm 2000. Có khoảng 1371 khu đơ thị trên 10.000 người tại
Hoa Kỳ. Cục điều tra dân số Hoa Kỳ định nghĩa một khu đô thị như
"những cụm thống kê cốt lõi có mật độ dân số ít nhất là 1.000 người trên
một dặm vuông Anh hay 386 người trên một cây số vuông và những cụm
thống kê xung quanh nó có tổng mật độ dân số ít nhất là 500 người trên
một dặm vuông hay 193 người trên một cây số vuông. Khái niệm về khu
đô thị được Cục điều tra dân số Hoa Kỳ định nghĩa thường được dùng
như thước đo chính xác hơn diện tích của một thành phố vì trong các



11

thành phố khác nhau cũng như tiểu bang khác nhau, đường phân giới
giữa các ranh giới thành phố và khu đơ thị của thành phố đó thường
khơng như nhau. Thí dụ, thành phố Greenville, South Carolina có dân số
thành phố dưới 60.000 nhưng khu đơ thị có trên 300.000 người trong khi
đó Greensboro, North Carolina có dân số thành phố trên 200.000 nhưng
dân số khu đô thị khoảng 270.000. Điều đó có nghĩa là Greenville thật sự
"lớn hơn" theo một số ý nghĩa và mục đích nào đó nhưng khơng phải
theo một số ý nghĩa và mục đích khác, thí dụ như thuế, bầu cử địa
phương. Khoảng 70% dân số Hoa Kỳ sống bên trong ranh giới của các
khu đô thị (210 trong số 300 triệu người). Tổng cộng thì các khu đơ thị
này chiếm khoảng 2% diện tích Hoa Kỳ. Phần lớn cư dân đô thị là những
người sống ở ngoại ô. Cư dân sống trong thành phố trung tâm cốt lõi
chiếm khoảng 30% dân số khu đô thị (khoảng 60 trong 210 triệu người).
Ở Việt Nam, theo nghị định số 72/2001/NĐ-CP ngày 5 tháng 10
năm 2001 của Chính phủ Việt Nam về việc phân loại đô thị và cấp quản
lý đô thị. Đô thị là khu dân cư tập trung có những đặc điểm sau: Về cấp
quản lí, đô thị là thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quyết định thành lập; Về trình độ phát triển, đơ thị phải đạt
được những tiêu chuẩn sau: Là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm
chun ngành, có vai trị thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả
nước hoặc một vùng lãnh thổ như: vùng liên tỉnh, vùng tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương hoặc vùng trong tỉnh, trong thành phố trực thuộc
Trung ương; vùng huyện hoặc tiểu vùng trong huyện. Đối với khu vực
nội thành phố, nội thị xã, thị trấn tỉ lệ lao động phi nông nghiệp tối thiểu
phải đạt 65% tổng số lao động; cơ sở hạ tầng phục vụ các hoạt động của
dân cư tối thiểu phải đạt 70% mức tiêu chuẩn, quy chuẩn thiết kế quy
hoạch xây dựng quy định cho từng loại đô thị, quy mơ dân số ít nhất là

4000 người và mật độ dân số tối thiểu phải đạt 2000 người/km².


12

Theo cách nghĩ đô thị như trên, Việt Nam phân vùng đô thị như
sau: Đô thị loại đặc biệt (2 thành phố): Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đơ thị loại 1 (10 thành phố): Hải Phòng; Đà Nẵng; Cần Thơ; Huế; Vinh;
Đà Lạt; Nha Trang; Quy Nhơn; Buôn Mê Thuột; Thái Nguyên. Đô thị
loại 2 (12 thành phố): Biên Hịa; Nam Định; Hạ Long; Vũng Tàu; Việt
Trì; Hải Dương; Thanh Hóa; Mỹ Tho; Long Xuyên; Pleiku; Phan Thiết;
Cà Mau. Đô thị loại 3 (38 thành phố, thị xã): Các thành phố còn lại, các
thị xã: Thủ Dầu Một; Châu Đốc; Bà Rịa; Bạc Liêu; Sa Đéc;Cửa Lò; Cam
Ranh; Vĩnh Long; Cao Lãnh; Sóc Trăng. Đơ thị loại 4: Các thị xã cịn lại
và một vài thị trấn lớn. Đơ thị loại 5: Các thị trấn.
1.2. Bối cảnh lịch sử và sự thay đổi tư duy, cảm hứng trong văn học
1.2.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội
Bước ra từ hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, chống Pháp và
chống Mĩ, đất nước ta hoàn toàn thống nhất, Bắc – Nam sum họp một
nhà. Trong chiến tranh trọng trách của mỗi người là ý thức giữ gìn và
bảo vệ non sơng đất nước, hồn thành sứ mệnh mà lịch sử giao phó, thì
sau năm 1975 cuộc sống hồ bình đã trở lại, bài ca khải hoàn ấy đã mở
ra một kỷ nguyên mới, vận hội mới, nhiều tiềm lực mới được phát hiện
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cả nước lúc bây giờ lại phải
đương đầu với những cam go thử thách mới, không kém phần khốc liệt:
vừa bảo vệ Tổ quốc, vừa xây dựng đất nước theo định hướng Xã hội chủ
nghĩa.
Năm 1986 là một mốc son mới của cả đất nước. Đại hội VI của
Đảng đã mở ra một thời kỳ mới cho lịch sử dân tộc. Đây là Đại hội của
thời kỳ mở cửa, thời kỳ đổi mới cho lich sử dân tộc. Thế nhưng, sau đổi

mới, nền kinh tế thị trường bộc lộ những mặt hạn chế, mặt trái của nó:
hiện tượng băng hoại về mặt đạo đức ngày càng nhiều, con người trượt
dài trên con đường tha hố, biến chất vì cám dỗ vật chất, khơng ít gia


13

đình đứng trước nguy cơ tan vỡ hạnh phúc, những chuẩn mực đạo đức
tốt đẹp của cha ông cũng đang dần bị phá vỡ, quan hệ giữa người với
người trở nên khơ cứng, căn bệnh “tiền tệ hố” ngày càng lan nhiễm
mạnh vào từng ngõ ngách gia đình, chen lẫn vào cuộc sống của cả cộng
đồng. Tất cả những biến động lớn về lịch sử xã hội đã kéo theo những sự
xáo trộn trong đời sống văn hoá của dân tộc.
Không thể phủ nhận sau chiến tranh cuộc sống đang dần dần hồi
sinh, mang lại hơi thở mới cho từng cá nhân, cho toàn dân tộc. Con
người đang dần hồi sinh trở lại, đón nhận cuộc sống mới và được sống là
chính mình, nhưng cũng chính điều đó đã làm cho cuộc sống mới trở nên
phức tạp và bề bộn hơn. Nhu cầu của cuộc sống liên tục thay đổi nhằm
đáp ứng yêu cầu và những tiêu chuẩn ngày càng cao của xã hội. Con
người lúc bấy giờ không phải như con người thời trước, khơng hồn tồn
giữ nét trong sáng, thánh thiện, vì mục đích cao cả, ln đặt chân lí làm
đầu, mà con người hiện đại nhiều mưu mơ, toan tính, vụ lợi và đa nghi
hơn rất nhiều. Cơ chế thị trường phát triển, cuốn theo cơn lốc cuộc cạnh
tranh về mọi mặt của đời sống, mối quan hệ giữa người với người ngày
càng nảy sinh nhiều mâu thuẫn, mang màu sắc toan tính hơn là mang giá
trị tình cảm. Gá trị đạo lí và tình cảm ngày càng bị xem nhẹ, người ta
sống vì danh lợi nhiều hơn là lí tưởng sống. Cuộc sống bon chen, vì
đồng tiền manh áo đẩy con người ta vào những bi kịch, khơng tìm được
lối thốt cho riêng mình.
Năm 1986 là dấu mốc quan trọng trong đời sống xã hội nói chung

và đời sống văn học nghệ thuật nói riêng. Đây là thời điểm ghi nhận sự
đổi mới tư duy trên các lĩnh vực, trong đó có văn học nghệ thuật. Khơng
khí cởi mở, dân chủ của đời sống văn học tác động mạnh mẽ đến chủ thể
sáng tạo với quan niệm mới về nhà văn, đến sự thay đổi quan niệm nghệ
thuật về hiện thực và con người, đến sự thay đổi thi pháp thể loại của các


14

thế hệ nhà văn Việt Nam tinh thần dân chủ đã tiếp thêm nguồn sức mạnh
cho đời sống văn hoá nước ta sau 1986 có nhiều khởi sắc. Nhu cầu nhận
diện đúng khuôn mặt của đời sống được quan tâm và trở nên bức thiết.
Giai đoạn sau 1986 như ngọn gió đổi mới đem đến sự thay đổi trong
nhận thức và sáng tác đa số của văn nghệ sĩ. Trong nghị quyết 05 của Bộ
chính trị về cơng tác văn hố văn nghệ (1987) đã mở ra một cách nhìn
mới về vị trí và chức năng của văn nghệ. Nghị quyết nhấn mạnh: “Văn
học nước ta phải đổi mới tư duy, đổi mới cách nghĩ, cách làm”. Các nhà
văn cũng tự xác định “không thể viết như trước nữa”. Nguyễn Nghĩa
Trọng khẳng định “xu hướng phê phán vạch trần những cái xấu, cái ác,
cái hèn hạ, bất lương thiện ra trong nhiều tác phẩm”. Lúc này sự nói
thẳng nói thật về mọi vấn đề của cuộc sống được khuyến khích, chấp
nhận mọi phương pháp thể hiện đời sống nhưng phải đứng trên lập
trường và lợi ích của tồn dân. Chủ trương đổi mới đã thổi luồng sinh
khí mới, khơi dậy những tìm tịi, sáng tạo trong giới trí thức, văn nghệ sĩ,
tạo điều kiện cho văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng phát triển
mang những tố chất mới so với thời kì trước.
1.2.2. Sự chuyển đổi tư duy, cảm hứng trong văn học
Chiến thắng năm 1975 là một dấu mốc lớn trong lịch sử dân tộc.
Tuy không thật trùng khớp với những mốc lịch sử, nhưng mỗi bước
chuyển lớn của lịch sử đều tạo nên những chuyển động, tạo nên những

dấu ấn trong đời sống văn học. Do đó, có thể thấy, từ sau 1975, văn học
đã có những chuyển đổi mang ý nghĩa của một sự chuẩn bị , một giai
đoạn “bản lề” để đi tới công cuộc đổi mới toàn diện, sâu sắc đồng bộ với
sự đổi mới của đất nước từ sau 1986. Tư nhiên, để có được tư duy văn
học mới là cả một hành trình với nhiều “vấp váp và trả giá” (Nguyên
Ngọc) với những đóng góp âm thầm nhưng mạnh mẽ của nhiều thế hệ
nhà văn.


15

Cho đến khi khơng khí đổi mới thực sự tràn vào đời sống xã hội
và đời sống văn học, tiểu thuyết mới có điều kiện cân bằng trạng thái
tâm lý cho con người. Dòng tiểu thuyết “hướng nội” - tập trung khám
phá những bí ẩn, những gì tinh tế nhất trong tâm hồn con người đã xuất
hiện. Nhà văn Nguyên Ngọc ghi nhận: “Văn học chăm chú quan tâm hơn
đến con người với tư cách là một thế giới cá nhân phong phú, phức tạp,
đa dạng, đa chiều, đa tầng trong nhiều mối quan hệ cũng hết sức phức
tạp và đa dạng với tồn xã hội và với chính mình…”. Ngọn nguồn của sự
thay đổi ấy chính là sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật và quan niệm về
tiểu thuyết của các nhà văn. Nhà văn Lê Lựu khẳng định: “Bản chất con
người phải được nghệ thuật khám phá và miêu tả”. Ông thẳng thắn nhận
ra: “Những tác phẩm trước đó của tơi chưa chú ý nghiên cứu sâu tính
cách, tâm lý và quy luật phát triển của con người - nhân vật. Tôi tự bảo
không thể viết như cũ được”. Năm 1988, nhà văn Mạc Phi đã có ý thức
hướng tới một sự phát triển thể loại (tiểu thuyết) phong phú và đa dạng
qua cái nhìn mới mẻ về con người: “Con người trong tiểu thuyết ta ngày
hôm nay và sắp tới sống tất bật, ồn ào trong chiều rộng của thế giới bao
quanh… đồng thời cũng rất sâu sắc, rất đằm, trong chiều dày của tâm
trạng”. Vì vậy, nhà văn rất quan tâm đến hình thức “tiểu thuyết tâm

trạng”, “tiểu thuyết tự thú” và cho đây là “một hướng khai phá mang
nhiều hứa hẹn”. Nguyễn Minh Châu - nhà văn luôn trăn trở, âu lo và
chan chứa niềm tin về con người - đã thể hiện rõ quan niệm về đổi mới
tiểu thuyết: “Chúng ta tiếp thu các hình thức tiểu thuyết chính là để trở
về xem xét con người Việt Nam một cách sáng tỏ và để đào xới vào nó
sâu hơn”. Năm 1985, khi nghĩ về Tiểu thuyết và thực tại hôm nay, tác giả
Nguyễn Minh Tấn cũng đã khẳng định: “Tiểu thuyết có sức mạnh của
một vũ khí tầm xa, sức nổ mạnh. Nó có khả năng bao quát một mảng
hiện thực rộng lớn, tạo nên một bức tranh toàn cảnh của một giai đoạn,


16

một thời kỳ lịch sử. Nó có thể đặt ra những phương án có tầm cỡ chiến
lược, trải dài trong nhiều chiến dịch. Nó có sức đi vào một khía cạnh sâu
sắc của cuộc sống con người. Nó có sức khám phá những nguồn mạch
biện chứng của tâm hồn, soi sáng được cái Thịên và cái Ác, cái Cao cả
và cái Thấp hèn…”. Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm về sự “đẳng
hướng” ấy trong thi pháp tiểu thuyết ở góc nhìn tinh tế và sâu sắc hơn.
Ơng cho rằng, viết về người bình thường, viết về cuộc đời thường là vấn
đề mà những người viết tiểu thuyết không thể khơng quan tâm. Nhưng
theo ơng, “suy ra cho cùng, đó vẫn là cái ý hướng đào sâu vào hiện thực
ở cái tầng đáy của đời sống”. Quan niệm này được các nhà văn giai đoạn
sau 1986 vận dụng khá “triệt để” trong sáng tác. Không loại bỏ xu hướng
“hướng ngoại” và quan tâm hơn đến xu hướng “hướng nội”, tiểu thuyết
giai đoạn sau 1986 đã “xông vào” mọi ngõ ngách của đời sống xã hội,
đối thoại với đời sống, đối thoại với cuộc đời để nắm bắt được “cái hôm
nay bề bộn, ngổn ngang bóng tối và ánh sáng” (Nguyễn Khải), đồng thời
“lặn sâu” vào tâm hồn con người để lắng nghe tất cả những âm vang của
tiếng lịng bí ẩn trong con người (có tiếng yêu thương, có lời hờn giận,

có cả những quanh co, tính tốn ngấm ngầm…). Có thể nói, chưa bao
giờ những vấn đề thuộc về đời sống xã hội mà văn học quan tâm hiện lên
chân thực, sống động mà xót xa nhức nhối như thế trong tiểu thuyết. Bởi
các nhà văn đã khai thác đến các “tầng vỉa” của hiện thực đời sống qua
số phận con người, có khi qua những mảnh vỡ từ bi kịch làm người của
con người. Vì vậy, ta gặp trong tiểu thuyết hôm nay cái chật hẹp của “cõi
nhân gian” rộng lớn và cái mênh mông, thăm thẳm sâu của cõi lòng bé
nhỏ, qua số phận của những con người (Nhân vật Hồng, Tâm, Thuỷ,
Nhã, Bình trong tiểu thuyết Cơ hội của chúa; bà Son với những “tông
chi họ hàng” của dịng Trịnh Bá và Vũ Đình trong Mảnh đất lắm người
nhiều ma;ông Bằng, Lý, Cần trong Mùa lá rụng trong vườn; Nam, Thảo,


17

Bình, Hùng trong Phố; Đào Kim Tân, Đào Kim Tấn, Diệu Huyền, Cam,
Sơ trong Cõi tiền…). Mỗi số phận, mỗi cuộc đời trong cuộc sống thường
nhật này đều toát lên những vẻ hào quang hay bóng tối, sung sướng hạnh
phúc hay đau khổ tột cùng đều là một mảnh đời trong những mảnh đời
trong cuộc sống đô thị đầy rẫy cám dỗ này.
* Sự chuyển đổi tư duy nghệ thuật.
Cái mới phải kể đến đầu tiên là nhìn từ bình diện tư duy nghệ
thuật. Hiện thực cuộc sống thay đổi địi hỏi các nhà văn phải có cách tiếp
cận hiện thực phù hợp. Từ 1975 mà đặc biệt là từ 1986, văn học nước ta
từng bước chuyển sang giai đoạn đổi mới, vận động theo đúng hướng
dân chủ hóa, mang tính nhân bản, nhân văn sâu sắc.Nhìn chung, văn học
phát triển đa dạng hơn về đề tài, chủ đề phong phú và mới mẻ hơn về thủ
pháp nghệ thuật, cá tính sáng tạo và phong cách nghệ thuật của nhà văn
với nhiều tìm tịi và thể nghiệm mới. Cái mới đáng chú ý của văn học
giai đoạn này là tính chất hướng nội, đi vào hành trình khám phá nội tâm

khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận của con người. Tuy
nhiên, bên cạnh những mặt tích cực như vừa nói cũng đã nảy sinh những
khuynh hướng tiêu cực, những biểu hiện quá đà, thiếu lành mạnh. Văn
học có xu hướng nói nhiều tới mặt trái của xã hội, quan tâm đến đời sống
cá nhân của mỗi con người. Hiện thực bấy giờ không chỉ là hiện thực
cách mạng, các biến cố lịch sử và đời sống cộng đồng mà còn là hiện
thực của đời sống hàng ngày với các quan hệ thế sự vốn đã đa đoan đa
sự, phức tạp chằng chịt, đan dệt tạo nên những mạch ngầm của đời sống.
Hiện thực đó cịn nổi rõ lên những vấn đề riêng tư, số phận, nhân cách,
cả hạnh phúc lẫn bi kịch...Bức tranh hiện thực đời sống trong tính tồn
vẹn của nó đã mở ra những không gian vô tận cho văn học thoả sức
chiếm lĩnh, khám phá và khai vỡ từ những mạch nguồn cảm hứng.


18

Bên cạnh tư duy mới về cách nhìn nhận hiện thực đời sống, tư duy
về chủ thể nhà văn cũng có sự biến đổi. Vai trị chủ thể nhà văn được
nhấn mạnh và dành nhiều sự ưu ái, quan tâm. Nhà văn tự tin và mạnh
dạn đưa ngòi bút của mình đi tìm sự sáng tạo, tìm tịi khi viết về các đề
tài nóng bỏng, thời sự, đi sâu vào các vấn đề phức tạp của đời sống,
mạnh dạn đưa ra những kiến giải của mình trước những tình huống, sự
kiện và tìm tịi phần bí ẩn trong tính cách con người. Dường như mọi
vùng đất đều được khai phá, khơng cịn thấy vùng đất cấm kị với văn
học, những đề tài trước đây nhà văn một thời phải né tránh như cái xấu
hay cái tiêu cực thì nay lại như có sức hút mạnh mẽ ngịi bút của họ.
Từ 1986 đến nay, sự xuất hiện của những cây bút cũ như Nguyễn
Khải, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Lê Lựu,...bên cạnh những
cây bút mới có tên tuổi như Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Tạ Duy
Anh, Bảo Ninh,...đã khẳng định vị thế của văn xi nói chung và tiểu

thuyết nói riêng. Để thành cơng các nhà văn đã nổ lực rất nhiều trong đổi
mới tư duy, quan niệm, cách viết của mình. Giai đoạn sau 1986, văn xi
nói chung cũng như tiểu thuyết nói riêng có đời sống sơi động và gặt gái
được nhiều thành tựu cũng bởi xét từ phía người đọc có cách tiếp cận và
có một tư duy mới khi tiếp nhận. Khơng cịn những tác phẩm mang cảm
hứng sử thi, cảm hứng lãng mạn như trước 1975, bây giờ họ sẵn sàng
đón nhận những cách tân, đổi mới trong cách viết. Thị hiếu của người
đọc cũng rất đa dạng, họ đòi hỏi cao sự sáng tạo và tinh tế trong cơng
việc tạo ra những món ăn tinh thần cho họ.

* Sự chuyển đổi cảm hứng trong văn học.
Trong giai đoạn văn học 1945 – 1975, cảm hứng chủ đạo là cảm
hứng sử thi. Âm điệu vang lên trong những tác phẩm viết về công cuộc


19

chiến đấu và sản xuất là âm hưởng ngợi ca hào hùng. Sau năm 1975, văn
học trở về với cuộc sống đời tư, đời thường với muôn mặt phức tạp tốt
xấu, thiện ác đan xen trộn lẫn. Cảm hứng trong văn học lúc này không
phải là sự ngợi ca một chiều đầy nhiệt tình hào sảng như trước nữa mà
lắng lại những suy tư, phân tích cuộc sống và con người một cách toàn
diện, trọn vẹn: phê phán, chiêm nghiệm, trào lộng, bi kịch,...Và cũng
chính cuộc sống đời thường với bao khía cạnh phức tạp như vậy đã tạo
nên mơt phức hợp những tạp âm va đập vào người viết, thúc đẩy cảm
hứng sáng tạo của nhà văn phát triển phong phú, đa dạng hơn.
Với cách tân, đi tìm nguồn sáng tạo mới, những tu duy mới nhanh
chóng thấm sâu vào đời sống văn học, khơi nguồn cho một dòng chảy
mới, đầy sức sống. Cảm hứng sử thi, cảm hứng ngợi ca khơng cịn thích
hợp trong hiện thực phức tạp của đời sống kinh tế thị trường. Cuộc sống

hiện đại đối mặt với vô số vấn đề mới phát sinh ngày càng trở nên gay
gắt trong dư luận xã hội. Tất cả cái ngổn ngang của đời sống thường nhật
đi vào người viết, như thôi thúc họ khám phá. Họ nhanh chóng chiếm
lĩnh văn đàn bằng tư duy mới, cảm hứng mới trong sáng tạo nghệ thuật.
Mỗi tác phẩm của họ là mỗi khn mặt của mn hình đời sống, mang
hơi thở của thời kì đổi mới. Nhìn chung tiểu thuyết giai đoạn sau 1986
đã gia tăng thêm một số cảm hứng sáng tạo như cảm hứng chiêm nghiệm
quá khứ, cảm hứng phê phán, cảm hứng thân phận con người cá nhân.
Cảm hứng chiêm nghiệm quá khứ là cảm hứng sáng tạo mới thể
hiện trong nhiều tác phẩm. Cuộc sống hiện tại phảng phất ít nhiều dư âm
chiến tranh một thời hào hùng, vừa đau đớn. Tái hiện lại những mảng
màu của quá khứ, người đọc không dễ dàng chấp nhận kiểu tác phẩm chỉ
tái hiện lại lịch sử hai cuộc chiến bằng những tài liệu ghi chép. Chiến
tranh là một hồn cảnh đặc biệt mà ở đó mỗi số phận con người được đặt
trong hoàn cảnh thử thách khốc liệt nhất. Mặc dù cuộc kháng chiến


20

chống Mĩ kết thúc đã một phần tư thế kỉ nhưng dư âm của nó vẫn cịn
vang vọng mãi. Thời kì này văn xi chịu ảnh hưởng của sự khủng
hoảng xã hội gay gắt, là sự bế tắc về đường lối, kinh tế chậm phát triển
đã làm cho quần chúng mất lòng tin, bi quan trước thực trạng của xã hội.
Đây là thời kì bao cấp kéo dài, kìm hãm sự phát triển. Sự xuất hiện của
nạn tham ô, ỷ lại của một số cá nhân ngày càng phổ biến. Một số tác
phẩm tiếp tục viết về đề tài chiến tranh, lí giải sự chiến thắng và q
trình đấu tranh gian khổ, đau thương và mất mát của nhân dân ta. Những
trang viết giàu cảm xúc, mặc dầu rất hay và sâu sắc nhưng cũng không
mang lại được mấy sự chú ý. Ở thời kì này, trong tâm lí phổ biến của
toàn xã hội thấy xuất hiện nhu cầu truy tìm nguyên nhân của sự yếu kém,

xuống cấp. Trong văn xuôi, đặc biệt là tiểu thuyết đã xuất hiện những tác
phẩm phản ánh hiện thực theo hướng này được sự đón nhận và quan tâm,
chú ý.
Sau mười năm chiến thắng, những dư âm một thời vẫn còn vang
vọng, nhiều tiểu thuyết đã bắt đầu chú ý xây dựng những tình huống đầy
xung đột, gay cấn, đặt nhân vật vào những hoàn cảnh éo le, phơi bày
những số phận phức tạp của người lính trong chiến tranh và sau chiên
tranh. Dưới cái nhìn thẳng thắn, tiểu thuyết sau 1986 tập trung vào
những khoảnh khắc thường nhật của chiến tranh, xoáy sâu vào thế giới
nội tâm của nhân vật, vào những cảnh ngộ, hồn cảnh khác nhau và tìm
thấy những xung đột bên trong mỗi con người. Bước ra từ những người
nông dân chân chất, đến với cuộc sống mới đầy bon chen, vụ lợi. Cuộc
sống mới dường như cuốn con người trơi đi, nếu khơng có điểm dừng lại
hoặc bước nhẹ, dễ mà bị cuốn theo cơn lốc của cơ chế thị trường. Cách
nhìn chiến tranh với đơi mắt khác ngày hôm qua đã đem đến sức hấp dẫn
cho tiểu thuyết giai đoạn sau 1986. Cảm hứng chiêm nghiệm quá khứ đã
giúp người đọc nhìn nhận lại ngày hơm qua, rút kinh nghiệm cho cuộc


21

sống hôm nay, khẳng định vẻ đẹp chân – thiện – mĩ của người Việt Nam
trong hoàn cảnh bom rơi lửa đạn. Từ cuộc sống ngày hôm nay với những
hồi ức tươi đẹp đó, để họ khát khao sống, khát khao vươn tới một cuộc
sống ngày mai tươi đẹp hơn.
Xuất hiện bên cạnh cảm hứng chiêm nghiệm quá khứ, nổi bật
trong tiểu thuyết giai đoạn sau 1986 là cảm hứng phê phán. Cảm hứng
phê phán là cảm hứng chủ đạo của trào lưu văn học hiện thực phê phán
xuất hiện trong văn học nước ta giai đoạn 1930 – 1945 thời kì thực dân
nửa phong kiến. Giai đoạn sau 1986, cảm hứng phê phán trong văn xuôi

lúc đầu rải rác, sau đó ngày càng thể hiện sâu đậm. Sau chiến tranh, cuộc
sống trở lại thanh bình, ý thức cá nhân trỗi dậy. Cuộc sống hịa bình
nhưng hiện thực đời sống ngày càng trở nên phức tạp, nỗi lo cơm áo gạo
tiền, miếng cơm manh áo luôn thường trực, đè nặng lên nỗi lo toan trong
cuộc sống của mỗi người, tác động đến tình cảm, tư tưởng của họ.
Văn học sau 1985 nói chung và văn xi sau đổi mới nói riêng
phải gánh trên vai mình một trọng trách hết sức nặng nề. Đó là việc tìm
ra những vấn đề trở thành nhu cầu bức bách của cuộc sống, của con
người để giải quyết. Trong quá trình đi tìm hướng đi đúng đắn cho mình,
văn học phải khơng ngừng đổi mới. Muốn như vậy các nhà văn phải luôn
không ngừng khám phá, tìm ra lối đi đúng đắn, phải biết phê phán những
vấn đề trước đây các nhà văn trước chưa làm được, tìm cách khắc phục
những hạn chế để phù hợp với quá trình đổi mới văn học, mang đến cho
văn học luồng khơng khí mới mà trước đây chưa tìm thấy.
Tiếp xúc với những con người trong văn học sau 1986, ta càng
thấy rõ con người là tiểu vũ trụ khó nắm bắt vơ cùng. Với nhiều cung
bậc cảm xúc, nhiều trạng thái tâm lí khác nhau. Cái xấu - cái tốt, cái cao
cả - thấp hèn đan xen lẫn nhau trong cùng một con nguời. Quan niệm
nghệ thuật về con người đổi mới địi hỏi phải có cái nhìn, cái tả tận cảnh,


22

lột tả được hết những phương diện, muôn mặt của con người. Có thể nói
đây là thời kì văn học con người được soi chiếu từ trong nhiều tác phẩm,
được “nng chiều”, mổ xe nhiều khía cạnh nhất.
1.3. Cuộc sống đô thị - đề tài được nhiều nhà văn quan tâm
1.3.1. Nguyên nhân của sự quan tâm chú ý đến vấn đề đô thị
Từ sau 1986, sau mười năm của thời đại hịa bình, mọi thứ dường
như đã dần “thay da đổi thịt”, con người Việt Nam lúc này đã có cuộc

sống khác trước, suy nghĩ khác trước và hiện thực cũng khác trước. Kể
cả cuộc sống của nông thôn ngày nay khác nhiều so với đời sống nông
thôn trước đây. Những năm gần đây, các ngơi nhà ngói đã thay thế bằng
nhà cốt thép bê tông nhiều tầng. Người nơng dân giờ đã khơng cịn thơ
mộc như người nơng dân xưa. Sự thay đổi ấy hiện dần lên từ manh quần
tấm áo, lành lặn, sạch sẽ, trên nét mặt ngời sáng. Nhiều người đã dời bỏ
công việc nặng nhọc mà trước phải dùng sức lực lao động thủ công thì
giờ được thay thế bằng máy móc cơng nghiệp. Người ta có thời gian để
nghe đài đọc báo nhiều hơn, quan tâm đến đời sống chính trị nhiều hơn.
Từ đó trình độ dân trí của nơng dân được nâng cao. Trong không gian
thay đổi ấy, nền kinh tế thị trường lấn át vào đời sống của làng lên phố
thì hương đồng gió nội của miền q bình lặng cũng bay đi ít nhiều. Ai
cũng nhận thấy điều ấy. Đó là những vùng quê bị xẻ đất bán ruộng cho
các công ty nhà máy cơng nghiệp, gây ra khơng ít tâm lý trái chiều. Có
người lấy làm sung sướng, có người tỏ ra lo lắng, nuối tiếc một vùng quê
yên bình. Có những nơi khơng gian văn hố làng bị phá vỡ, quan hệ giữa
con người với con người bị đảo lộn, những nấc thang giá trị bắt đầu có
sự thay đổi…Từ đó tệ nạn xã hội cũng phát sinh nhiều. Và hàng ngày
cịn có biết bao chuyện buồn vui cứ diễn ra ở mỗi vùng đất q.
Đơ thị hóa là một quá trình tất yếu. Việc ngăn chặn các luồng di
dân từ nông thôn vào thành thị là không thực tế và không thể. Kinh


23

nghiệm của các nước cho thấy, chỉ có thể làm chậm lại chứ khơng thể
ngăn cản hồn tồn q trình đơ thị hóa và những luồng di dân của người
nghèo vào thành phố. Điều quan trọng là chính quyền các đô thị phải bắt
kịp được sự phát triển của các thành phố, tạo điều kiện để sự phát triển
được thực hiện trong tầm kiểm sốt. Cuộc sống đơ thị trở nên hấp dẫn và

cuốn hút hơn đối với muôn mặt của cuộc sống, con người muốn thay đổi
cuộc sống khi đặt bàn chân mình lên trên thành thị. Từ những miền quê
nghèo, người dân bước chân vào cuộc sống của phồn hoa đơ thị, với ước
vọng đổi đời, nhưng vịng xoay cuộc sống đã cuốn con người vào cơn
lốc của cơ chế thị trường thời mở cửa. Có thể đấy là bước ngoặt lớn thay
đổi vận mệnh con người, và cũng có thể đấy là bước chân hụt khi chạm
tới cuộc sống thành thị.
Theo Giáo sư Đặng Vũ Khiêu, nhà triết học, nhà nghiên cứu văn
hóa: “Dưới chế độ phong kiến, giữa nông thôn và thành thị là một
khoảng cách quá xa. Thời gian gần đây, đặc biệt trong quá trình cơng
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, chúng ta thấy nơng thơn đang xích
lại gần hơn với thành thị. Q trình đơ thị hóa nơng thơn đã biến nền sản
xuất nông nghiệp độc canh trở thành nền sản xuất hàng hóa đa ngành
nghề. Lối sống thành phố du nhập vào nông thôn rất nhanh, tác động lớn
tới cuộc sống, phong tục tập quán thôn quê Việt Nam và những giá trị
văn hóa truyền thống lâu đời”. Nếu như ở nơng thơn trước kia cịn nhiều
hủ tục, mê tín dị đoan thì nay đã bớt đi nhiều. Quá trình đơ thị hóa nơng
thơn đã đem lại rất nhiều thành tựu cho đất nước. Cái được là rất lớn.
Những gì tốt đẹp mà đời sống vật chất đem lại cho con người đã nảy sinh
dần dần trong nông thôn. Đời sống được nâng cao đã khiến cho người ta
xây dựng lại nhà cửa đẹp, khang trang hơn. Đường sá nông thôn được
trải nhựa, bê-tông sạch sẽ, đi lại thuận tiện. Người nông dân trước kia chỉ
quanh quẩn trong thôn làng, giờ mở rộng quan hệ ra bên ngoài. Tuy


24

nhiên, những nét đẹp truyền thống trong gia đình, họ hàng, làng xóm
láng giềng cũng có phần bị tổn hại; một bộ phận thanh niên ăn chơi ,đua
đòi; quan hệ con cái với cha mẹ trong một số gia đình ngày càng xa dần;

thế hệ trẻ tiếp thu nhanh xu thế hiện đại, ngược lại với đa phần người cao
tuổi cố giữ những giá trị truyền thống, dẫn tới những mâu thuẫn mới .
Theo Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Đạo Kính, Kiến trúc sư, Phó Chủ tịch
thường trực Hội Kiến trúc sư Việt Nam: “Một nghìn năm chế độ phong
kiến đã nhào luyện, tinh chế nên một sản phẩm cư dân đặc trưng, đó là
làng Việt. Năm mươi năm qua, cuộc Cách mạng Dân chủ Nhân dân và
Công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là thời kỳ đổi mới hiện
nay đã làm cho thôn quê biến đổi mạnh mẽ từ trong ra và từ ngồi vào.
Q trình đơ thị hóa, thơi thúc sự phát triển kinh tế chưa từng thấy, bắt
đầu thực sự can thiệp, tác động đến cơ sở xóm làng. Về phương diện
kiến trúc, rõ ràng nơng thơn đang ít dần những căn nhà hai mái thấp lè
tè, vươn lên xây nhà hai đến ba tầng hoặc hơn thế nữa. Việc ăn, ở, sinh
hoạt tiến dần tới kiểu đơ thị.”
Đơ thị hóa nơng thơn khơng chỉ là xây nhà cao tầng, thay đường
lát gạch bằng bê tông mà là một công cuộc vận động xã hội sâu xa và
đồng bộ. Đó là một q trình tiến tới sự ngang bằng dần các tiêu chuẩn
sống, tiện nghi sống giữa thôn quê và đô thị. Song, cùng với quá trình ấy
là cuộc cách mạng khoa học - công nghệ của phương thức sản xuất đặc
trưng nông thôn, gắn liền với đồng ruộng và đất đai, là những nỗ lực
nhằm duy trì mơi trường tự nhiên, mơi trường sinh thái nơng thơn.
Khơng có những nhân tố ấy, nơng thơn khơng cịn là nơng thơn nữa. Q
trình đơ thị hóa nơng thơn, đặc biệt là kiến trúc và qui hoạch, hiện vẫn
mang tính tự phát. Phó giáo sư, Tiến sĩ Lưu Đức Hải, Viện trưởng Viện
Qui hoạch Đô thị và Nông thôn, Bộ Xây dựng: “Trước khi chuyển sang
nền kinh tế thị trường, q trình đơ thị hóa ở Việt Nam diễn ra rất chậm


25

chạp, nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, nặng nề tính bao cấp và ảnh

hưởng của chiến tranh chậm thay đổi. Sau khi chuyển đổi cơ chế kinh tế
từ bao cấp sang nền kinh tế thị trường, q trình đơ thị hóa đã có những
chuyển biến nhanh hơn, đặc biệt trong những năm gần đây khi tình hình
cơng nghiệp hóa trên đất nước đang diễn ra mạnh mẽ. Tốc độ đơ thị hóa
(so với số dân) ở Việt Nam khá nhanh: 18,5% (năm 1989); 20,5%
(1997); 23,6% (1999) và nay là 25%.” Đơ thị hóa nơng thơn là một q
trình phát triển tất yếu của một quốc gia, đặc biệt đối với nước ta là nước
đang trong giai đoạn đầu của cơng cuộc cơng nghiệp hóa đất nước. Tốc
độ đơ thị hóa trong thời gian tới cịn diễn ra nhanh hơn nữa. Đơ thị hóa
đã, đang và sẽ mang lại các mặt tích cực như thúc đẩy phát triển kinh tế
xã hội rõ rệt, đồng thời nó cũng nảy sinh những mặt tiêu cực như thu hẹp
đất đai canh tác nông nghiệp, gây nguy cơ ơ nhiễm mơi trường. Q
trình đơ thị hóa nơng thơn hiện nay tập trung mạnh tại các đô thị lớn và
diễn ra không đồng đều giữa các vùng trong cả nước. Chất lượng và
trình độ đơ thị hóa nơng thơn cịn thấp. Cơ sở hạ tầng xã hội và kỹ thuật
đơ thị cịn yếu kém về chất lượng phục vụ so với yêu cầu. Định hướng
phát triển khơng gian khu vực được đơ thị hóa chưa rõ nét, đặc biệt còn
phát triển một cách tùy tiện, mang nặng tính hình thức đơ thị, chưa thực
sự giải quyết vấn đề cốt lõi của đơ thị hóa đối với khu vực dân cư hiện
có: chưa gắn kết chất lượng đơ thị với giữ gìn bản sắc, kiến trúc truyền
thống trên cơ sở đảm bảo điều kiện tiện nghi cuộc sống đô thị cho người
dân và đảm bảo phù hợp về cảnh quan đơ thị.
Sau chiến tranh, tình hình xã hội nước ta với nhiều tồn tại mặt trái
đôi lúc bộc lộ ngày càng găy gắt. Về mặt chính trị, nhà nước ta kiên định
đi theo con đường XHCN nhưng trên tinh thần dân chủ, xây dựng nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quan hệ địch – ta khơng cịn
gay gắt mà thay vào đó là hịa bình, hợp tác, đơi bên cùng có lợi. Về mặt



×