Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

NGHỆ THUAT TRẦN THUẬT TRONG t NGẮN n m CHÂU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.92 KB, 34 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn lớn của nền văn
học Việt Nam hiện đại nửa sau thế kỷ XX. Là một cây bút trẻ, sung sức,
trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ và phát triển trong thời kỳ đổi
mới. Hành trình sáng tạo nghệ thuật của ơng được chia thành hai giai đoạn
trước và sau 1975. Ở giai đoạn sáng tác nào cũng thể hiện ông là cây bút đầy
tài năng, tâm huyết, luôn trăn trở trong lao động và sáng tạo nghệ thuật.
Những tác phẩm của ông là một chỉnh thể nghệ thuật thống nhất của một quá
trình liên tục đổi mới thể hiện ở khả năng tự vượt mình để hướng tới sự sâu
sắc và hồn thiện.
1.2. So với các nhà văn trong bước đầu đổi mới, Nguyễn Minh Châu là
người đi tiên phong không phải bằng những tun ngơn ồn ào mà bằng
những tác phẩm có giá trị, đặt ra nhiều vấn đề cốt tử cho sự phát triển văn
học. Giai đoạn trước 1975, Nguyễn Minh Châu đã khẳng định được vị trí
xứng đáng của mình trong nền văn xuôi chống Mỹ. Nhưng sự nghiệp sáng
tác của ông nếu nói là đạt được những thành công lớn trên bước đường nghệ
thuật, thì phải kể đến những sáng tác sau 1975. Đó là những bước tiến về tư
duy nghệ thuật, giúp ông trở thành một cây bút tiên phong mở đường "tinh
anh và tài năng" cho một thời đại văn học mới. Chính vì vậy, các sáng tác
sau 1975 của Nguyễn Minh Châu ln địi hỏi những nhà nghiên cứu không
ngừng khám phá, vừa để khẳng định vị thế của nhà văn trên văn đàn, vừa để
góp phần khẳng định những thành tựu mà văn học Việt Nam đã đạt được
trong quá trình chuyển mình và đổi mới.
1.3. Tác phẩm của Nguyễn Minh Châu nói chung, truyện ngắn sau 1975
nói riêng đã được đưa vào chương trình mơn văn từ bậc phổ thơng đến bậc
đại học. Vì vậy, tìm hiểu đề tài "truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975"
sẽ góp phần thiết thực cho việc nghiên cứu và giảng dạy tác phẩm của
Nguyễn Minh Châu thêm sâu sắc và có chất lượng hơn.

1




2. Lịch sử vấn đề
Tiến hành nghiên cứu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu sau 1975 là khám phá sự thống nhất mà các truyện
ngắn sau 1975 của ơng đã tạo ra. Qua đó chúng ta nhận ra sự xuyên suốt của
một cái nhìn về con người và cuộc sống cũng như những phương diện chính
yếu về tư duy nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu.
Trong phạm vi khảo sát liên quan đến đề tài chúng tôi chỉ nhắc đến
những bài nghiên cứu theo hai xu hướng: Các bài viết, cơng trình khoa học,
cuộc hội thảo đề cập đến những đổi mới của truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu. Và các bài nghiên cứu một số phương diện nghệ thuật truyện ngắn sau
1975 của ông.
Xu hướng thứ nhất: Các bài viết, bài nghiên cứu, cuộc hội thảo đề cập
đến những đổi mới của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975.
Sau khi tiểu luận Viết về chiến tranh được đăng trên Tạp chí Văn nghệ
quân đội số 11 – 1978, với sự đổi mới tư duy nghệ thuật được thể hiện qua
các sáng tác từ Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Khách ở
quê ra, dư luận bạn đọc đã có những ý kiến khác nhau mà "cuộc trao đổi về
truyện ngắn những năm gần đây của Nguyễn Minh Châu" do tuần báo Văn
nghệ tổ chức vào tháng 6 – 1985 đã thể hiện tương đối đầy đủ. Điều nổi lên
ở cuộc hội thảo này là sự khác nhau giữa hai luồng ý kiến:
Thứ nhất, là các ý kiến đánh giá cao sự tìm tịi, đổi mới của Nguyễn
Minh Châu. Nhà văn Lê Lựu khẳng định: Nguyễn Minh Châu "nhìn đâu
cũng ra truyện ngắn". Chỉ với "những cái tưởng như bình thường, lặt vặt
trong đời sống hàng ngày, dưới con mắt và ngòi bút của Nguyễn Minh Châu
đều trở thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lý" (Tơ Hồi). Ơng
là nhà văn mà "cái đa giọng điệu, đa thanh của cuộc đời đã đi vào tác phẩm",
và do nhận thức "cái quyết định không phải là đề tài" nên "Nguyễn Minh
Châu dần dần tạo ra thế giới nghệ thuật cho riêng mình" (Phong Lê).

Thứ hai, là một số ý kiến tỏ ra nghi ngại, dè dặt về hướng tìm tịi đổi
mới của ơng. Bùi Hiển cho rằng, sự tìm tịi của ơng đã được đẩy "theo một
hướng có vẻ phức tạp hơn nhưng chưa chắc đã là sâu sắc hơn". Vì thế, trong
2


tác phẩm "cái niềm tin ấy phần nào như bị hẫng hụt, đồng thời hình tượng
quả có kém đi vẻ chân thực sinh động và sức mạnh thuyết phục". Hoặc "do
có điều gì bối rối trước hiện thực xã hội diễn biến phức tạp" nên "người đọc
rất khó nắm bắt chủ đề của thiên truyện" (Xuân Thiều). "Một số nhân vật
được xây dưng có tính chất khiên cưỡng", "độc đáo nhưng hơi cá biệt", "cảm
hứng của tác giả hơi gán ghép" (Phan Cự Đệ). Có ý kiến cho rằng các truyện
ngắn của ơng "bị rối, hơi có phần khó hiểu" (Vũ Tú Nam, Đào Vũ),
"nghiêng về những nhân vật dị thường" (Nguyễn Kiên). Điều đáng chú ý là
ở ngay trong các ý kiến xem ra còn nghi ngại, dè dặt này, hầu như ai cũng
đều thừa nhận nét mới của ông không chỉ so với mọi người mà còn so với
chính ơng trong thời kỳ trước đó.
Mai Hương trong bài "Nguyễn Minh Châu và di sản văn học của ông",
Tạp chí Văn học, số 1 – 2001 đã khẳng định: "Nguyễn Minh Châu là cây bút
tiêu biểu của nền văn xuôi chống Mỹ, đồng thời là người mở đường tinh anh
và tài năng, người đi được xa nhất trong cao trào đổi mới văn học đương đại
[37, tr.138].
Trong bài "Những đổi mới về thi pháp trong sáng tác của Nguyễn Minh
Châu sau 1975", trích trong cuốn Nguyễn Minh Châu về tác gia và tác phẩm,
Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 2004, Nguyễn Tri Nguyên đã nhận định: "Cùng với
nhiều nhà văn cùng thế hệ trẻ hoặc trẻ hơn, Nguyễn Minh Châu đã góp phần
đổi mới nền văn học nước nhà sau 1975, từ nền văn học đơn thanh điệu
trong thi pháp thể hiện sang một nền văn học đa thanh điệu, phức điệu trong
thi pháp. Đó chính là kết quả của sự nghiệp đổi mới của đất nước, của nhân
dân, dưới sự lãnh đạo của đảng ta. Nền văn học đó ngày càng hiện thực hơn,

nhân đạo hơn và dân chủ hơn và vì thế có sức thuyết phục hơn" [31, tr.246].
Cùng chung với xu hướng nghiên cứu trên, trong công trình Nguyễn
Minh Châu và cơng cuộc đổi mới văn học sau 1975, Nxb Đại Học Sư Phạm
Hà Nội, 2007, Nguyễn Văn Long – Trịnh Thu Tuyết nhận xét: "Trong xu
hướng vận động chung của văn xuôi Việt Nam những năm sau chiến tranh,
Nguyễn Minh Châu thực sự trở thành một trong những người mở đường

3


xuất sắc bởi sự đổi mới điềm đạm nhưng toàn diện, sâu sắc trong cả tư tưởng
nghệ thuật lẫn sáng tác văn chương" [51, tr.66-67].
Xu hướng thứ hai: Các bài viết, cơng trình khoa học nghiên cứu phong
cách Nguyễn Minh Châu và một số phương diện nghệ thuật truyện ngắn sau
1975 của ông.
Trong bài "Bến quê một phong cách trần thuật giàu chất triết lý", Báo
Văn nghệ, số 8 – 1987, Trần Đình Sử đã khẳng định: "đặc sắc của tập Bến
quê, chủ yếu là sự thể nghiệm một hướng trần thuật có chiều sâu... hướng
sáng tác của anh rất có triển vọng. Chắc rằng anh sẽ cịn đóng góp nhiều hơn
nữa cho quá trình văn học hiện nay" [66].
Tập trung nghiên cứu phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, tác
giả Tơn Phương Lan với cơng trình nổi bật Phong cách nghệ thuật Nguyễn
Minh Châu – sự hình thành và những đặc trưng, Nxb Khoa học xã hội,
1999, đã đi vào tìm hiểu quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu và sự
triển khai quan điểm ấy vào văn bản tác phẩm. Q trình nghiên cứu tồn bộ
sáng tác của Nguyễn Minh Châu ở cả hai giai đoạn, tác giả cơng trình đã
nhận thấy: "phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu chỉ thực sự được hình
thành vào đầu những năm 80, cho đến thời điểm ông mất dăm ba năm, với sự
thăng hoa của ngịi bút, phong cách đó mới phát triển và đang dần đến độ chín"
[44, tr.27].

Tác giả Bùi Việt Thắng trong bài "vấn đề tình huống trong truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu", trích trong cuốn Nguyễn Minh Châu về tác gia
và tác phẩm, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 2004, đã có sự so sánh giữa hai tác giả
Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp trong vấn đề tạo dựng tình
huống: "khác với Nguyễn Huy Thiệp thường tạo ra tính bất ngờ cho tình
huống (ví dụ: Sang sơng), thì Nguyễn Minh Châu trái lại, cố gắng tạo tính
chất tự nhiên cho tình huống. Vì thế truyện ngắn Nguyễn Minh Châu như
một "mũi khoan" ngày càng xoáy sâu vào người đọc, càng về cuối càng tập
trung. Tình huống trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp mang "sức nổ"
còn truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu là "sức xoáy" [31, tr.314].

4


Qua khảo sát một số bài viết và ý kiến đánh giá của các tác giả nêu
trên, nhìn chung các bài viết đã đánh giá đúng tài năng của Nguyễn Minh
Châu và nghệ thuật truyện ngắn của ơng. Nhưng tình hình trên cũng cho
thấy, các bài viết dường như chỉ tập trung vào một hoặc một vài phương diện
nghệ thuật nào đó của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Cho đến nay, vẫn
chưa có một cơng trình nào đặt vẫn đề thế giới nghệ thuật truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu như một đối tượng nghiên cứu chỉnh thể, chuyên biệt..
Trên cơ sở tiếp thu những thành quả nghiên cứu của những người đi trước,
chúng tôi sẽ cố gắng nhận diện những giá trị và đặc điểm chủ yếu của thế
giới nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 một cách chỉnh
thể, toàn vẹn.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đặt truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trong bối cảnh chung của
truyện ngắn Việt Nam sau 1975, để từ đó thấy được vai trị, vị trí và những
đóng góp của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 trong tiến trình đổi
mới văn học sau 1975.

3.3. Nhận diện, tìm hiểu những đặc điểm thi pháp của truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu sau 1975 ở các phương diện: cốt truyện, tình huống và
nghệ thuật trần thuật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đúng như tên gọi, Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận là nghệ thuật
trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Do mục đích nghiên cứu quy định, đề tài tập trung khảo sát toàn bộ
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 được in trong Tuyển tập truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu, Nxb Văn học, Hà Nội, 2006. Trong q trình tìm
hiểu, chúng tơi có đối chiều thêm một số truyện ngắn và tiểu thuyết trước
1975 của Nguyễn Minh Châu để từ đó thấy được q trình vận động và đổi
mới tư duy nghệ thuật của ông.

5


5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài nghệ thuật trần thuật trong truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975, chúng tôi vận dụng một số phương
pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp tiếp cận, hệ thống.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được
triển khai trong 2 chương:
Chương 1: Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trong bối cảnh truyện ngắn
Việt Nam sau 1975

Chương 2: Nghệ thuật trần thuật truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau
1975

6


Chương 1
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU TRONG BỐI CẢNH
TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975
1.1. Bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam sau 1975
Ba mươi năm, cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc Việt Nam đã
kết thúc bằng một mốc sơn chói lọi, đại thắng mùa xuân năm 1975. Sự kiện
lịch sử trọng đại này đã mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân
tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chiến thắng đã có ý nghĩa to lớn đối với sự
nghiệp đấu tranh bảo vệ đất nước của toàn dân tộc. Tuy nhiên, với một đất
nước nhỏ bé đã anh dũng giành được thắng lợi qua hai cuộc kháng chiến
chống đế quốc. Chúng ta đã phải dồn hết tất cả cho cuộc kháng chiến. Việc
xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những năm đầu hoà bình khơng phải dễ
dàng gì. Nhất là với một đất nước vừa bước ra khỏi chiến tranh với bao
thương tích nặng nề. Đối với đất nước là "ngổn ngang bao vấn đề, xố bỏ
khoảng cách cịn lại, từ tư tưởng, lối sống và chính kiến, khắc phục tàn dư
lối sống cũ, hàn gắn vết thương chiến tranh và bước vào xây dựng đời sống
mới". Song "cái mảnh đất bao lớp người liên tiếp đổ xương máu giành được
độc lập, xưa nay đất dưới chân người thắng giặc có bao giờ nở sẵn đầy hoa"
(Nguyễn Minh Châu). Khó khăn lớn của một đất nước vừa mới được giải
phóng như là một lời thách thức, "như một thứ chiến trường mới, lập tức mở
ra trên vùng chiến trường cũ", đòi hỏi con người phải đầy đủ nghị lực và trí
tuệ mới vượt qua được. Đúng như Nguyễn Minh Châu đã từng đề cập đến
trong tiểu thuyết Miền cháy


Sau 1975 cũng là giai đoạn mà những dư âm

của cái cao cả, của anh hùng ca và cái ta cộng đồng bắt đầu bộc lộ những bất
ổn và đổi thay. Nếu trước chiến tranh, mọi quan hệ của con người đều được
đặt trong mối quan hệ cao nhất đó là tình u tổ quốc, thì sau chiến tranh
con người phải đối diện với những mối quan hệ xã hội phức tạp. Nếu trong
chiến tranh con người luôn đối diện với bom đạn, luôn phải phấp phỏng trong
mỏng manh của sự sống và cái chết, giữa anh dũng và hèn nhát, thì trong thời
bình, dù khơng cịn cái ác liệt của chiến tranh nhưng hiện thực cuộc sống cũng
7


khơng đơn giản một tý nào. Vì vậy, con người trong xã hội ln phải cố tìm
kiếm cho mình một điểm tựa vừa để khỏi tự đánh mất mình, nhưng mặt khác
con người cũng bị cuốn hút bởi những phức tạp và tiêu cực của đời thường.
1. 2. Bức tranh truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Nếu trước 1975, để tái hiện lại khung cảnh hoành tráng với cuộc chiến
đấu anh dũng của nhân dân ta, các nhà văn thường tìm đến với những tiểu
thuyết. Bởi nó là một thể loại tự sự cỡ lớn, có khả năng ơm trùm nhiều sự
kiện, chi tiết. Với những cuốn tiểu thuyết dài như Cửa Sơng (1966), Dấu
chân Người Lính (1972), của Nguyễn Minh Châu có thể dễ dàng miêu tả đầy
đủ cái khơng khí hào hùng của dân tộc. Cịn truyện ngắn nó chỉ là một lát cắt
của đời sống, khó khăn hơn cho việc dung nạp nhiều sự kiện nhiều chi tiết.
Nhưng cần phải khẳng định rằng: truyện ngắn với ưu thế của thế loại, "Nó tự
hàm chứa những cái thi vị, những điều sâu sắc trong một hình thức nhỏ gọn
và truyền dẫn cực nhanh thông tin mới mẻ. Chỉ trong vòng mười năm đầu
sau chiến tranh (1975 – 1985), truyện ngắn đã có những bước đi mới.
Truyện ngắn sau 1975 đã có sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất
lượng với đội ngũ sáng tác ưa tìm tòi và khám phá. Thời kỳ này ảnh hưởng
anh hùng ca với những dư âm chiến thắng vẫn còn vang vọng trong các tác

phẩm. Nhưng nhìn chung truyện ngắn sau 1975 đã có sự chuyển biến mạnh
mẽ trong việc khai thác tư tưởng, chủ đề mới và sự tìm tịi sáng tạo với
phong cách thể hiện mới.
Hiện tượng đáng chú ý nhất trong mười năm này là Nguyễn Minh Châu
với hai tập truyện ngắn xuất sắc Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành
(1983) và Bến quê (1985). Báo Văn nghệ đã tổ chức một cuộc hội thảo luận
về truyện ngắn của ông. Các ý kiến khen chê phong phú và trái chiều nhau
nhưng thống nhất ở một điểm - khẳng định sự tìm tịi và đóng góp của nhà
văn để đổi mới văn học, để tạo ra chất lượng cao của truyện ngắn. Giai đoạn
này có những tác giả viết khỏe trong vòng mười năm in năm tập truyện là
Dương Thu Hương, Nguyễn Mạnh Tuấn, Lê Minh Khuê.

8


Nhìn chung trong mười năm đầu sau chiến tranh (1975 - 1985), truyện
ngắn tập trung nghiên cứu về hiện trạng sau chiến tranh, tinh thần xã hội. Đó
là các hiện trạng phức tạp, đan xen các mặt tích cực và tiêu cực, tính chất
phức tạp của đời sống xã hội, kết quả tất yếu của hậu quả tàn dư chiến tranh
để lại. Thời kỳ này, "các nhà văn đã quan tâm đưa ngịi bút của mình tham
qua trợ lực vào cuộc giao tranh giữa cái tốt và cái xấu trong mỗi một con
người - một cuộc giao tranh khơng có gì ồn ào nhưng xảy ra từng ngày, từng
giờ và khắp các lĩnh vực của đời sống"
Các truyện ngắn đã đề cập đến những vấn đề gai góc của cuộc sống.
Đề tài đời tư - thế sự là đề tài nổi bật trong truyện ngắn giai đoạn này, càng
về sau đề tài này càng được phát huy trong hầu hết các truyện ngắn. Các
truyện ngắn đã len lỏi vào tận các ngõ ngách của đời sống, đã nhìn sâu hơn
vào các cảnh ngộ và số phận đời tư con người, tiêu biểu như: Nguyễn Minh
Châu viết Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Nguyễn Quang Thân viết
Người không đi cùng chuyến tàu, Lê Hoàng viết Lời cuối trong kịch bản... đã

phản ánh các sự kiện, hiện tượng của đời sống một cách trung thực nhất.
Các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu thời kỳ này đã đổi mới trên
nhiều phương diện từ đề tài, cảm hứng đến cách xây dựng nhân vật, khơng
gian, thời gian nghệ thuật, cốt truyện, tình huống, nghệ thuật trần thuật... Đổi
mới của Nguyễn Minh Châu cũng là sự đổi mới chung của văn học lúc bấy
giờ.
1. 3. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975
1.3.1. Vài nét về cuộc đời, con người
Nguyễn Minh Châu sinh ngày 20/10/1930, tại làng Thơi, xã Quỳnh
Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Làng Thơi chuyên làm nghề đánh cá
khơi và làm muối. Đây là một vùng quê nghèo, đời sống văn hố thấp.
Những cịn người vùng biển q ơng vốn là những con người "chất phác,
cục mịch, lực lưỡng như mọc lên từ sỏi đá. Rồi nhờ sóng gió bão táp mà
luyện thành xương sắt đa đồng. Những con người như thuộc về một thế giới
hoang sơ nào". Sau này Nguyễn Minh Châu đã từng viết về người dân dân
9


quê ông trong một số tác phẩm như: Cửa Sông, Mảnh đất tình yêu, Khách ở
quê ra, Phiên chợ Giát. Cho đến lúc sắp ra đi Nguyễn Minh Châu vẫn tâm
niệm một điều rằng "nếu tơi cịn sống, tơi sẽ viết tiếp truyện Lão Khúng".
Năm 1944- 1945, ông học trường kỹ nghệ Huế. Tháng 3/ 1945, sau
khi Nhật đảo chính Pháp, Nguyễn Minh Châu về quê học tiếp và tốt nghiệp
thành chung. Năm 1948- 1949, học chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng
Nghệ Tĩnh. Tháng 1/1950, nhập ngũ cùng năm vào đảng cộng sản Việt Nam.
Năm 1951, Học viên trường sỹ quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Năm 1960,
công tác tại phịng văn nghệ tổng cục chính trị qn đội nhân dân Việt Nam,
sau chuyển cơng tác về tạp chí Văn nghệ quân đội và phục vụ tại đây với tư
cách là nhà văn quân đội cho đến lúc mất. Ông mất vào ngày 23/1/1989 tại
Bệnh viện quân y 108, Hà Nội.

1.3.2. Quan niệm về nghề văn, viết văn
Có thể nói, đến với lao động nghệ thuật Nguyễn Minh Châu luôn đặt ra
cho mình sự nghiêm túc trong nghề văn. Ơng đã sớm khẳng định rằng:
"khơng có một thứ nghề nào mà kết quả công việc lại cắt nghĩa rõ giá trị
chân thực của người làm ra nó như nghề viết văn. Nghề văn theo ơng là một
thứ nghề cao q mà qua các tác phẩm, nhà văn có thể chuyển tải những
quan niệm, tư tưởng, tình cảm, thái độ của mình về con người và hiện thực
cuộc sống.
Trong hồn cảnh đất nước chiến tranh, Nguyễn Minh Châu đến với
văn học khi cả nước đang dồn sức cho cuộc kháng chiến chống Mỹ. Văn học
thời kỳ này chịu sức ép lớn của quy luật lịch sử nghiệt ngã, khi mà cả dân
tộc đang dồn vào một con đường, "ấy là con đường ra trận, con đường cứu
nước". Vì vậy, chưa bao giờ bằng lúc này, thái độ của nhà văn trước vận
mệnh chung lại được đặt ra cấp bách và nghiêm khắc đến thế. Khi "mỗi nhà
văn, mỗi người đọc trong xã hội chúng ta đều có một mối quan tâm thường
trực về vận mệnh dân tộc mình, về số phận khát vọng của nhân dân trong
những năm đầy sóng gió. Đòi hỏi nguồn cảm hứng sáng tạo và nhân cách
của người cầm bút cũng bắt nguồn từ đó"
10


Trên nền của hiện thực ấy, nhà văn đã suy nghĩ rất nghiêm túc về lao
động nghệ thuật. Nghệ sỹ là người luôn sáng tạo ra cái đẹp cho đời. Đã là
một người nghệ sỹ chân chính phải có tâm, có trách nhiệm với đời. Tác
phẩm ra đời phải là sản phẩm tinh thần của một quá trình dài trăn trở, phải là
nguồn động viên lớn về tinh thần và phải nằm trong mạch chung của văn
học kháng chiến. Nhà văn phải thực sự tâm huyết với nghề, để những tác
phẩm viết ra "đừng nhạt nhẽo" và "người đọc có thể bắt gặp những dáng dấp
của họ trên trang sách". Chỉ có như vậy nhà văn mới có thái độ tỏ rõ sự trân
trọng đối với nghề văn của mình. Chính vì sự địi hỏi rất cao của bản thân,

Nguyễn Minh Châu khơng bao giờ tự bằng lịng với những gì mình có, ơng
ln day dứt, trăn trở, nghiền ngẫm là nguyên nhân tạo nên những "cơn cớ
thất thường" trong cuộc đời cầm bút
Trên cái hành trình đi tìm văn chương đích thực đó như cịn vang vọng
mãi lời nhắn nhủ của nhà văn cho thế hệ hôm nay và mai sau: "Hãy làm tất
cả, hãy lao động nghệ thuật nghiêm túc để có được một nền văn học đích
thực vì con người, đều có thể được sống n ổn trên Mảnh đất tình u".
1.3.3. Đóng góp của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975
Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn mà số phận cuộc
đời gắn liền với sự phát triển của văn xuôi những năm chống Mỹ cho đến
những năm đầu đổi mới. Bước chân vào làng văn khá muộn màng trong khi
những đồng nghiệp cùng thời đã có những hành trang đáng kể: Hồ Phương
với Thư nhà, Cỏ non, Xuân Thiều với Đôi vai, Nguyên Ngọc với Đất nước
đứng lên, Nguyễn Khải với Xung đột, Mùa lạc…là những thử thách lớn đối
với Nguyễn Minh Châu. Cũng như các nhà văn khác, Nguyễn Minh Châu
quan niệm "Văn học là vũ khí góp phần vào cuộc tái thiết và bảo vệ tổ quốc".
Ông đã cần mẫn đi xuống thao trường nơi những người lính ngày đêm tập luyện
chuẩn bị chiến đấu. Từ thực tế của cuộc sống đó đã giúp ơng có tư liệu viết bài,
lần đầu tiên được đăng trên báo, Tạp chí Văn nghệ quân đội.. Bắt đầu bằng
truyện ngắn đầu tay Sau một buổi tập ( 10/1960), tiếp đến là Đôi đũa trúc, Gốc

11


sắn, Đất quê ta,… lần lượt đã ra đời ghi nhận bước đầu sáng tác văn học của một
nhà văn chiến sỹ.
Trong những năm bom đạn chiến tranh ác liệt, Nguyễn Minh Châu đã
hăng hái đi xuống các đơn vị chiến đấu nơi những người lính hải quân khai
hỏa mở đầu cho chiến dịch, cho cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ông đã viết
bài gửi về tòa soạn những trang ghi chép cịn nóng hổi hơi thở cuộc sống

Hãy trở thành những chiến sỹ dũng cảm, Kỷ niệm hạm tàu, Trong ánh đèn
gầm. Tuy những trang viết khởi đầu chưa có gì gây được ấn tượng, nhưng nó
đã khẳng định được ý thức cầm bút đồng thời là vũ khí chiến đấu của một
nhà văn non trẻ mới vào nghề đã sớm ý thức được sứ mệnh cao cả của người
nghệ sỹ người ta không thể không nhắc đến Nguyễn Minh Châu với Cửa
sông (1967), viết về cuộc sống của một ngôi làng nhỏ ven sông trong những
năm chiến tranh phá hoại tàn bạo của đế quốc Mỹ và không thể khơng nhắc
đến Dấu chân người lính (1972) với khơng khí ào ào ra trận "Xẻ dọc trường
sơn đi cứu nước" của cả dân tộc.
Các truyện ngắn ra đời cũng là sự minh chứng cho ngòi bút Nguyễn
Minh Châu đã tham gia đắc lực vào cuộc "kháng chiến vệ quốc vĩ đại". Cảm
hứng chung trong các truyện là cảm hứng tự sự lãng mạn, cảm hứng này đã phát
triển thành chủ nghĩa anh hùng và giọng điệu chung trong các truyện ngắn trước
1975 là giọng điệu trang trọng ngợi ca xuất phát từ nhận thức và mục đích là
sáng tác để phục vụ chính trị.
1.3.3.1. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 được viết với cảm
hứng nhân sinh mới
"Cảm hứng là một trong những trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm,
xuyên suốt trong tác phẩm nghệ thuật, cảm hứng gắn liền với một tư tưởng
xác định, một sự đánh giá nhất định gây tác động đến cảm xúc người tiếp
nhận tác phẩm" [28, tr.44-45]. Biêlinxki coi cảm hứng là điều kiện không thể
thiếu của việc tạo ra những tác phẩm đích thực bởi nó "biến sự chiếm lĩnh
thuần túy trí óc đối với tư tưởng thành tình yêu dối với tư tưởng, một tình
yêu mạnh mẽ với khát vọng nhiệt thành".
12


Đối với các nhà văn cách mạng, do tiếp thu tư tưởng triết học MácLênin về mặt thế giới quan họ có tư tưởng tiến bộ hơn so với các nhà văn
hiện thực phê phán. Họ có cái nhìn thế giới trong sự vận động biến đổi và
phát triển. Họ có lý tưởng xã hội mới, xã hội chủ nghĩa trong đó con người

có cuộc sống tự do bình đẳng, cá nhân hiểu được con đường giải phóng áp
bức "ở đâu có áp bức là ở đó có đấu tranh". Vì vậy mà các tác phẩm của các
nhà văn cách mạng luôn thể hiện cảm hứng anh hùng, tác phẩm của họ
khơng những nhìn thấy con đường đó mà cịn tin tưởng ủng hộ vào cuộc đấu
tranh. Đây cũng là cơ sở của cảm hứng lãng mạn của dòng văn học cách
mạng Việt Nam ra đời. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đó cũng
chính là cảm hứng chủ đạo trong các sáng tác trước 1975 của Nguyễn Minh
Châu.
Trước 1975, những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu viết về người
lính, thường mang vẻ đẹp lãng mạn, chất thơ bay bổng. Truyền thống yêu
nước đã trở thành những nét tính cách của người dân Việt Nam, khiến cho
con người tự giác làm tất cả công việc, cống hiến tất cả, thậm chí hy sinh
tính mạng mình vì đất nước. Thời kỳ này nhân vật chủ yếu trong các tác
phẩm của ông là những người chiến sỹ trẻ như Lãm (Mảnh trăng cuối rừng),
Thụy (Bên đường chiến tranh), Sơn và Lê ( Những vùng trời khác nhau) và
những cô gái mang trong mình vẻ đẹp hình thể lẫn nội tâm như Nguyệt
(Mảnh trăng cuối rừng), Hạnh (Bên đường chiến tranh)… Tất cả đều được
Nguyễn Minh Châu miêu tả để phát hiện ra vẻ đẹp nội tâm con người.
Từ cái nhìn nhạy cảm đó, Nguyễn Minh Châu đã "quyết định xơng vào
cái mặt trận đạo đức". Tất cả truyện ngắn của ông thời kỳ này đều dựa trên
những cái nhìn đầy lạc quan với sự tinh tế của một nhà văn vốn nhạy cảm
trước cuộc sống hiện thực ông đã thấy rằng "Con người thời kỳ này người
tốt vẫn chiếm đa số. Nhưng họ ln có một cuộc đấu tranh giữa bản thân cái
thiện và cái ác, giữa lý trí và dục vọng, giữa cái riêng và cái chung bên trong
con người. Vì vậy khi nhận ra được điều này Nguyễn Minh Châu viết về đời
tư thế sự về đạo đức và tất cả mọi mối quan hệ phức tạp trong thời ký hậu
13


chiến. Với các truyện ngắn sau 1975, thành công chủ yếu của Nguyễn Minh

Châu là đem đến cho người đọc một cái nhìn mới về hiện thực đất nước sau
chiến tranh. Nhìn cuộc sống hàng ngày tưởng như bình yên nhưng thực chất
đằng sau cái bình yên ấy là tất cả các mối quan hệ xã hội phức tạp
Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu còn thể hiện những nghịch lý của đời
sống. Bến quê là truyện ngắn mà tác giả đã sáng tạo ra tình thế đặc biệt để
đặt nhân vật vào đó mà soi rọi vào thế giới bên trong của họ làm nổi bật lên
vấn đề tư tưởng của truyện.. Đó là ý muốn thức tỉnh mọi người phải dứt khốt
với những cái vịng vèo chùng chình mà chúng ta đang sa vào đường đời, để
hướng tới những giá trị đích thực vốn giản dị, gần gũi và bền vững"
Viết về đề tài đời tư thế sự được tác giả thể hiện qua một loạt truyện
ngắn: Mẹ con chị Hằng, Đứa ăn cắp, Lũ trẻ ở dãy K, Hương và Phai. Mỗi
truyện ngắn là sự tái hiện những mảnh đời, những số phận con người. Qua
đó nhà văn luận bàn về những vấn đề về đạo đức, nhân cách con người.
Viết về đề tài chiến tranh sau chiến tranh được thể hiện qua truyện ngắn
Mùa trái cóc ở Miền Nam. Truyện ngắn này đã xoay quanh vấn đề nhân
cách con người sau lửa đạn và lên án sự tha hóa của một số cán bộ có chức
quyền. Cỏ lau là một sự thật nghiệt ngã của những con người sống sót trở về
sau chiến tranh đã phải gánh chịu hậu quả q nặng nề. Chìm khuất sau đó là
biết bao nỗi sự đa đoan của cuộc đời và từng số phận con người, biết bao sự
hy sinh mất mát dang dở, chia lìa.
Viết về đề tài nơng thơn và người nông dân trong thời kỳ quá độ được
thể hiện qua truyện ngắn Phiên chợ Giát. Đây là thiên truyện tiếp nối ý đồ
của Nguyễn Minh Châu đã được khởi thảo từ Khách ở quê ra. Qua truyện,
Nguyễn Minh Châu đã khám phá những nét chủ yếu của người nông dân tư
hữu sản xuất nhỏ thời kỳ hậu chiến với những ưu, nhược điểm xây dựng xã
hội hiện tại nhưng cũng bộc lộ khá rõ những nét hạn chế .
Có thể nói rằng sau 1975, với cảm hứng nhân sinh mới mẻ. Nguyễn
Minh Châu đã thể hiện trong tất cả các truyện ngắn của ơng một tiếng nói
mới. Đó là những mối quan hệ phức tạp trong đời sống hàng ngày và mỗi
14



truyện ngắn là sự nhìn nhận vấn đề của cuộc sống, thể hiện những khía cạnh
khám phá tầng sâu bản chất xã hội và con người của nhà văn.
1.3.3.2. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 đã trình bày
những nhận thức mới về chiến tranh và số phận con người
Bên cạnh cảm hứng nhân sinh mới mẻ là một trong những đặc điểm về
nội dung nổi bật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, thì nhận thức mới
của nhà văn về chiến tranh và số phận con người cũng là một nội dung quan
trọng chi phối tồn bộ q trình sáng tác sau 1975 của ơng.
Trên cơ sở đó nhà văn đã khẳng định "đằng sau số phận của cộng đồng
là số phận của mỗi cá nhân. Với vấn đề chiến tranh chống Mỹ, cái đời sống
của ngày hơm nay nó bắt tôi phải quan tâm bởi văn học thời kỳ này phải lấy
số phận cá nhân làm gương soi của lịch sử và lấy nội tâm con người để nói
về cuộc sống chung
Một loạt tác phẩm sau 1975 của Nguyễn Minh Châu như Bức tranh,
Cỏ lau, Cơn giông, Mùa trái cóc ở miền nam, Người đàn bà trên chuyến tàu
tốc hành,…đã trình bày vấn đề nhận thức lại chiến tranh và số phận con
người. Trong các tác phẩm, cái anh hùng vẫn được ông thể hiện. Nhưng
đồng thời Nguyễn Minh Châu cũng đề cập sâu hơn những mặt trái của cuộc
chiến tranh. Đó là những mất mát hy sinh và nói đến tận cùng của nó. Chiến
tranh thực tế đầy khốc liệt và tàn nhẫn.
Truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành đã tái hiện lại một
khía cạnh khốc liệt, những hy sinh mất mát, những nỗi đau về tinh thần để
lại từ cuộc kháng chiến chống Mỹ qua dòng hồi tưởng của nhân vật Quỳ một
dòng hồi tưởng đi từ trong quá khứ, từ những năm chiến tranh đến hiện tại
để giãi bày nỗi lịng của mình cho những ai đã từng sống ở chiến trường.
Những câu hỏi khơng có lời giải đáp, mỗi bước đi của Quỳ là sự nối tiếp
cuộc hành trình đối với người đàn bà đã trải qua những đau thương mất mát
của chiến tranh và sự nhận thức lại bản thân mình trong ý thức mơ về một

giá trị tuyệt đối mà không thể đạt được.

15


Mỗi truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đề cập đến một phương diện
gai góc của cuộc sống. Khi trực tiếp, khi gián tiếp, dường như nhà văn đã có
sự tập trung cao độ với nỗ lực mong muốn của mình là trình bày trước người
đọc một cuộc sống đa dạng, phức tạp của con người sau chiến tranh. Với
những cố gắng hết mình, trong ba mươi năm cầm bút với một số lượng tác
phẩm để lại dù chưa nhiều: mười ba tập văn xi, một tập tiểu luận phê
bình…. Song với sự nỗ lực của bản thân, Nguyễn Minh Châu đã rất say sưa
trong lao động nghệ thuật một cách nghiêm túc và cần mẫn. Các tác phẩm
của ông từ khi ra đời đã được độc giả đón nhận một cách rất nồng nhiệt, trải
qua một thời gian dài những tác phẩm của ơng vẫn cịn sức sống mãnh liệt
và khơng bị chìm vào qn lãng.
Đóng góp truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu không những
được thể hiện ở nội dung mà còn được thể hiện rõ ở nghệ thuật, tạo nên
chỉnh thể thống nhất của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975. Với
những đóng góp lớn cho văn học nghệ thuật. Nguyễn Minh Châu đã vinh dự
nhận được những giải thưởng lớn cho sự nghiệp sáng tác của mình

16


CHƯƠNG 2
NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN
MINH CHÂU SAU 1975
2.1. Quan niệm về trần thuật
Trần thuật là một vấn đề phức tạp của tự sự đòi hỏi nghiên cứu công

phu trên nền tảng của lý luận văn học hiện đại. Khi tìm hiểu quá trình vận
động và đổi mới nghệ thuật trần thuật cũng chính là tìm hiểu sự chuyển đổi
trong quan điểm trần thuật từ khuynh hướng sử thi sang góc độ đời tư - thế
sự. "Trần thuật là phương diện cơ bản của thể loại tự sự, là việc giới thiệu
khái quát, thuyết minh miêu tả đối với nhân vật, sự kiện hoàn cảnh, sự vật
theo cách nhìn của chủ thể trần thuật" [28, tr.246].
Thực chất của trần thuật là một chuỗi các phát ngôn liên tục của chủ thể
nhằm miêu tả, kể chuyện, liên kết các nhân vật, các yếu tố trong tác phẩm
theo một tư tưởng nghệ thuật chủ đạo. Trần thuật gắn bó chặt chẽ với kết cấu
tác phẩm. Tác phẩm dù kể nhanh hay kể chậm, tuần tự theo tiến tình sự kiện
hay ngắt quãng các mảng thời gian theo những dụng ý nghệ thuật riêng thì trần
thuật vẫn là "cả một hệ thống tổ chức phức tạp nhằm đưa hành động lời nói
nhân vật vào đúng vị trí nó để người đọc có thể lĩnh hội theo ý định tác giả"
[28, tr.247].
Tìm hiểu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
sau 1975, luận văn sẽ đề cập tới một số phương diện của trần thuật như mối
quan hệ thái độ của người kể với hệ thống sự kiện trong tác phẩm qua một số
hình thức nghệ thuật trần thuật như: Điểm nhìn trần thuật, nhịp điệu trần thuật.
2.2. Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975
Trước 1975, quan điểm trần thuật của Nguyễn Minh Châu thời kỳ này
về cơ bản là quan điểm sử thi. Tác giả xuất phát từ quan điểm của dân tộc,
17


của cộng đồng mà miêu tả, kể chuyện và đánh giá hiện thực. Điểm nhìn trần
thuật hầu hết từ bên ngồi do tính chất "hướng ngoại" của nhân vật. Nhân
vật của Nguyễn Minh Châu thường xuất hiện ở ngôi thứ ba – một vị trí lý
tưởng cho sự chiêm ngưỡng sử thi, cho những hành động hướng ngoại. Đó
là những người pháo thủ trong Mùa hè năm ấy, là Nguyệt trong Mảnh trăng
cuối rừng, là Kinh, Lữ, Khuê trong Dấu chân người lính.. Hình tượng người

kể chuyện bao trùm khắp tác phẩm, từ lời dẫn chuyện đến thái độ kể và tả.
Đó là sự hiện diện cụ thể của tinh thần dân tộc, của khơng khí thời đại vào
tác phẩm. Có thể nhìn thấy ở người kể chuyện tính chất đại diện cho cộng
đồng chứ khó có thể đồng nhất với hình tượng tác giả trong tác phẩm với đời
sống tinh thần, đời tư và số phận của tác giả ở ngoài đời.
Sau 1975, dư âm hậu quả của chiến tranh cùng những vấn đề mới trong
cuộc sống thời bình địi hỏi văn học phải tìm đến những hình thức biểu hiện
mới. Những sáng tác theo quan điểm trần thuật sử thi tỏ ra khơng cịn phù
hợp, khơng đủ sức chuyển tải những vấn đề mới, bức thiết. Xuất phát từ
quan điểm nhân bản lấy con người làm đối tượng phản ánh, làm chuẩn mực
cao nhất đối với con người và văn học, nhằm mục đích phân tích và nghiên
cứu sâu sắc "con người trong con người". Nguyễn Minh Châu đã từng bước
chuyển từ quan điểm trần thuật sử thi sang góc độ đời tư thế sự. Khơng thể
ép nhân cách con người trong một "hành lang vừa hẹp vừa thấp" trong một
dòng chảy cố định của lịch sử văn học dân tộc, trong hệ quy chiếu của cái
chung cộng đồng. Con người luôn đồng thời vừa tồn tại trong thời gian,
khơng gian vật chất. Vừa bay bổng đắm chìm trong thời gian, không gian
của tâm linh mộng tưởng của hồi ức. Con người ln có trong mình cái "tơi"
và cái "nó" và sự đấu tranh giai dẳng và quyết liệt giữa chúng là điều mà một
nền văn học nhân văn đích thực phải tìm mọi cách để phản ánh trung thực.
Từ góc độ đời tư thế sự, từ quan điểm cá nhân mà đánh giá hiện thực.
Những truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu đã mang phong cách
trần thuật mới mẻ. Hình thượng tác giả xuất hiện tương đối bình đẳng trong
tác phẩm. Nếu trước đây từ miêu tả, kể chuyện đến bình luận ngoại đề… đều
18


là sự triển khai của chuỗi phát ngơn mang tính độc thoại của chủ thể trần
thuật. Tác giả đứng trên quan điểm cộng đồng để quan sát các nhân vật của
mình với khoảng cách sử thi, với một thái độ trân trọng ngưỡng mộ, thì nay

nhân vật khơng xuất hiện một cách đơn giản như một đối tượng để ngợi ca mà
là một đối tượng để nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích, đánh giá trong những mối
tương quan với những chuẩn mực giá trị mới. Nhân vật được chủ thể trần thuật
soi chiếu từ nhiều điểm nhìn trong các mối quan hệ khác nhau để tìm ra cốt lõi
bên trong bao gồm cả ánh sáng và bóng tối, cả cái hoàn thiện lẫn chưa hoàn
thiện.
Khảo sát truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975, luận văn đi vào tìm
hiểu những hình thức trần thuật sau:
2.2.1. Trần thuật thông qua nhân vật "người kể chuyện"
Đây thực chất là kiểu trần thuật từ ngơi thứ ba mà người kể chuyện
được "nhân vật hóa" trong vai trị người dẫn chuyện. Trong hình thức trần
thuật này, đối tượng trần thuật sẽ được quan sát từ nhiều góc độ khác nhau:
khi là sự hướng nội (nhân cách) như nhân vật Quỳ trong Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành, khi là quan sát bên ngoài từ người trần thuật như nhân
vật Tồn trong Mùa trái cóc ở miền nam. Do đó sự bộc lộ nhân cách sẽ được
đầy đủ và trung thực hơn. Trong các truyện ngắn loại này, tác giả phải thiết
kế một khung để tạo lập mối tương quan giữa nhân vật và người dẫn chuyện
có khi là sự hóa thân của chính tác giả.Trong các truyện ngắn của Nguyễn
Minh Châu người dẫn chuyện ít nhiều mang bóng dáng tư tưởng, tinh thần,
sự chiêm nghiệm nhận thức của chính tác giả.
Nhân vật nhà báo trong Mùa trái cóc ở Miền Nam là một người kể
chuyện như thế. Mang vai trò của một chủ thể trần thuật, anh ta quan sát tỷ
mỷ từ thân hình của Toàn với "nửa người trên mềm oặt như thân rắn nhoai
về phía trước, nửa người dưới vẫn cứng thẳng đơ như một chiếc compa".
Đến "bàn tay sắt" với những "ngón tay cứ mát rượi trong những cái vuốt ve,
có ngón cứ thít chặt lấy như một sợi dây buộc trong lúc ngón cái vơ cùng rắn
chắc cứ quặp chặt vào như mỏ một con chim ác". Từ nét mặt thờ ơ và
19



nghiêm khắc như của "đức thánh chí tơn" trước người mẹ tội nghiệp, đến cử
chỉ đê tiện ngửi nước mắt của người mẹ dính trên mái tóc của mình.
Qua sự quan sát sắc sảo của nhân vật nhà báo đã soi rõ bản chất của
một kẻ tàn ác và đê tiện. Đó là cái tàn ác lạnh lẽo của một kẻ khát thèm
quyền lực, sẵn sàng gạt bỏ tất cả, kể cả tình mẫu tử thiêng liêng nếu nó cản
trở hay vướng bận tới địa vị danh vọng.
Đứng cách đối tượng trần thuật bằng một nhân vật trung gian là người
dẫn chuyện. Nguyễn Minh Châu vừa có điều kiện đi sâu lột tả trạng thái tâm lý
bên trong của nhân vật (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) vừa có thể
quan sát ở những bình diện bên ngồi nhân vật rõ nhất là thông qua người kể
chuyện. Tác giả được "quyền" bày tỏ những nhận xét, những lời bình luận trực
tiếp thổ lộ những cảm xúc của nhân vật. Khi là căm phẫn ghê tởm (Mùa trái
cóc ở Miền Nam), khi là kính phục yêu mến (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc
hành).
2.2.2. Trần thuật theo ngôi thứ nhất
Văn học 1945 – 1975 đã xuất hiện khá nhiều cái "tôi" của chủ thể trần
thuật, của nhân vật nhưng thực chất vẫn là cái tôi hướng ngoại đại diện cho
cộng đồng. Phải đến thời kỳ sau 1975, khi ý thức về con người cá nhân trở
lại trong văn học với tất cả những gì nhân văn sâu sắc của nó. Cái "Tơi"
hướng nội, cái tơi đích thực của cá nhân mới thực sự được công nhận. Trong
ba tập truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, nếu xét theo tiêu chí
trên thì chỉ có ba truyện ngắn tiêu biểu cho lối trần thuật này: Cỏ lau, Bức
tranh, Một lần đối chứng là hồn tồn trần thuật theo ngơi thứ nhất khơng có
bất kỳ một người dẫn chuyện trung gian nào. Trong các truyện ngắn này, cái
tôi với tư cách là nhân vật chính đang tự kể về mình với ý thức hướng nội, tự
vấn hoặc chiêm nghiệm. Hình tượng tác giả trong những trường hợp này rất
phức tạp. Số phận, lập trường, trạng thái tư tưởng, tình cảm của tác giả có
những đặc điểm nào đấy đồng nhất hoặc giao hịa trong cái "tơi" của mình.
Cũng có khi chỉ để thể hiện cái "ngồi mình" cho trung thực trong màu sắc chủ
quan của ngôi thứ nhất.

20


Nhân vật người họa sỹ trong truyện ngắn Bức tranh đã tự đối diện với
lương tâm của mình, tự ý thức về cái lỗi lầm không thể nào sửa chữa được,
tự soi rọi trong những mảng sáng tối nội tâm mình dưới "luồng ánh sáng
hàng nghìn nến. Đơi mắt mở to khắc khoải bồn chồn đang nhìn vào nội tâm"
được đặc tả trong Bức tranh cũng là đôi mắt quan sát của tác giả hướng vào
"con người trong con người" của nhân vật. Nguyễn Minh Châu đã quan sát
cuộc đấu tranh căng thẳng đầy đau đớn trong nội tâm nhân vật với cả lời
buộc tội lẫn tự bào chữa với cả nỗi ân hận và xấu hổ ê chề.
Có thể tìm thấy nhân vật hướng nội trong Cỏ lau, nhân vật Lực với
những đắng cay của số phận, với những gánh nặng ân hận, day dứt. Ở vị trí
ngơi thứ nhất, Lực đã nhìn thấu cái "vơ thập tồn" trong con người mình, kể
cả cái "tư thù đầy nhỏ nhen" ngày xưa đã đẩy người lính cương trực, dũng
cảm vào cái chết oan uổng vô nghĩa và kể cả ngày hơm nay khi đã nghiêm
khắc nhìn thẳng vào tội lỗi của mình nhưng cái con người bên trong của Lực
vẫn cố níu giữ, cố tìm ra lý do hợp lý, hợp tình để tránh một lời thú tội. Đó
là "khơng khí trang nghiêm đầy thiêng liêng xúc động" khơng cho phép Lực
"quay ngược vòng quay đầy nghiêm ngặt của một cái guồng máy nghi thức
đang cuốn theo hết tất cả mọi người. Người chết đã chết chẳng thể nào ngồi
dậy dưới huyệt nói lên sự thật. Vậy anh hãy nói điều gì cho người sống nghe
thấy yên tâm mãi mãi ghi nhớ người thân của mình đã ngã xuống vì tổ quốc
vì nhiệm vụ vì cuộc sống tốt đẹp của ngày mai của người đang sống. Hãy
đừng làm người sống đau khổ hơn" [17, tr.513 -514]. Và có lẽ lý do sâu xa
hơn và cũng thuyết phục hơn đó là sự có lợi cho danh dự, uy tín của Lực –
người cán bộ qn giải phóng được kính trọng u mến.
Nỗi ân hận cay đắng, sự sám hối chân thành cũng chỉ đưa đến cho Lực
một lời thú tội trong tâm tưởng cảm giác bị trừng phạt. Còn hiện tại vẫn diễn
ra những nghi lễ trang nghiêm cho sự thanh thản của người sống hơn là cho

những người đã chết. Người chịu trách nhiệm trong cái chết của Phi đứng ở
vị trí trang trọng nhất của buổi nghi lễ an táng để đọc "một bài điếu văn đã
được đánh máy sẵn chỉ còn lắp thêm tên họ" [17, tr.514]. Mạch trần thuật
21


được nối tiếp đan xen giữa những khoảng thời gian của hiện tại, quá khứ và
tương lai của hiện thực và giả tưởng. Trong cái nhìn hướng nội của chủ thể
trần thuật, con người hiện lên với những cái cao cả thấp hèn, cả những yếu
đuối mà con người ít khi vượt nổi. Giá trị nhân bản của văn học do đó càng
đậm nét trong hình thức trần thuật này.
Trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975, nhân vật thường có
ý thức đối diện với chính mình trong những chuẩn mực cao nhất là giá trị về
con người. Những cái "Tơi" trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu đại diện
cho chính cái bản ngã đích thực của mình. Tự soi sáng chính mình trong cái
thẳm sâu của chủ nghĩa nhân văn chân chính. Đó là tác dụng nghệ thuật to
lớn mà Nguyễn Minh Châu trên cơ sở những quan điểm trần thuật hướng về
đời tư thế sự đã đạt được trong hình thức trần thuật từ ngơi thứ nhất.
2.2.3. Trần thuật khách thể
Lối trần thuật này phổ biến trong văn học. Cũng tiến hành trần thuật ở ngôi
thứ ba, nhưng lối trần thuật này có sự biểu hiện rất đa dạng ở nhiều cấp độ khác
nhau phụ thuộc vào quan niệm và trình độ sáng tác của giai đoạn văn học.
Nếu ở giai đoạn trước 1975, do hoàn cảnh đặc biệt của chiến tranh,
nhiều nhà văn chưa có ý thức hoặc chưa có điều kiện thâm nhập vào "con
người trong con người" (Bakhtin), chưa hướng điểm nhìn trần thuật vào thế
giới nội tâm nhân vật thì ở cấp độ này gọi là trần thuật ở ngơi thứ ba có
khoảng cách. Tức là kiểu trần thuật này luôn nhấn mạnh khách quan giữa
nhân vật và người trần thuật. Đó là khoảng cách của điểm nhìn từ bên ngồi
nhà văn là người biết hết mọi điều, mọi người và dẫn giắt nhân vật chèo lái
theo ý của mình. Thực chất nhân vật chỉ là con rối mà mọi hành động: đi,

đứng, khóc, cười… đều do tác giả điều khiển.
Hầu hết những truyện ngắn thuộc thể tài thế sự của Nguyễn Minh Châu
được viết theo kiểu trần thuật này. Các nhân vật được trần thuật từ ngôi thứ
ba mà đằng sau họ là tác giả. Giữa tác giả và nhân vật ln có khoảng cách
để câu chuyện mang tính khách quan vốn có của thể tài thế sự. "Bằng sự
điềm nhiên của lối kể, người kể chuyện thường xuyên tách mình ra khỏi sự
22


đồng cảm rất lớn đối với nhân vật và chỉ hướng sự chú ý của người nghe vào
kết quả thuần túy" [65, tr.135]]. Sự điềm nhiên khách quan ấy đã giúp
Nguyễn Minh Châu dễ dàng dẫn giắt người đọc nhận thức được "cái khơng
bình thường" (Vương Trí Nhàn) trong dịng đời bình lặng.
Các truyện ngắn Mẹ con chị Hằng, Đứa ăn cắp, Lũ trẻ ở dãy K là
những truyện ngắn thuộc thể tài thế sự mà chủ thể trần thuật dấu mình rất
khéo đằng sau nhân vật. Dường như chỉ có nhân vật tự bộc lộ cách sống
quen thuộc trong mơi trường sống của mình. Chỉ đơi lúc tác giả mới nhận
xét một cách khẽ khàng, kín đáo và rất sắc sảo. Người đọc phải tự mình rút
ra bài học rút ra kết luận về sự khẳng định hay phủ định trong đời sống ấy.
Trong truyện Lũ trẻ ở dãy K, Nguyễn Minh Châu đã đứng hồn tồn ở
vị trí khách quan để quan sát cô Hoằng cũng như những người đàn bà khác
trong cái dãy nhà tập thể ấy – những con người hồn nhiên trong cách cư xử,
vô tư trở thành vô tâm đối với người xung quanh mình. Tác giả đã tạo ra cho
mình một lợi thế để có thể nắm bắt từ những khía cạnh của hành vi, lối ứng
xử của nhân vật nhằm đem lại cho người đọc suy nghĩ về đức tính hồn nhiên
vốn bị "Con người ta đánh mất sạch" khiến tâm hồn trở thành chai cứng.
Nhưng sự hồn nhiên của con người chỉ được phát hiện đúng như một phẩm
chất khi nó được đặt vào trong mối quan hệ đối với con trẻ. Thậm chí là chỉ
có giá trị nếu đó là hành vi của con trẻ. Tất nhiên cũng có trường hợp ngoại
lệ đúng với tinh thần trên trong lần cô Hoằng giúp đỡ tằng Huấn ra khỏi tù.

Cịn thì cuộc sống thường theo cái luật đời. Lẽ ra một người trưởng
thành không thể cứ sống hồn nhiên mãi. Một người biết nghĩ không thể cứ
hồn nhiên trong lối sống "nước mắt chảy xuôi". Lối bâng quơ trong cách kể
truyện lại bất ngờ đánh thức người đọc ở triết lý nhân sinh sâu sắc " đời con
người ta vay của cha mẹ rồi trả cho con cái" [17, tr.249]. Đó là câu an ủi
trước sự đời bất thường nhưng lại được thốt ra một cách đầy trải nghiệm từ
miệng bà cụ già chứ đâu phải từ một người mẹ trẻ còn có bố mẹ già lam lũ.
Nếu nhân vật người "hàng xóm" đưa đến những bài học về xử thế trong
cộng đồng thì Mẹ con chị Hằng lại đưa đến bài học đạo đức trong quan hệ
23


gia đình. Vẫn chọn một đặc điểm quan sát từ bên ngoài, Nguyễn Minh Châu
thuật lại tỉ mỉ những câu truyện thường ngày của hai Mẹ con chị Hằng với
những cáu gắt, nũng nịu, những bực bội, ân hận,(dù chỉ là cái ân hận thống
qua ), ….nhưng tác giả khơng dừng lại ở đó một khoảng cách hồn tồn
khách quan mà đơi lúc rất kín đáo, ơng đã đưa ra những lời nhận xét, bình
luận ngoại đề, lúc nhẹ nhàng tiện thể nói qua: "Sự hối hận như cái bong
bóng trời mưa lập tức vỡ tan đi ngay"[17, tr.243] lúc nghiêm nghị, đau xót :
"Cái vạch ngăn cách giữa cái tính nhõng nhẽo, làm nũng và hay bắt nạt mẹ
của một đứa con gái và thói quen tỏ ra uy quyền của một người đàn bà chủ
nhà thật là mơ hồ rất khó nhận thấy đến nỗi ta thường dễ lẫn lộn, thường dễ
tự lừa dối và lừa phỉnh chính mình" [17, tr.246].
Với các truyện ngắn trên, từ điểm nhìn trần thuật bên ngồi tiến hành
theo ngơi thứ ba, Nguyễn Minh Châu đã để cho dịng đời mặc nhiên trơi
chảy qua những chi tiết miêu tả, kể chuyện chân thực. Giữa tác giả và nhận
vật luôn tồn tại một khoảng cách, thỉnh thoảng nhà văn mới chen vào đôi ba
nhận xét dường như vơ tình, ngẫu nhiên, thậm chí có lúc còn như cố thuyết
phục người đọc để minh oan cho nhân vật. Từ một góc kín đáo của người
quan sát, ông dẫn dắt người đọc phát hiện ra chỗ cịn lẫn khuất trong tâm

hồn con người tìm ra những "lỗi lầm và tội ác" còn nương náu bên trong mỗi
con người từ đó khái quát những chân lý của cuộc sống nhà văn, những chân
lý nhân sinh sâu sắc.
Kiểu trần thuật theo ngơi thứ ba cịn được biểu hiện dưới một hình thức
khác phổ biến, địi hỏi ở Nguyễn Minh Châu sự nỗ lực theo một hướng khác.
Nếu lối trần thuật theo hướng khách thể như Mẹ con chị Hằng, Đứa ăn cắp,
Lũ trẻ ở dãy K, yêu cầu sự tinh tế trong cách phát hiện lát cắt của dịng đời,
thì lối trần thuật khách thể đã được chủ quan hóa là lối trần thuật mà khoảng
cách giữa nhà văn và nhân vật được thu hẹp một cách tối đa thậm chí cịn có
sự " Song trùng" lại địi hỏi Nguyễn Minh Châu phải có những hiểu biết sâu
sắc về nội tâm nhân vật. Lối trần thuật với đặc điểm đó, đã tạo nên nên khả
năng vừa miêu tả sự kiện khách quan, lại vừa đi sâu vào thế giới tâm hồn
24


vào suy nghĩ của nhân vật khi sự kiện, biến cố chỉ mang chức năng làm nền.
Nhân vật hiện lên trong câu truyện vừa khách thể trong hành động lại vừa
chủ thể trong suy nghĩ tình cảm. Với sự thâm nhập của chủ thể trần thuật vào
trong các nhân vật của mình, "khoảng cách giữa người trần thuật và nhân vật
trên thực tế bị thủ tiêu, điểm nhìn của hai phía đều được hịa nhập làm một.
Các truyện ngắn Cơn giông, Giao thừa, Bến quê, Phiên chợ Giát là những
truyện điển hình cho hình thức trần thuật này.
Nhân vật Nhĩ trong Bến quê – một con người cả cuộc đời đi "khơng sót
một xó xỉnh" nào trên trái đất cho đến lúc kơng cịn khả năng đi lại mới phát
hiện ra vẻ đẹp của Bến quê, một bờ bãi phì nhiêu, một người vợ tần tảo lặng
lẽ giàu đức hy sinh, một đứa con cũng mải chơi như thời trai trẻ của mình.
Sự trần thuật các hành động, lời nói, cảnh sắc từ con người và tâm trạng
nhân vật, Nhĩ đã trở thành biểu tượng cho con người "thời đại". Điều đáng
trách là con người ấy chỉ biết đến những chân trời xa lạ trong khi lại thờ ơ vơ
tình với những gì gần gũi và quen thuộc nhất.

Đạt tới trình độ tinh xảo, diệu nghệ của hình thức trần thuật này là
Phiên chợ Giát – kiệt tác cuối đời của Nguyễn Minh Châu. Tác phẩm là sự
kết hợp nhuần nhị giữa cái ảo và cái thực, giữa hiện thực và giả tưởng, giữa
quá khứ, hiện tại và tương lai. Tất cả đã hòa quyện vào dòng ý thức hỗn tạp
của lão Khúng, trong thứ ngôn ngữ nửa trực tiếp tinh diệu.
Trước đây đã có người nhận xét cách trần thuật với những nét nhòe
giữa ảo và thực của Nguyễn Minh Châu là "một sự tự biện mông lung".
Thực chất cõi tâm linh của con người có cái logic riêng của nó. Đó là những
liên tưởng đầy mộng mị, suy tưởng vừa ranh mãnh, sắc sảo, vừa ngốc
nghếch, u tối của một người nông dân như lão Khúng. Sự "tự biện mông
lung" và những nhánh rẽ của tâm linh trên cái mấu của sự kiện lại trở nên
logic chân thực. Người ta hay nói về sự hóa thân trong truyện ngắn này.
Nhưng có lẽ sự hóa thân lớn hơn cả, là sự hóa thân của Nguyễn Minh Châu
vào nhân vật của mình. Nếu chỉ đứng bên ngồi duy trì khoảng cách trần
thuật khách quan như với Đứa ăn cắp hay Mẹ con chị Hằng thì dù có nhìn
25


×