Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

sáng kiến kinh nghiệm ngữ văn từ ngữ miêu tả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.47 KB, 73 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Trên sáu thập kỷ qua, thơ Tố Hữu gắn bó với hành trình đầy cam go
thử thách của cách mạng Việt Nam như một cái duyên riêng, các chặng đường
thơ ông cũng song hành với các giai đoạn của cuộc cách mạng. Ông là con chim
đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Chất trữ tình và cảm xúc về cái
đẹp trong thơ ơng đồng hành với cảm xúc chính trị. Người Việt Nam yêu thơ Tố
Hữu bởi thơ ông đã kết hợp được một cách nhuần nhuyễn giữa men say lý tưởng
và tinh thần độc lập dân tộc đậm đà trong cả nội dung lẫn hình thức.
Thơ Tố Hữu tuy đã được nghiên cứu, đánh giá trên nhiều mặt nhưng chưa
có tác giả nào chuyên sâu vào nghiên cứu về: “So sánh lớp từ ngữ miêu tả
không gian trong Từ ấy và Việt Bắc”. Vì vậy luận văn của chúng tơi góp phần
nghiên cứu về vấn đề trên từ góc độ ngơn ngữ.
1.2. Khơng gian là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Đó là một
phạm trù thẫm mỹ, không đồng nhất với không gian khách quan. Không có hình
tượng nghệ thuật nào khơng tồn tại trong khơng gian của chủ thể sáng tác. Nó
gắn liền với quan niệm nghệ thuật của nhà thơ về con người, thế giới và thời đại,
nhưng mỗi nhà thơ lại có cách riêng trong thể hiện không gian nghệ thuật. Khi
nhắc đến thành công của thơ Tố Hữu không thể không nhắc đến sự thành công
về việc tái hiện một không gian rộng lớn, đậm chất sử thi và gắn với mỗi chặng
đường lịch sử cách mạng của dân tộc .
1.3. Thơ Tố Hữu không chỉ là đối tượng nghiên cứu của các nhà lý luận
phê bình mà cịn là đối tượng dạy, học trong trường Phổ thông và Đại học. Bởi
vậy việc nghiên cứu không gian trong thơ Tố Hữu từ góc độ ngơn ngữ sẽ góp
phần giúp giáo viên, học sinh, sinh viên dạy, học thơ Tố Hữu có hiệu quả hơn.
1.4. Nhà thơ Tố Hữu đã đi xa nhưng thi phẩm của ơng cịn mãi với thời
gian như một lời nhắn nhủ ân tình, đằm thắm, thiết tha. Tiếp tục nghiên cứu về
thơ ơng chính là nén tấm hương thành kính nhất dâng nhà thơ- chiến sĩ. Đồng

1



thời, đó cũng là phần trách nhiệm khẳng định giá trị tinh thần cao đẹp của thơ
Tố Hữu trong cuộc sống hôm nay.
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng tôi lựa chọn đề tài
:“So sánh lớp từ ngữ miêu tả không gian trong “Từ ấy” và “Việt Bắc” của Tố
Hữu”.
2. Lịch sử vấn đề.
Song hành với con đường sáng tác của Tố Hữu hơn 50 năm qua, lịch sử
nghiên cứu phê bình về thơ Tố Hữu đã trãi qua nhiều giai đoạn và đã có nhiều
cơng trình của các nhà nghiên cứu phê bình như : Trần Minh Tước, Trần Huy
Liệu, Đặng Thai Mai, Phan Cự Đệ, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Đăng Mạnh,
Trần Đình Sử… và các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như Xuân Diệu, Chế Lan
Viên, Nguyễn Đình Thi, Hồng Trung Thơng…Ở mỗi góc độ khác nhau, các tác
giả đã chỉ ra những đóng góp nghệ thuật mới mẻ, phong phú, khác biệt cùng các
giá trị nhân văn sâu sắc của thơ Tố Hữu.
Xuất hiện trong những năm cuối của thời kỳ mặt trận dân chủ Đông
Dương, thơ Tố Hữu được đăng rãi rác trên một số tờ báo cách mạng đã thực sự
đem lại một tiếng nói mới cho dịng thơ cách mạng. Bài viết đầu tiên của K và T
trong Tố Hữu- nhà thơ của tương lai (Báo Mới số 1-1/5/1939) có viết : “Tố Hữu
là một chàng thanh niên của tương lai, chàng thanh niên ấy ham sống và sống
một cách dồi dào. Chàng đeo đuổi một lý tưởng. Thơ chàng là cả một nguồn
sinh lực phục vụ cho lý tưởng, với Tố Hữu chúng ta đã có một nhà thơ cách
mạng có tài. Nhà thi sỹ ấy cịn trẻ lắm. Cuộc chiến đấu sẽ làm dày dạn tâm hồn
anh sẽ đem kinh nghiệm lại cho anh” [13, tr.560]. Nhận định trên rất đáng được
ghi nhận về nhà thơ Tố Hữu trong thời kỳ đầu đến với cách mạng.
Cuốn “Thi pháp thơ Tố Hữu của tác giả Trần Đình Sử (tái bản năm 2001,
Nxb VH-TT) đã cung cấp một mô hình của thế giới nghệ thuật làm nền tảng cho
nghiên cứu thi pháp. Bắt đầu từ con người, mở ra với thế giới không gian, thời
gian, thể tài, chất thơ và phương thức thể hiện. Tác giả cũng đã nghiên cứu đặc


2


điểm tổ chức lời thơ của Tố Hữu như đặc điểm cú pháp, cách sử dụng từ ngữ,
hình ảnh, cách ngắt nhịp, ngắt dòng.
Cuốn “Tố Hữu- về tác gia và tác phẩm” của tác giả Phong Lan (Nxb
Giáo dục, 2003) tập hợp khá nhiều những bài viết tiêu biểu về thơ Tố Hữu. Các
bài viết tập trung phân tích một số nét đặc sắc trong một số bài thơ, tập thơ của
Tố Hữu.
Cuốn “Tố Hữu- cách mạng và thơ” của Hà Minh Đức (Nxb Đại học
Quốc gia, HN, 2004) là cơng trình tập hợp những bài viết của tác giả về nhà thơ
Tố Hữu khoảng 20 năm qua. Đó là những cuộc trò chuyện ghi chép về thơ giữa
tác giả với nhà thơ Tố Hữu, là sự đánh giá, bình luận, cảm nhận về thơ Tố Hữu
qua các chặng đường thơ cũng như chặng đường hoạt động cách mạng.
Cuốn “Nghiên cứu bình luận thơ Tố Hữu” của Đỗ Quang Lưu (tuyển
chọn) Nxb văn hóa, TT, HN, 2006) đã nói về những câu chuyện về thơ của nhà
thơ đối với đồng nghiệp, hay với giáo viên của các trường. Ở đây ta thấy lý
tưởng của người cộng sản, của người thanh niên đầy sức trẻ, với niềm tin của
một con người lần đầu tiên bắt gặp lý tưởng cách mạng. Cũng trong cuốn sách
này ta đã phần nào thấy rõ phong cách sáng tác thơ Tố Hữu.
Cuốn “Tố Hữu về tác gia và tác phẩm” của tác giả Phong Lan và Mai
Hương (Nxb Giáo dục, HN , 2007) cơng trình này đã cung cấp một cái nhìn vừa
cụ thể, vừa đa dạng về giá trị tư tưởng, giá trị giáo dục và giá trị nội dung tác
phẩm thơ Tố Hữu trong những thời điểm khác nhau. Cuốn sách tập trung nói về
quan niệm của Tố Hữu về văn học nghệ thuật và sáng tạo thơ ca, về con đường
thơ Tố Hữu, người mở đầu cho nền thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại, nhà
thơ của tương lai. Cuốn sách đã khẳng định được đầy đủ những giá trị chủ yếu
và phong cách sáng tạo của tác giả.
Cuốn “Tố Hữu- thơ và cách mạng” của tác giả Phong Lê (chủ biên), Nxb
Trẻ, Hội nghiên cứu và giảng dạy Văn học thành phố Hồ Chí Minh, 2007) đã tập

trung phân tích mối quan hệ giữa tham gia hoạt động và sáng tạo thơ ca trong

3


suốt cuộc đời của nhà thơ Tố Hữu. Cơng trình có những quan điểm khoa học về
thơ Tố Hữu.
Theo hướng khai phá trên, đã có một số luận văn tốt nghiệp, luận văn thạc
sỹ tiến hành khảo sát thế giới nghệ thuật của thơ Tố Hữu như : Đoàn Thị Tiến
với Tìm hiểu các từ ngữ chỉ địa danh trong thơ Tố Hữu, Nguyễn Thị Ánh Tuyết
với luận văn tốt nghiệp Khảo sát cách sử dụng từ địa phương trong thơ Tố Hữu.
Nói tóm lại, thơ Tố Hữu đã được phân tích và đánh giá trên nhiều mặt :
nội dung, tư tưởng, hình thức, chủ đề, đề tài, thể loại. Thư mục các bài viết, các
chun luận, các cơng trình nghiên cứu về Tố Hữu ngày càng dài ra. Theo thống
kê chưa đầy đủ của chúng tơi, hiện nay có khoảng hơn 200 bài viết, chun luận,
cơng trình nghiên cứu và biên soạn về thơ Tố Hữu của các tác giả trong và ngồi
nước. Điều này chứng tỏ vị trí đặc biệt của Tố Hữu trên thi đàn dân tộc. Nhìn
chung, các tác giả tập trung vào một số vấn đề sau:
- Ở Tố Hữu, con người chính trị và con người nhà thơ là sự thống nhất
chặt chẽ, sự nghiệp thơ ca gắn liền với sự nghiệp cách mạng của tác giả, trở
thành một bộ phận của sự nghiệp ấy.
- Về nội dung tư tưởng, thơ Tố Hữu là tiếng nói của lý tưởng cộng sản. Lý
tưởng ấy vừa là ngọn nguồn cảm hứng, là nơi xuất phát và điểm quy chiếu mọi
cái nhìn nghệ thuật của nhà thơ về con người và đời sống. Sức mạnh và điểm tựa
vững vàng cho đời và cho thơ Tố Hữu chính là nhân dân. Thơ ông trở thành
nguồn cảm xúc trữ tình tiêu biểu cả thời đại. Đất nước, nhân dân liên tiếp được
tôn vinh qua những chặng đường đấu tranh gian khổ và vinh quang của Tổ quốc.
Tố Hữu là người đánh dấu một bước phát triển mới của thơ ca dân tộc.
- Về phong cách nghệ thuật, thơ Tố Hữu tiêu biểu cho thơ trữ tình chính
trị, giàu khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Giọng điệu riêng trong thơ

ơng là giọng tâm tình ngọt ngào, tha thiết. Tố Hữu là nhà thơ giàu tính dân tộc,
thể hiện nhuần nhuyễn các thể thơ dân tộc, cách biểu đạt, so sánh ví von, sử
dụng hình ảnh ví von, sử dụng hình ảnh gần gũi, quen thuộc với tâm hồn người

4


Việt. Chiều sâu của tính dân tộc trong thơ ơng là nhạc điệu, đặc biệt phong phú
về vần phối âm trầm bổng, nhịp nhàng nên dễ ngâm, dễ thuộc.
Song cho đến nay, chưa có một cơng trình nghiên cứu nào thống kê đầy
đủ, chi tiết, số liệu cụ thể về lớp từ ngữ miêu tả không gian nghệ thuật trong thơ
Tố Hữu.
Trong giới hạn của một luận văn tốt nghiệp, chúng tôi chỉ tập trung vào
việc khảo sát lớp từ chỉ không gian trong hai tập thơ Từ ấy và Việt Bắc.
3. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Trong đề tài này, chúng tôi tập trung khảo sát lớp từ ngữ chỉ không gian
trong 73 bài thơ của Tố Hữu ở hai tập thơ :
- Từ ấy (1937-1946), chúng tôi khảo sát 51 bài thơ.
- Việt Bắc (1946-1954), chúng tôi khảo sát 22 bài thơ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Nhiệm vụ của chúng tôi khi nghiên cứu đề tài này nhằm :
- Thống kê, phân loại, miêu tả và so sánh các lớp từ miêu tả không gian
trong hai tập thơ Từ ấy và Việt Bắc .
- Chỉ ra các không gian tiêu biểu trong Từ ấy và Việt Bắc.
- Nhận xét về sự giống nhau và khác nhau trong việc sử dụng lớp từ ngữ
miêu tả không gian trong hai tập thơ Từ ấy và Việt Bắc để thấy rõ những đặc
điểm phong cách ngôn ngữ của thơ Tố Hữu.
4. Phương pháp nghiên cứu.
4.1. Phương pháp thống kê, phân loại.

Phương pháp này được sử dụng để thống kê, phân loại các từ loại của lớp
từ ngữ miêu tả không gian theo cấu tạo, chức năng, nguồn gốc, đặc điểm kết
hợp, các không gian tiêu biểu, khi phân tích, xử lý ngữ liệu.

5


4.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu.
Phương pháp này được sử dụng khi so sánh vốn từ ngữ miêu tả không
gian trong hai tập thơ Từ ấy và Việt Bắc, khi tổng hợp nhận xét định lượng, định
tính các nội dung nghiên cứu.
4.3. Phương pháp miêu tả, phân tích, tổng hợp.
Trên cơ sở thống kê, phân loại, khảo sát, so sánh đối chiếu, chúng tơi tiến
hành miêu tả, phân tích ý nghĩa cụ thể và ý nghĩa khái quát của lớp từ ngữ miêu
tả không gian, sự hành chức trong việc kết hợp các từ ngữ miêu tả không gian
với các từ ngữ chỉ trạng thái, tính chất, cảm giác…
5. Cái mới của đề tài.
Đây là đề tài lần đầu tiên đi tìm hiểu, so sánh lớp từ ngữ miêu tả khơng
gian trong thơ Tố Hữu, từ đó rút ra nhận xét về phong cách nghệ thuật của tác
giả, về sự chuyển biến trong nội dung thơ ông qua hai thời kỳ từ (1937-1946)
đến (1946-1954).
6. Cấu trúc của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được cấu
trúc thành ba chương:
Chương1 : Những giới thuyết liên quan đến đề tài.
Chương2 : Phân loại lớp từ ngữ miêu tả không gian trong Từ ấy và Việt
Bắc của Tố Hữu.
Chương3: Các không gian tiêu biểu trong Từ ấy và Việt Bắc .

6



Chương 1
NHỮNG GIỚI THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI.
1.1.Tố Hữu và thơ Tố Hữu.
1.1.1.Tố Hữu- cuộc đời và sự nghiệp sáng tác.
Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4/10/1920 tại làng Phù
Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế- nơi đây
với thiên nhiên thơ mộng và nhiều danh lam thắng cảnh đã ni dưỡng giọng
điệu ân tình, ngọt ngào sâu lắng trong hồn thơ Tố Hữu.
Lớn lên giữa lúc phong trào cách mạng đang phát triển mạnh mẽ, Tố Hữu
đã sớm giác ngộ lý tưởng cộng sản và hăng hái tham gia hoạt động cách mạng,
giữ nhiều cương vị trọng yếu trong cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Ông mất ngày 9/12/2002 tại Hà Nội, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho công
chúng yêu thơ và những người đồng chí.
Là người phải chịu nhiều mất mát từ nhỏ nên Tố Hữu có một trái tim, một
tấm lịng biết rung động sâu xa trước những cảnh đời éo le ngang trái trong xã
hội cũ và đồng cảm sâu sắc với họ. Có lẽ nhờ vậy mà Tố Hữu hịa nhập nhanh
với quần chúng lao khổ và tìm đến cách mạng khi cịn rất trẻ. Thơ Tố Hữu đã nói
lên tiếng nói của quần chúng cách mạng, được họ đón nhận và yêu quý. Tác giả
Trần Đình Sử đã nhận xét : “Nếu lấy mức độ phổ cập, sức mạnh chinh phục trái
tim quần chúng nhân dân làm thước đo tầm vóc tiếng thơ thì Tố Hữu có thể so
sánh với bất cứ nhà thơ lớn nào có trong lịch sử dân tộc và nhân loại” [23, tr.15].
Trên 60 năm sáng tác,Tố Hữu đã để lại cho thi đàn Việt Nam trên 7 tập thơ :
1.Từ ấy ( 67 bài, sáng tác từ 1937- 1946 ).
2.Việt Bắc ( 22 bài, sáng tác từ 1946-1954 ).
3.Gió Lộng ( 25 bài, sáng tác từ 1955-1961).
4.Ra trận ( 35 bài, sáng tác từ 1962-1971).
5.Máu và hoa (13 bài, sáng tác từ 1972-1977).
6.Một tiếng đờn ( 73 bài, sáng tác từ 1979-1992).

7.Ta với ta ( 49 bài sáng tác từ 1993-2002).

7


Thơ của Tố Hữu đã trở thành đối tượng khảo sát của hơn 200 bài viết và
nhiều cơng trình khác nhau.
- Tập thơ Từ ấy - tập thơ đầu tay của Tố Hữu gồm 3 phần: Máu lửa: gồm
27 bài, là thơ của Tố Hữu sáng tác ở thời kỳ Mặt trận dân chủ, tập trung vào
những vấn đề lớn của thời đại như chống phát xít, phong kiến, vấn đề quyền
sống của con người và cách mạng giải phóng dân tộc. Xiềng xích gồm 30 bài
được Tố Hữu viết trong tù, thể hiện nổi buồn đau và ý chí, khí phách của người
chiến sỹ cách mạng trong tù. Giải phóng gồm 14 bài được Tố Hữu viết từ lúc
vượt ngục để một năm sau độc lập, chủ yếu ca ngợi lý tưởng, quyết tâm đuổi
giặc cứu nước và niềm vui chiến thắng.
Trong Từ ấy khơng chỉ có tiếng chim rộn rã và hương hoa , niềm vui bắt
gặp lý tưởng, mà cịn có những lời động viên, an ủi, chia sẻ với những số phận
bất hạnh.Từ ấy là tiếng sét đầy căm hờn, là hồi kèn xung trận thôi thúc mọi
người xông lên lao vào trận chiến với kẻ thù để giành lại quyền sống cho mình.
Tập thơ Từ ấy có ý nghĩa đặc biệt quan trọng: Khẳng định vai trò lãnh đạo
của Đảng cộng sản trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, tạo bước ngoặt lớn cho
quá trình phát triển thơ ca Việt Nam hiện đại.
- Việt Bắc: gồm 25 bài, sáng tác giai đoạn (1946-1954). Việt Bắc là quyết
tâm bảo vệ đất nước đã được giải phóng.Tập thơ mở đầu bằng 8 câu đề từ có giá
trị một tuyên ngôn nghệ thuật ngắn về mối quan hệ giữa văn nghệ (thuyền), với
nhân dân ( bể ) với lao động (buồm) và với Đảng (gió).
- Gió lộng : Gồm 25 bài, sáng tác giai đoạn (1955 -1961).
Ở đây cái tơi trữ tình sơi nổi được bộc lộ trên nền hiện thực hồnh tráng
của cuộc sống mới. Gió lộng là thơ của những lời tri ân đối với Đảng, Bác Hồ,
với nhân dân- Tinh thần quốc tế vô sản cũng được đề cập. Giọng thơ anh hùng

ca ngày càng được khẳng định, đề tài bao quát được hiện thực, ý thơ mang tầm
tư tưởng cao.
-Ra trận : gồm 35 bài, sáng tác giai đoạn (1962-1971).

8


Vốn là một hồn thơ yêu thương, nghĩa tình, Tố Hữu ao ước được làm thơ
ca ngợi đất nước thanh bình. Nhưng khi Miền Nam, rồi cả đất nước chìm trong
khói lửa chiến tranh, Tố Hữu giành phần lớn tâm huyết để ngợi ca chủ nghĩa anh
hùng cách mạng, do đó giọng điệu tập thơ thấm đẫm chất hùng ca.
-Máu và hoa : Gồm 13 bài, sáng tác giai đoạn (1972-1977).
Có ý nghĩa tổng kết q trình phát triển của dân tộc, của cách mạng Việt
Nam, một hành trình đầy máu và hoa. “Máu” biểu tượng cho nổi đau uất hận
trong hàng nghìn năm nơ lệ và sự hy sinh, xả thân vì nghĩa lớn. “Hoa” biểu
tượng cho vẻ đẹp của lí tưởng cộng sản, chủ nghĩa anh hùng và niềm vui ngày
chiến thắng.
- Một tiếng đờn : Gồm 73 bài, sáng tác giai đoạn (1978-1992). Được giải
thưởng ASEAN.
Đó là những dòng tâm tư, trăn trở từ mạch cảm xúc trong thời hịa bình.
Xuất hiện những dịng thơ tươi xanh, mang đậm cảm hứng thế sự. Đề tài phong
phú, đa dạng, ngợi ca vẻ đẹp của quê hương đất nước, con người, công cuộc xây
dựng đất nước đầy phức tạp, tình u và số phận con người…âm hưởng thơ ít
vang xa (hướng ngoại) mà vọng sâu hơn (hướng nội).
- Ta với ta :Gồm 40 bài,sáng tác giai đoạn (1993-2002).
Là tập thơ có nhiều niềm vui, nhà thơ đã nhìn ra sợi dây ràng buộc vững
chắc với đất nước, với nhân dân mang nặng tình đời, tình cảm với đất nước,
nhân dân, bạn bè, cảm hứng đầy lạc quan tin tưởng. Đó là tập thơ mang đầy kỷ
niệm thời cá nhân…
Con đường thơ của Tố Hữu gắn bó chặt chẽ với con đường đấu tranh cách

mạng Việt Nam. Hoạt động chủ yếu trong đời Tố Hữu là làm cách mạng và làm
thơ cách mạng. Bởi vậy khi có người hỏi nhà thơ rằng : Cơng việc hoạt động
chính trị có ảnh hưởng đến việc làm thơ hay khơng thì Tố Hữu đã trả lời : “60
năm qua, tôi hoạt động trên nhiều lĩnh vực. Cơng tác chính trị, kinh tế địi hỏi trí
tuệ và tính cụ thể, chính xác, cịn thơ lại là yêu cầu tình cảm, sự xúc động của tâm

9


hồn, tính trừu tượng. Đối với tơi hoạt động chính trị và sáng tác thơ dù khác nhau
nhưng vẫn có cái gốc chung là nhiệm vụ cách mạng và đều phải thấu nhân tình”.
Làm bí thư hồi có bí…thơ ?
Rằng thơ với Đảng nặng duyên tơ
Thuyền bơi có lái qua mưa gió
Khơng lái thuyền trơi lạc bến bờ.
(Chuyện thơ)
1.1.2. Đặc điểm nội dung và nghệ thuật thơ Tố Hữu.
1.1.2.1. Đặc điểm nội dung.
“Một tài năng thơ ca thuộc về nhân dân và dân tộc”, “Nhà thơ của tình
thương mến”, “Nhà thơ của lý tưởng cộng sản, của những lẽ sống thời đại”…
Đó là những tình cảm mà các nhà nghiên cứu phê bình văn học dành cho Tố
Hữu và thơ ông. Đó cũng là những ý kiến khái quát, súc tích nhất về đặc điểm
nội dung thơ Tố Hữu.
Con đường thơ của Tố Hữu bắt đầu gần như cùng lúc với con đường hoạt
động cách mạng, rồi từ đó gắn bó mật thiết với cuộc đấu tranh cách mạng và
được lý tưởng cộng sản soi sáng.
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Tâm hồn tơi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.

(Từ ấy)
Với Tố Hữu, “tả tình hay tả cảnh, kể chuyện mình hay kể chuyện người,
viết về các vấn đề lớn hay một sự kiện nhỏ (…) là để nói cho được lý tưởng cộng
sản ấy thôi” [26].
Thơ ông thể hiện sâu sắc tinh thần thời đại, đánh dấu một bước phát triển
mới của thơ ca dân tộc. Đặc biệt trong thơ, Tố Hữu đã tìm thấy nhân dân của
mình. Nhân dân tiềm ẩn nhiều sức mạnh và là điểm tựa vững chắc cho đời, cho

10


thơ. Bởi vậy, thơ ông thường hướng về cộng đồng để hịa nhập, như tiếng nói
anh em với những người lao khổ.
“Tơi buộc lịng tơi với mọi người”
“Tơi đã là con của vạn nhà”…
(Từ ấy)
Tố Hữu đã miêu tả Tổ quốc trên tầm cao của thời đại, tầm cao trong chiều
dài lịch sử, trong quan hệ vời thời đại. Có thể khẳng định, Tố Hữu đã nói lên sâu
sắc nhất hành trình đầy thử thách của Tổ quốc trong cuộc chiến đấu tranh gian
khổ mà vinh quang. Đất nước và con người liên tiếp được tôn vinh trong thơ ông
qua những chặng đường lịch sử. Từ cảm hứng lịch sử, nhà thơ đã sáng tạo thành
cảm hứng sử thi với ý thức ngợi ca cộng đồng trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ đất nước.
“Không nổi đau nào của riêng ai
Của chung nhân loại chiến công này”.
Thơ Tố Hữu cũng là dịng cảm xúc đầy trữ tình tiêu biểu của thời đại. Từ
tiếng reo ca hân hoan của một tâm hồn trẻ khao khát lẽ sống đã bắt gặp ánh sáng
lý tưởng đến chiêm nghiệm trầm tư của một con đường từng trải, Tố Hữu đều rất
thành công.
Tố Hữu là một hồn thơ hòa nhập từ đáy sâu giữa thơ ca và người chiến sĩ.

Phẩm chất thi sĩ luôn tràn đầy luôn thiết tha trong cảm hứng sáng tạo, luôn tin
u cuộc sống và đóng góp cho đời.
“Dẫu khơng hơi sức khơi dòng thẳng
Còn chút phù sa cũng gắng bồi”.
(Chào xuân 99)
1.1.2.2. Đặc điểm nghệ thuật thơ Tố Hữu.
Thơ Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị. Khi đến với thơ ca cùng lúc với
sự gặp gỡ lý tưởng cách mạng. Hồn thơ của Tố Hữu được chiếu rọi và bừng nở
dưới ánh sáng của lý tưởng ấy. Thơ Tố Hữu là phục vụ cho lý tưởng cộng sản
cách mạng trong từng giai đoạn thể hiện qua các tập thơ : Từ ấy, Việt Bắc, gió
11


lộng, ra trận, máu và hoa… Con người trong thơ Tố Hữu ln ln được nhìn ở
quan hệ chính trị, đơi khi ơng nói đến đời tư, đời thường chẳng qua là chỉ tơ đậm
phẩm chất chính trị của nhân vật. Thơ ông là lời tâm huyết say mê khi gặp lý
tưởng cộng sản.
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chí qua tim”.
(Từ ấy)
Từ ấy, là từ khi nhà thơ bắt gặp lý tưởng cách mạng “Mặt trời chân lý
chói qua tim” nhà thơ ca ngợi lý tưởng, kêu gọi quần chúng bị áp bức hãy đứng
lên đấu tranh, mọi sự kiện lớn của đời sống cách mạng, nhiệm vụ chính trị, tình
cảm chính trị và con người chính trị thơng qua tâm hồn nhạy cảm của chính trị
đều có thể trở thành cảm hứng thật sự. Đề tài, nội dung thơ đều nhất quán ở chỗ
lấy lý tưởng cách mạng, quan điểm chính trị làm hệ quy chiếu cách nhìn nhận và
xúc cảm về mọi phương diện, mọi hiện tượng của đời sống. “Tố Hữu đưa thơ
chính trị lên đến trình độ là thơ rất trữ tình” (Xuân Diệu). Đến với Việt Bắc,
nhân vật trung tâm của thơ Tố Hữu là người chiến sĩ, là quần chúng cách mạng
trong kháng chiến chống Pháp, đó là hình ảnh anh bộ đội lên Tây Bắc.

“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài lên đỉnh dốc cheo leo
Núi khơng đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo”.
(Lên Tây Bắc)
Thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu là thành tựu xuất sắc của thơ hiện đại
Việt Nam. Đó là sự kế thừa dịng thơ ca cách mạng ở đầu thế kỉ XX của Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh và các nhà thơ khác. Nhà thơ đã đổi mới trên những
thành tựu của thơ ca đương thời, đem đến cho văn học cách mạng một tiếng thơ
sôi nổi, trẻ trung, mới mẻ và tràn đầy cảm hứng lãng mạn. Những bài thơ Tố
Hữu là tình cảm thiên về chính trị. Đó là tình u Đảng với tấm lịng sắc son.

12


“Sống cùng Đảng, chết khơng rời Đảng
Tấm lịng son chói sáng nghìn thu,
Mặt trời có lúc mây mù
Trái tim kia vẫn đỏ bầu máu tươi”.
(Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Ngồi u Đảng, Tố Hữu cịn u Bác Hồ, u quê hương đất nước, yêu
đồng bào, đồng chí. Thơ Tố Hữu vừa thể hiện nội dung chính trị, vừa tác động
vào tình cảm người đọc bằng những hình ảnh gợi cảm, nhạc điệu réo rắc, giọng
điệu tâm tình. Sử dụng bút pháp tượng trưng thể hiện những lý tưởng và ước
mơ. Có những hình ảnh rất đơn sơ nhưng vơ cùng gợi cảm, thể hiện tinh thần
của đất nước quê hương.
Thơ Tố Hữu gắn liền với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Khuynh hướng sử thi có mặt trong thơ Tố Hữu ngay từ chặng đường đầu nhưng
bộc lộ đậm nét và đầy đủ từ cuối tập Việt Bắc nhất là trong thời kỳ kháng chiến
chống Mỹ. Tinh thần sử thi được nảy sinh trong hoàn cảnh phi thường. Thơ ông

luôn dạt dào niềm tin vào Đảng, vào thắng lợi của cách mạng, khơi dậy niềm vui
cho công chúng và hướng công vào một tương lai tươi sáng của dân tộc.
Thơ Tố Hữu giàu tính dân tộc, ơng sử dụng nhuần nhuyễn các thể thơ
truyền thống và có nhiều sáng tạo làm phong phú thêm cho các hình thức thơ ca
này. Tính dân tộc được thể hiện ở lối biểu đạt, cách so sánh, có nhiều câu thơ
gần gũi với ca dao, dân ca.
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”.
(Việt Bắc)
“Con ong làm mật yêu hoa
Con cá bơi yêu nước, con chim ca yêu trời.”
(Tiếng ru)

13


Tính dân tộc cịn thể hiện ở việc sử dụng những tên đất, tên vùng, gây
cảm xúc bằng âm điệu du dương, vừa bằng khả năng gợi quá khứ của những tên
địa phương, linh hồn của quê hương đất nước, những Diêm Phố, Hanh Cát,
Hanh Cù, Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam…
1.1.3. Vị trí của thơ Tố Hữu trong thơ ca Việt Nam hiện đại và thơ ca
cách mạng.
Hàng chục tập thơ của Tố Hữu dài theo đường đời và đường cách mạng
của nhà thơ. Mỗi tập thơ đều chắt chiu từng chặng sống, từng chặng hoạt động
cách mạng say mê và nhiệt thành của nhà thơ, cũng đồng thời là sự kết tinh
những sự kiện trọng đại nhất trên từng chặng đường lịch sử vẻ vang và khơng ít
thăng trầm, gian khổ của dân tộc, của cách mạng Việt Nam. Thơ Tố Hữu là sự
hội tụ của những lẽ sống lớn của thời đại, của tiếng nói tâm tình của dân chúng,
để trở thành tiếng hát tâm tình của dân tộc, của thời đại.
Tố Hữu là cánh chim đầu đàn, là lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng. Chỉ

với Tố Hữu, cuộc sống đời thường mới ùa vào tràn đầy, mạnh mẽ và sống động
đến thế. Tố Hữu đã kéo thơ hoàn toàn ra khỏi tháp ngà nghệ thuật đặt nó vào
giữa cuộc đời cách mạng sơi nổi của dân tộc và bằng tâm hồn thi sĩ của mình,
thơ ơng dùng tiếng nói hàng ngày của nhân dân để bộc lộ cảm xúc, được kết cấu
và đưa đẩy theo mạch cảm xúc và dòng chảy ý thức tự nhiên bên trong của ông.
Người đọc rung cảm và đồng vọng bởi mạch ngầm cảm xúc, suy tư sâu thẳm
trong cõi lòng của thơ Tố Hữu.
Lần đầu tiên trong lịch sử nước nhà, chúng ta có một kiểu nhà thơ hồn
tồn mới - Nhà thơ của giai cấp vơ sản, nhà thơ - chiến sĩ, biết đem đời mình và
thơ mình ra chiến đấu cho ngọn cờ lý tưởng, cao cả vì Độc lập, Tự do của Tổ
quốc. Thơ ông là thơ mang cánh lửa, đốt cháy trái tim con người vào ngọn lửa
thần của đại nghĩa [6] . Thơ ông là chỗ dựa tâm hồn cho bao thế hệ độc giả vì
họ cảm nhận được ngọn lửa lý tưởng ngời sáng cùng một trái tim yêu thương
con người rộng lớn và sâu thẳm.

14


Chính vì lẽ đó, thơ Tố Hữu ln tìm được sự giao hịa, cảm hóa với cơng
chúng độc giả cùng với thời gian, góp phần quan trọng trong nền thơ ca Việt
Nam hiện đại nói chung và thơ ca cách mạng nói riêng.
1.2.Thơ và đặc trưng ngơn ngữ của thơ.
1.2.1.Thơ là gì?.
Thơ ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại. Thơ là một thể loại văn học hết
sức quen thuộc và gần gũi với con người ở mọi thời đại, ở phương Đông cũng
như ở phương Tây. Thế nhưng, khi ta đặt ra và trả lời câu hỏi thơ là gì ? thì câu
hỏi này hồn tồn khơng dễ trả lời. Khác với các loại tác phẩm truyện, kí, kịch,
thơ trực tiếp gắn với tâm hồn con người, mà tâm hồn của con người là một thế
giới tinh vi, phức tạp, mờ ảo nên thơ có thể dễ dàng cảm nhận bằng trực giác
nhưng rất khó đúc kết, khái quát thành một định nghĩa thật sự hoàn chỉnh.

Từ xưa đến nay, ở tất cả mọi nền văn học, đã có nhiều đầu óc thơng thái
đưa ra những định nghĩa về thơ. Nhưng cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa
nào là duy nhất đúng.
Nhà lí luận phê bình văn học Lưu Diệp quan niệm : “Thơ là để nói lên cái
chí, lời ca là để làm cho lời nói được lâu dài.(…) Ở trong lịng thì gọi là chí, nói ra
lời thì gọi là thơ”, nhằm nhấn mạnh vào mục đích làm thơ. Khi bàn về Kinh Thi,
một tuyển tập thơ ca dân gian cổ đại của Trung Quốc, Khổng Tử nhấn mạnh đến
khả năng bồi đắp năng lực ngôn luận cho con người của thơ : “Không học Kinh
Thi lấy gì để nói”. Ơng đề cao tác dụng xã hội của thơ : “Thơ có thể làm phấn
khởi ý chí, có thể giúp quan sát phong tục, hịa hợp với mọi người, bày tỏ nổi sầu
ốn, gần thì thờ cha, xa thì thờ vua, lại biết được tên chim muông, cây cỏ”.
Nhà thơ lớn thời Trung Đường Bạch Cư Dị quan niệm : “Cảm hóa nhân
tâm thì khơng gì bằng tình cảm. Và khơng thể bắt đầu bằng cái gì khác ngồi
ngơn ngữ. Khơng gì thân thiết bằng thanh âm. Khơng gì sâu sắc bằng tư tưởng.
Gốc của thơ là tình cảm. Lá của thơ là ngơn ngữ. Hoa của thơ là âm thanh. Quả
của thơ là tư tưởng”.

15


Nhà thơ lãng mạn Pháp Đuy-pê-lây (thế kỉ XIII) quan niệm : “Thơ là
người thư kí trung thành của trái tim đa cảm” . Nhà thơ A.Đơ Vi nhi cho rằng :
“Thơ là nghệ thuật, là tài nghệ, là sáng tạo có tính chất nghệ sĩ, nghĩa là thơ rốt
cuộc phải được sáng tạo trong ngôn từ” .
Học giả Lê Q Đơn cho rằng : “Làm thơ có ba điều chính, một là tình,
hai là cảnh, ba là sự. (…) Tình là người, cảnh là tự nhiên, sự là sự hợp nhất cả
trời và đất. Lấy tình tham cảnh, lấy cảnh hội việc, gặp việc thì nói ra lời, thành
tiếng”. nhà thơ cách mạng Tố Hữu nhấn mạnh: “Thơ là tiếng lòng hồn nhiên
nhất của tâm hồn con người trước cuộc đời, trước trời đất. Thơ là tiếng hát của
tình cảm thiết tha mãnh liệt … Thơ tràn ra khi trong tim ta khi cuộc sống đã

tràn đầy. Bài thơ hay là bài thơ làm cho người ta khơng cịn cảm thấy câu thơ
mà chỉ thấy tình người… Thơ là một điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu”.
Nhà thơ Xuân Diệu cũng chung cảm nghĩ ấy khi viết “Thơ là tiếng gọi đàn, là
sự đồng thanh tương ứng,đồng khí tương cầu”.
Chế Lan Viên chịu ảnh hưởng của Valêri khi cho rằng “Thơ là sự phân
vân giữa nhạc và ý”. Nhà văn Nguyễn Tuân quan niệm “…thơ là ảnh, là nhân
ảnh, thơ cũng ở loại cụ thể hữu hình. Nhưng nó khác với cái cụ thể của văn.
Cũng mọc lên từ cái đống tài liệu thực tế, nhưng từ một cái hữu hình nó thức
dậy được những vơ hình bao la, từ một điểm nhất định, nó mở ra một cái diện
khơng gian, thời gian trong đó nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp… Thơ là mở
ra được một cái gì mà trước câu thơ đó, trước nhà thơ đó vẫn như là bị phong
kín”.
Trong bài Tựa tự viết cho tập thơ của mình, nhà thơ Sóng Hồng đã đưa ra
định nghĩa rất sâu sắc và toàn diện về thơ : “Thơ tức là sự thể hiện con người và
thời đại một cách cao đẹp”. Thơ là thơ đồng thời là vẽ, là nhạc, là chạm khắc
theo cách riêng “Thơ là nghệ thuật kỳ diệu bậc nhất của trí tưởng tượng”. “Thơ
là tình cảm và lí trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có nghệ thuật. Tình cảm
và lí trí ấy được diễn đạt bằng những hình tượng đẹp đẽ qua những lời thơ
trong sáng vang lên một nhạc điệu khác thường”. “Thơ là một viên ngọc kim
16


cương long lanh dưới ánh sáng mặt trời”. “Thơ cũng như nhạc có thể trở thành
một sức mạnh phi thường khi nó chinh phục được trái tim của quần chúng nhân
dân”.
Nhà nghiên cứu Phan Ngọc góp vào lĩnh vực này một định nghĩa rất đáng
chú ý “Thơ là một cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp
nhận phải nhớ, phải cảm xúc và phải nghĩ cho chính hình thức ngơn ngữ này”.
Theo Đỗ Đức Hiểu, xét về thi pháp, có thể đúc kết đặc trưng thơ thành
một số đặc điểm chủ yếu :

- Kết cấu trùng điệp.
- Kiến trúc đầy âm vang.
- Chất nhạc tràn đầy.
Như vậy, có rất nhiều câu trả lời khác nhau cho câu trả lời thơ là gì tùy
thuộc vào kinh nghiệm, tùy thuộc vào giác độ của từng nhà thơ, từng nhà nghiên
cứu. Tuy khác nhau nhưng hầu hết các nhà phê bình đều thống nhất ở thơ có hai
đặc điểm sau đây :
- Thơ trực tiếp bộc lộ cảm xúc, nỗi lòng, suy nghĩ của tác giả: tức là
khẳng định thơ thuộc phương thức trữ tình, đồng thời nhấn mạnh vai trò cảm
xúc và khả năng tạo nên sức đồng cảm mạnh mẽ đối với người đọc của thơ.
- Thơ có một tổ chức ngơn ngữ đặc biệt.
Có thể phát biểu một cách ngắn gọn : Thơ là một loại hình văn học tồn
tại bên cạnh truyện và kịch, là hình thức sáng tác văn học nghiêng về thể
hiện cảm xúc thông qua một tổ chức ngôn từ đặc biệt thành những câu văn
vần giàu nhạc tính, giàu hình ảnh và gợi cảm.
1.2.2. Đặc trưng của Ngôn ngữ thơ.
Thơ là một hình thức nghệ thuật tinh vi của sáng tạo văn học nghệ thuật.
Vì thế, ngơn ngữ thơ trước hết là ngôn ngữ văh học, nghĩa là : Ngôn ngữ mang
tính nghệ thuật được dùng trong văn học mang những đặc trưng riêng là tính
chính xác, tính hàm súc, tính đa nghĩa, tính tạo hình và biểu cảm.

17


Cũng như ngơn ngữ của các tác phẩm trữ tình khác, ngôn ngữ thơ là một
thể loại văn học được tổ chức trên cơ sỡ nhịp điệu một cách cô đọng, hàm súc và
rất gợi cảm, cụ thể là đặc trưng về ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp nhằm biểu trưng
hóa, khái quát hóa hiện thực khách quan theo cách tổ chức riêng của thơ ca.
1.2.2.1. Về mặt ngữ âm.
Đặc điểm nổi bật nhất của ngôn ngữ thơ so với văn xi là tính nhạc, chú

ý tổ chức các phương tiện ngữ âm. Thế giới nội tâm của nhà thơ không chỉ biểu
hiện bằng ý nghĩa của từ ngữ mà còn cả âm thanh và nhịp điệu: Các thành tố
tham gia tạo nên tính nhạc như thủ pháp nghệ thuật, biện pháp tu từ… Trong văn
xuôi, người ta không lặp lại ngữ âm thì trong thơ lặp lại ngữ âm trở thành một
biện pháp nghệ thuật hữu hiệu. Đối, điệp, láy, lặp…tạo nên tính nhạc khu biệt
ngơn ngữ thơ với văn xi.
Yếu tố quan trọng tạo nên tính nhạc và thơ là vần và nhịp. Vần tạo nên
nhịp, liên kết các dòng thơ, tạo nên sự hòa âm trong thi ca. Vần điệu, tiết tấu
được tạo thành bởi các nguyên âm, phụ âm, thanh điệu bằng- trắc, trầm-bổng…
không chỉ làm cho câu thơ có nhạc mà trong tồn bộ bài thơ, câu thơ, dòng thơ
đều lan tỏa ngân vang tiếng nhạc diệu kỳ. Vì thế, ngơn ngữ thơ trở thành nguồn
cảm hứng vô tận cho các nhạc sỹ phổ nhạc bài hát. Đó là sự kết hợp ăn ý giữa
nhạc của thơ với nhạc của âm nhạc tạo nên những rung động diệu kỳ, lay động
trái tim độc giả…Điều này chứng tỏ thi trung hữu nhạc (trong thơ có nhạc).
1.2.2.2. Về mặt ngữ nghĩa.
Nếu như văn xuôi hay văn bản khoa học, ngơn ngữ địi hỏi nghĩa đen,
chính xác, khơng mang tính hình ảnh thì trong địa hạt ngơn ngữ thơ, ngoài giá trị
biểu niệm, nghĩa đen, nghĩa gốc cịn có ý nghĩa mới nhờ sự chế tác, biến cái tài
ba của thi nhân làm cho nó trở nên tinh tế hơn, đa dạng và hấp dẫn hơn. Đó là
nghĩa bóng, nghĩa ẩn dụ hay cịn gọi là nghĩa biểu trưng của ngơn ngữ thơ. Vì
thơ bị giới hạn bởi câu chữ, cấu trúc, thể loại khác nhau chi phối sự lựa chọn câu
chữ lời ít ý nhiều. Nên, mỗi từ, ngữ được sử dụng một cách linh hoạt, linh động
và đa dạng.
18


Thơ ca là ý ở ngồi lời (ý tại ngơn ngoại ) là sự dồn nén chữ và nghĩa,
giữa cái được biểu đạt và cái được biểu đạt đã xâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau,
cùng nâng thơ lên tầng nghĩa cao hơn. Khoảng lặng trong thơ tạo nên giá trị ngữ
nghĩa vơ tận mà chúng ta phải huy động trí tưởng tượng phong phú, kinh

nghiệm dồi dào để khảo sát thơ. Chính vì vậy, ngơn ngữ thơ ln được sáng tạo
mới mẻ, tươi tắn làm cho cuộc hành trình của loài người thâm nhập vào địa hạt
thơ trở nên thú vị, hấp dẫn.
1.2.2.3. Về mặt ngữ pháp.
Ngôn ngữ thơ không bị áp chế giữa dòng thơ và câu thơ, nên trong thơ có
sự bất bình thường hay nói cách khác là qi đản. Có khi những câu thơ có
nhiều dịng thơ, lại có dịng thơ bao gồm nhiều câu, các thành phần trong dòng,
trong câu bị đảo lộn trật tự ngược lại với văn xi. Đây cịn gọi là hiện tượng vắt
dòng trong thơ ca Việt Nam hiện đại.
Thơ ca nhiều khi giữa các dịng, các vế câu, có ý là khơng có mối liên hệ
logic gì với nhau, hay trái ngược, thậm chí phi lý nhưng người đọc vẫn ngầm
hiểu được các ý trong câu, sự ẩn náu của ngữ nghĩa đằng sau bề mặt câu chữ.
Tầng nghĩa đằng sau cấu trúc ngữ pháp tưởng như không lý giải được trở nên
hợp lý, chấp nhận được mà chỉ có thể có trong thơ. Từ sự kết hợp bất bình
thường trong kiến trúc dòng thơ dẫn đến khả năng sáng tạo nên những kiểu câu
đa dạng: câu có một âm tiết đến câu có nhiều âm tiết, câu vắt dịng, câu trùng
điệp, đảo cú… Nó phụ thuộc vào bàn tay tài hoa của thi sĩ, không chỉ ảnh hưởng
đến quá trình tiếp nhận ngữ nghĩa của văn bản mà cịn mở ra những chân trời
ngữ nghĩa mới.
Nói tóm lại, từ đặc điểm ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa nói trên, ta thấy
rằng: Ngôn ngữ thơ là thứ ngôn ngữ nghệ thuật đặc thù. Bởi nó khơng chỉ là con
đẻ của nhà thơ mà còn là đối tượng sáng tạo lại của người tiếp nhận, thưởng
thức. Ngơn ngữ thơ có khả năng diễn đạt tình sâu ý viễn trong sự lựa chọn và kết
hợp từ, ngữ tạo nên khả năng vô cùng trong việc sáng tạo cũng như khám phá
những trạng thái tình cảm, tinh thần phong phú và bí ẩn của con người.
19


1.3. Vấn đề không gian.
1.3.1. Khái niệm không gian.

Không gian chính là khoảng khơng tồn tại trong vũ trụ. Theo “Từ điển
tiếng Việt” thì khơng gian- đó là hình thức tồn tại cơ bản của vật chất (cùng với
thời gian), trong đó các vật thể có độ dài và độ lớn khác nhau, cái nọ ở cách cái
kia, vật chất vận động trong không gian và thời gian. Không gian- đó là khoảng
khơng bao trùm mọi vật xung quanh con người.
Theo quan điểm của triết học không gian cùng với thời gian là hai chiều
tồn tại cơ bản của vật chất. Khơng gian tồn tại ngồi vật chất chỉ là khơng gian
trừu tượng vơ nghĩa. Khơng gian gắn bó mật thiết với thời gian và không thể
tách rời vật chất, chính nó tạo nên bối cảnh, mơi trường cho sự tồn tại của vật
thể. Không gian khách quan của thế giới tự nhiên được tạo nên bởi sự sắp xếp
một cách khách quan giữa các sự vật, nếu thay đổi trật tự sắp xếp đó sẽ dẫn đến
sự thay đổi các mặt khơng gian của nó. Để biểu thị khơng gian người ta đưa ra
các khái niệm biểu thị độ dài, ngắn, rộng, hẹp, cao, thấp, xa, gần, trên, dưới…
Và cụ thể hơn để đo những khoảng cách trong không gian có các đơn vị đo
lường như : mét, kilơmét.
Trong thế giới tự nhiên mỗi sự vật đều có một khơng gian khác nhau và
khơng gian đó là khơng gian của sự vật cụ thể, con người cũng là một vật thể
của tự nhiên, bởi vậy con người cũng tồn tại trong khơng gian và thời gian. Mỗi
con người có thể có những khơng gian sống riêng trong những thời điểm lịch sử
riêng. Cuộc sống con người gắn bó với những không gian cụ thể, thay đổi địa
điểm không gian khác có thể con người phải thay đổi cách sống cho phù hợp với
mơi trường, thậm chí là thay đổi cả số phận, tính cách và sống cuộc sống khác…
Vì thế mà có những câu ca dao từ xưa của ơng cha ta khá sâu sắc : “Ở bầu thì
trịn, ở ống thì dài” hay “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.
Khơng gian có mối quan hệ mật thiết sâu sắc với con người, là yếu tố
quan trọng của cuộc sống con người. Trong khơng gian có những kiểu loại đảm
20


nhận chức năng khác nhau tạo nên môi trường sống cho con người và địa điểm

cho mọi vật thể, sự vật trên trái đất. Không gian cũng được biến đổi dần theo trí
tuệ nhận thức của con người, nó cũng tồn tại vĩnh hằng theo thời gian.
Không gian hiện thực dưới lăng kính chủ quan của nhà văn thành khơng
gian nghệ thuật mang tính cảm quan của người nghệ sĩ.
Trong hiện thực, không gian là sự tồn tại về vật chất, cịn trong văn học
khơng gian là một hình thức tồn tại của nghệ thuật, một thành tố của nghệ thuật,
phản ánh quan niệm chủ quan của nhà văn về cuộc sống. Dưới ngòi bút sáng tạo
của cá nhân nghệ sĩ khi đi vào tác phẩm, không gian nghệ thuật tạo nên thế giới
không gian riêng cho tác phẩm, mở ra nét phong cách cá tính riêng của tác giả.
1.3.2. Từ biểu thị không gian trong ngôn ngữ.
Như chúng ta đã biết, vật chất dù ở dạng nào, vận động hay khơng vận
động đều có một vị trí nhất định, một khung cảnh nhất định trong tương quan về
mặt kích thước với các vật thể xung quanh. Lênin đã khẳng định : “Trong thế
giới, khơng có gì ngồi vật chất đang vận động và vật chất đang vận động
không thể ở đâu ngồi khơng gian và thời gian” (V.I.Lênin, tr.189- 193).
Vậy, ngơn ngữ cũng có khơng gian của nó. Khơng gian ngôn ngữ khác với
không gian vật lý khách quan trong nhận thức khoa học cũng như không gian
được phản ánh trong đầu óc con người với tư cách là một chủ thể nhận thức.
Không gian ngôn ngữ là kết quả của sự phản ánh có chọn lọc của khơng gian
nhận thức, nghĩa là không gian trong ngôn ngữ phản ánh tồn bộ khơng gian
nhận thức.
H.Clark cho rằng : “Khơng gian ngôn ngữ là không gian được biểu đạt
trong ngôn ngữ của các từ chỉ khơng gian, nó trực tiếp liên quan với khơng gian
được tri giác”.
Khơng gian có vai trị quan trọng trong ngơn ngữ, Nguyễn Đức Dân cũng
đã khẳng định điều đó : … “Những năm gần đây người ta nhận ra rằng khơng
gian có vai trị cơ bản hơn thời gian trong tổ chức ngơn ngữ. Hình ảnh thế giới
21



được phản ánh qua ngôn ngữ trước hết là phản ánh về nhận thức không gian rồi
mới tới thời gian”.
Đến nay, chưa có một cơng trình nghiên cứu nào đi sâu vào việc tìm hiểu
tồn diện về khơng gian ngơn ngữ nhưng qua cơng trình nghiên cứu về ngữ
nghĩa của các nhà ngôn ngữ trên thế giới như Lyons, leech, Talmy, H.Clark… và
của những nhà Ngôn ngữ Việt Nam như : Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Đức Tồn,
Lý Toàn Thắng… chúng ta có thể biết khơng gian ngơn ngữ có các thuộc tính và
quan hệ sau :
- Hình dáng : được biểu đạt trong ngơn ngữ với các từ như trịn, vng , méo.
- Kích cỡ : được biểu đạt trong ngôn ngữ với các từ như dài, to, nhỏ.
- Khoảng cách : được biểu đạt trong ngôn ngữ với các từ như xa, gần
- Tư thế : được biểu đạt trong ngôn ngữ với các từ như thẳng đứng,
nghiêng.
- Nơi chốn : được biểu đạt trong ngôn ngữ với các từ như giữa, trong,
trên, dưới.
- Phương hướng : được biểu đạt trong ngôn ngữ với các từ như lên, ra.
[3, tr.28-29].
1.3.3. Khái niệm không gian nghệ thuật.
Từ không gian vật lý chuyển thành không gian nghệ thuật là cả một q
trình vận động, biến chuyển khơng ngừng. Khơng gian nghệ thuật là mơ hình
nghệ thuật về thế giới mà con người đang sống, đang cảm thấy vị trí, số phận
của mình ở đó. Khơng gian nghệ thuật được quan niệm như mối quan hệ biện
chứng của quan niệm về con người và hiểu biết cho quan niệm ấy… Không gian
nghệ thuật có mối quan hệ mật thiết với khơng gian hiện thực. Không gian nghệ
thuật mang quan niệm suy tưởng của nhà văn, biểu hiện của cách cảm thụ, tiếp
nhận, là hiện diện của khơng gian tâm tưởng. Trần Đình Sử có ý kiến : “Khơng
gian nghệ thuật được hiểu đó là phạm trù của hình thức nghệ thuật, là phương
thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật. Nếu thế giới nghệ thuật là thế

22



giới của cái nhìn và mang ý nghĩa thì khơng gian nghệ thuật trường nhìn mở ra
từ một điểm nhìn, một cách nhìn độc đáo của tác giả” [22, tr.180].
Khơng gian trong văn học là yếu tố không gian đã mang một nội dung
thẩm mỹ mới, một yếu tố được khúc xạ qua tâm hồn nhà văn góp phần chuyển
tải nội dung tư tưởng của nhà văn.
Nó là quy luật của người sáng tạo ngệ thuật, là phép biện chứng tâm hồn
của người hoạt động nghệ thuật, hay nói theo khuynh hướng lý luận phê bình thì
đó là yếu tố của thi pháp học, là một hình thức cách nói khơng gian mang ý
nghĩa. Trần Đình Sử có ý kiến : “ Khó mà hiểu hết đặc điểm trong quan niệm về
thế giới và con người của một nhà thơ nếu khơng tìm hiểu khơng gian trong các
sáng tác đó”.
Khơng gian nghệ thuật tạo nên tính chỉnh thể trọn vẹn của tác phẩm văn
học cùng với thời gian nghệ thuật thể hiện một cách sáng tạo mới mẻ, nhãn quan
sáng tác của tác giả. Là hội tụ của quan điểm nghệ thuật, kết nối mạch vùng các
điểm sáng của thi pháp học. Bản thân nó cũng thể hiện quan niệm của tác giả đối
với cuộc đời.
Trong cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” thì thuật ngữ “Khơng gian nghệ
thuật” được hiểu : “Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về khơng gian nên
mang tính chủ quan, ngồi khơng gian vật thể có khơng gian tâm tưởng. Khơng
gian nghệ thuật có tính độc lập tương đối khơng quy ước vào không gian địa lý.
Không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học có tác dụng mơ hình hóa các
mối quan hệ của bức tranh thế giới như : Thời gian, xã hội ,tơn ti, đạo đức…
khơng gian có thể mang tính cản trở để mơ hình hóa các kiểu tính cách con
người” [ 10, tr.134].
Cịn có ý kiến của Trần Đình Sử : “ Khơng gian nghệ thuật là mơ hình
khơng gian của thế giới nghệ thuật. Sự đối lập và liên hệ của các yếu tố không
gian các miền phương vị , các chiều… Tạo thành các ngôn ngữ nghệ thuật để
biểu hiện thế giới quan niệm của tác phẩm. Sự lặp lại của hình thức khơng gian


23


chính là sự tạo thành tính cách loại hình của không gian nghệ thuật trong tác
phẩm” [21, tr.93].
Bất cứ một hình thức nghệ thuật nào cũng mang dụng ý sáng tác của tác
giả, lý giải cho mọi logic của tác phẩm. Yếu tố khơng gian nghệ thuật gắn liền
với trình độ nhận thức của con người về vũ trụ về thế giới tự nhiên của con
người. Thuở xưa, trong các tác phẩm truyền thuyết đã tái hiện cuộc sống con
người hoang dã bí hiểm. Vũ trụ rộng lớn, kì vĩ, thần kỳ, do đó mà ngay trong
nền văn học dân gian đã có ước mơ khắc phục khoảng cách. Khơng gian trong
văn học dân gian là không gian lãng mạn, khơng gian của trí tưởng tượng phong
phú. Núi, sơng, bầu trời không là trở ngại ngăn cách họ nữa bởi vì bằng đơi cánh
của mình họ đã có vài dặm, thảm biết bay, con chim khổng lồ.
Còn trong ca dao thì khơng gian làng q, sinh hoạt làng q lại chiếm ưu
thế : cây đa, bến nước, mái đình, đồng ruộng là nơi xuất hiện tâm sự của những
nhân vật : anh trai cày, cô thôn nữ, đứa trẻ chăn trâu.
- Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.
- Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về q mẹ ruột đau chín chiều.
- Qua đình ngã nón trơng đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.
Trong văn học trung đại không gian nghệ thuật thường lặp lại một kiểu
nhất định : Không gian trên cao, không gian tĩnh, sự tương đồng hô ứng giữa
con người và không gian lớn của vũ trụ. Thiên nhiên là điểm tựa của con người,
con người sống hòa vào thiên nhiên vũ trụ. Không gian ước lệ tượng trưng :

“ Côn Sơn suối chảy rì rầm

24


Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
Cơn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm
Trong ghềnh thơng mọc như nêm
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm
Trong rừng có bóng trúc râm
Dưới màu xanh ngát ta ngâm thơ nhàn”.
Trần Đình Sử đã nhận xét khơng gian nghệ thuật thể hiện quan niệm về
trật tự thế giới : “Mơ hình thế giới có thể tạo thành bởi các cặp tương quan : ở
đây- ở kia, quê nhà- quê người, làng quê- thành phố, cõi tiên- cõi phàm, ngục
tù- tự do, xã hội- tự nhiên” [ 21, tr.90]. Mỗi khơng gian đều có tính chất và quy
luật của nó, có thể xem khơng gian nghệ thuật trong tác phẩm như là một hệ
thống mà không gian nhân vật lại là một yếu tố : “ Nếu tác phẩm thường có kiểu
khơng gian như : thành phố, vườn hoa, trang trại, ngơi nhà, con đường… thì
khơng gian nhân vật bao gồm sự cảm nhận không gian ấy” [ 21, tr.91].
Trong văn chương cổ điển : “ Những cảm xúc không gian bao giờ cũng
nhuốm màu tôn giáo và triết học. Không gian là một khối lượng không thuần
nhất, có trung tâm và có ngoại vi” [ 21, tr.90].
Văn học hiện đại, không gian thơ Mới phong phú, giàu cảm xúc. Không
gian nghệ thuật mang dấu ấn người nghệ sĩ, góp phần bộc lộ tư tưởng, tình cảm
của nhà văn đối với con người.
Xuân Diệu cảm nhận :
“Không gian như có dây tơ
Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu”.
Huy Cận trợn ngợp trước không gian đất trời :
“Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sơng dài trời rộng bến cô liêu”.


25


×