Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học mối LIÊN hệ GIỮA lý LUẬN và THỰC TIỄN và vận DỤNG PHÂN TÍCH mối LIÊN hệ GIỮA đổi mới tư DUY với đổi mới KINH tế ở nước TA cô TÙNG lâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.32 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
Khoa Lý luận Chính trị
------***------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
MỐI LIÊN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VÀ VẬN DỤNG
PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI TƯ DUY VỚI
ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở NƯỚC TA.

Hà Nội, tháng 5 năm 2021

MỤC LỤC


2


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ bản, là
linh hồn của triết học Mác - Lênin. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, C.Mác đã phát
hiện ra sức mạnh của lý luận chính là mối liên hệ của nó với thực tiễn, cũng như sức
mạnh của thực tiễn là ở mối quan hệ của nó với lý luận. Sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn là sự thống nhất biện chứng và cơ sở của sự tác động qua lại ấy chính là thực
tiễn. Thực tiễn ln ln vận động, biến đổi, do đó lý luận cũng khơng ngừng đổi mới,
phát triển; sự thống nhất biện chứng giữa chúng - vì thế - cũng có những nội dung cụ thể
và những biểu hiện khác nhau trong mỗi thời đại, mỗi giai đoạn lịch sử.
Với tư cách là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng cộng sản Việt Nam
đã lãnh đạo đất nước tiến hành thành công công cuộc đổi mới, đưa nước ta bước đầu
thốt khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội, hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền


kinh tế quốc tế. Trong công cuộc đổi mới này, Đảng xác định trước hết phải đổi mới về
tư duy, trong đó, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm.
Từ trước đến nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về quá trình đổi mới ở Việt
Nam, dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, chưa có nhiều cơng trình lý giải cặn kẽ
về mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta. Do đó, để vận dụng kiến
thức đã học vào thực tiễn, góp phần nghiên cứu mặt lý luận của vấn đề này, bằng những
kiến thức được học từ môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin, đặc biệt
là nội dung về lý luận và thực tiễn, em xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Mối liên hệ
giữa lý luận và thực tiễn và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa đổi mới tư duy
với đổi mới kinh tế ở nước ta”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

Đề tài được nghiên cứu nhằm mục đích vận dụng kiến thức đã học, nêu lên mối
liên hệ giữa lý luận và thực tiễn từ đó đưa ra những nhận định, lý giải và phân tích về
mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta.
Để đạt được mục tiêu đó, đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu chung: phương
3


pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các phương pháp
nghiên cứu cụ thể: phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp chuyên gia…
3. Nhiệm vụ nghiên cứu

Bài tiểu luận tập trung triển khai, phân tích 2 nội dung chủ yếu:
Chương 1: Lý luận và thực tiễn
Chương 2: Mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta

4



NỘI DUNG
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN THỰC TIỄN
1. Khái niệm Lý luận
Lý luận là sản phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, đồng thời thể hiện như
trình độ cao của nhận thức. Các khái niệm lý luận gắn liền với những hệ thống lý luận nhất
định.
Lý luận học có quan hệ mật thiết với rất nhiều môn khoa học khác. Đối tượng
nghiên cứu của Lý luận học là tư tưởng của con người và công nghệ tư duy của con người
mang tính lý luận cùng những vấn đề cơ bản của lý luận nhằm cải biến thực tế khách quan
vì sự phát triển của con người và đem lại lợi ích cho con người.
Lý luận là xuyên suốt và chi phối tư duy logic, qua đó, chi phối ngày càng mạnh
mẽ mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của đời sống xã hội. Không thể đồng nhất mọi
khái niệm lý luận với chân lý vì lý luận có hai dạng - khái niệm lý luận chân chính - khoa
học và khái niệm lý luận giả tạo - phản khoa học.
Lý luận thường mang tính hệ thống, dù là chân chính - khoa học hay giả tạo - phản
khoa học. Tính hệ thống của một lý luận phản ánh - hoặc trung thực hoặc xuyên tạc tính hệ
thống vốn có ở bản thân đối tượng được phản ánh, qua đó mà phản ánh trung thực hoặc
xuyên tạc cấu trúc nội tại cùng với bản chất của đối tượng.
Lý luận không tự thân xuất hiện, tồn tại, vận động, phát triển. Xét đến cùng, giá trị
cũng như sự xuất hiện, tiêu vong của một khái niệm là ở khả năng phản ánh đời sống thực
tiễn một cách trung thực, chính xác và sâu sắc như thế nào và nhờ đó, nó có khả năng
định hướng cho đời sống thực tiễn như thế nào.
2. Khái niệm Thực tiễn
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử, xã
hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
5


Thực tiễn có các đặc trưng: là hoạt động vật chất, khơng phải hoạt động tinh thần;
mang tính mục đích và có ý thức của con người; mang tính lịch sử - xã hội, tùy thuộc bối

cảnh, không gian, thời gian mà thực tiễn có cách thức, phương pháp thực hiện khác nhau;
hướng tới cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và từ đó cải tạo chính bản thân con người.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người, là dạng hoạt động cơ bản và
phổ biến của xã hội lồi người, mang tính lịch sử-xã hội cụ thể. Con người phải lao động sản
xuất, chế tạo và sử dụng công cụ lao động, để tạo ra của cải vật chất ni sống mình. Do đó,
thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên và
chủ yếu của quan hệ giữa con người và thế giới.
Thực tiễn có các hình thức tồn tại cơ bản: hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động
chính trị-xã hội; hoạt động thực nghiệm khoa học. Trong đó hoạt động sản xuất vật chất
giữ vai trò trung tâm, tuy nhiên, các hoạt động chính trị-xã hội và thực nghiệm khoa học
cũng có tính độc lập tương đối của mình.
Vậy, vấn đề quan hệ giữa hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn với tư cách là hai
lĩnh vực cơ bản nhất của hoạt động xã hội phải được hiểu như thế nào?
3. Mối quan hệ giữa Lý luận và Thực tiễn
Trước hết, thực tiễn là cơ sở, mục đích và động lực chủ yếu, trực tiếp của nhận
thức và do đó, cũng là của lý luận. Thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức, lý luận.
Mọi tri thức, lý luận, xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Ngày nay khi khoa học đã
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, mối quan hệ này cũng không thay đổi. Bản thân
khoa học chỉ có khả năng đem lại hình ảnh về thế giới với những đặc trưng, bản chất của
nó. Lực lượng sản xuất vẫn tồn tại với tư cách là đối tượng của khoa học, còn khoa học
vẫn tiếp tục là hình thức hoạt động tinh thần của con người, là sự phản ánh hiện thực.
Lý luận luôn phục tùng thực tiễn, phục vụ thực tiễn và phát triển trên cơ sở cải tạo
thực tiễn xã hội. Chỉ khi được đưa vào thực tiễn, ý niệm, tư tưởng, lý luận mới có thể "cải
tạo" thế giới. Nếu dừng lại trong lĩnh vực ý thức, chúng khơng có khả năng cải biến một
cái gì ngồi khả năng ý thức. Các tư tưởng, tự chúng, không phải là thực tiễn, mơ hình lý
6


tưởng về xã hội tương lai thiếu sự cải tạo vật chất chỉ là mơ hình lý luận. Lý luận hồn
thành một chức năng nào đó trong xã hội khơng phải là ở ngồi khn khổ của thực tiễn,

mà là ở bên trong bản thân thực tiễn xã hội.
“Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù qng. Lý luận mà
khơng có liên hệ với thực tiễn là lý luận sng" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 496). Như
vậy, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được hiểu trên tinh thần biện chứng: thực tiễn
cần tới lý luận soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng để không mắc phải
bệnh kinh nghiệm, còn lý luận phải dựa trên cơ sở thực tiễn, phản ánh thực tiễn và phải
luôn liên hệ với thực tiễn, nếu không sẽ mắc phải bệnh giáo điều. Nghĩa là thực tiễn, lý
luận cần đến nhau, nương tựa vào nhau, hậu thuẫn, bổ sung cho nhau.
Lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với thực tiễn, lý luận "như cái kim chỉ nam,
nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong cơng việc thực tế. Khơng có lý luận thì trong
hoạt động thực tiễn người ta dễ chỉ dựa vào kinh nghiệm, dễ dẫn tới tuyệt đối hóa kinh
nghiệm, cho kinh nghiệm là yếu tố quyết định thành cơng trong hoạt động thực tiễn.
“Khơng có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 234
- 235). "Làm mà khơng có lý luận thì khơng khác gì đi mị trong đêm tối vừa chậm chạp
vừa hay vấp váp" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 47). Làm mị mẫm chính là biểu hiện
của bệnh kinh nghiệm. Kém lý luận, khinh lý luận khơng chỉ dẫn tới bệnh kinh nghiệm
mà cịn dẫn tới bệnh giáo điều. Bởi lẽ, do kém lý luận, khinh lý luận nên không hiểu thực
chất lý luận, chỉ thuộc câu chữ lý luận và do đó cũng khơng thể hiểu được bản chất và
cũng không thể vận dụng được lý luận vào giải quyết những vấn đề thực tiễn mới nảy
sinh. Nếu có vận dụng thì cũng khơng sát thực tế không phù hợp với thực tiễn.
Tuy nhiên, Lý luận phải kết hợp chặt chẽ với kinh nghiệm thực tế, liên hệ với thực
tiễn nếu không lại mắc phải bệnh lý luận suông, tức bệnh giáo điều. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định, "Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái
đích để bắn. Có tên mà khơng bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như khơng có tên" (Hồ Chí
Minh, 1995, tập 5, tr. 235); "Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà
không áp dụng vào công việc thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng
vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hịm đựng
7



sách" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5 tr. 234).
Mối liên hệ của thực tiễn với lý luận còn thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu chuẩn
chân lý, lấy thực tiễn để kiểm tra lý luận. Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có
thể đạt tới chân lý khách quan khơng, hồn tồn khơng phải là một vấn đề lý luận mà là
một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý.
Nhận thức khoa học cịn có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn logic. Nhưng tiêu chuẩn
logic khơng thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn, và xét đến cùng, nó cũng phụ thuộc
vào tiêu chuẩn thực tiễn.
Quan hệ giữa thực tiễn và lý luận là một quá trình mang tính lịch sử - xã hội cụ
thể. Quan hệ giữa chúng là quan hệ biện chứng. Nắm bắt được tính chất biện chứng của
q trình đó, là tiền đề quan trọng giúp chúng ta có được lập trường thực tiễn sáng suốt,
tránh được chủ nghĩa thực dụng thiển cận, cũng như chủ nghĩa giáo điều máy móc và
bệnh lý luận suông.

8


CHƯƠNG II: MỐI LIÊN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI TƯ DUY VÀ ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Lý do đổi mới

Trong giai đoạn sau giải phóng, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu tìm tịi,
xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng
Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan: nóng vội trong
cải tạo xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần; có lúc đẩy mạnh q
mức việc xây dựng cơng nghiệp nặng; duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung
quan liêu, bao cấp; có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương;
công tác tư tưởng và tổ chức cán bộ phạm nhiều khuyết điểm nghiêm trọng.
Những sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan này đã dẫn đến
khủng hoảng trầm trọng về kinh tế xã hội ở Việt Nam những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ

trước. Tình hình kinh tế - xã hội có những khó khăn gay gắt: sản xuất tăng chậm; hiệu quả
sản xuất và đầu tư thấp; đời sống nhân dân lao động gặp nhiều khó khăn; hiện tượng tiêu
cực xảy ra ở nhiều nơi và có nơi nghiêm trọng…
Chúng ta có khuyết điểm trong việc đánh giá tình hình cụ thể của đất nước, trong
việc xác định mục tiêu và bước đi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những sai
lầm nói trên là sai lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược
và về tổ chức thực hiện.
Những sai lầm và khuyết điểm trong lĩnh vực kinh tế, xã hội bắt nguồn từ những
khuyết điểm trong công tác tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng.
Trong lĩnh vực tư tưởng, đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và sự yếu kém
về vận dụng các quy luật trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Về tổ chức,
khuyết điểm lớn nhất là thiếu quy hoạch và chậm đổi mới cán bộ; vi phạm nguyên tắc tập
trung dân chủ trong sinh hoạt đảng, phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc mang nặng

9


chủ nghĩa quan liêu; tổ chức bộ máy quá lớn, chồng chéo và kém hiệu lực; giáo dục và
quản lý cán bộ, đảng viên thiếu chặt chẽ.
Trong hoàn cảnh ấy, vấn đề sống cịn là đưa đất nước thốt ra khỏi khủng hoảng.
Mặt khác, chính trị thế giới có nhiều biến động phức tạp, tiềm ẩn những bùng nổ, thay đổi
bất lợi cho sự phát triển của nước ta theo cơ chế lúc bấy giờ. Trong tình thế cần lựa chọn,
điều chỉnh, thay đổi, bằng kinh nghiệm lãnh đạo sáng suốt nhìn thẳng vào sự thật, tin
tưởng vào lực lượng quần chúng và trách nhiệm lớn lao trước vận mệnh của Tổ quốc,
Đảng ta đã kiên quyết đổi mới trên tất cả các lĩnh vực, trước hết là đổi mới về tư duy và
trọng tâm là đổi mới về kinh tế.
2. Nội dung đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế
2.1. Đổi mới tư duy

Mục tiêu, bản chất của chủ nghĩa xã hội: Mỗi quốc gia, dân tộc đều phải suy nghĩ,

tìm tịi, lựa chọn để làm sao vừa theo đúng quy luật chung vừa phù hợp với điều kiện, đặc
điểm của nước mình. Hiện nay, nước ta cịn đang ở thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội,
có rất nhiều vấn đề cần được nhận thức, vận dụng đúng đắn, phù hợp với thực tế và quy
luật khách quan; khơng thể nơn nóng, giáo điều, máy móc.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Đối với nước ta trong giai đoạn
hiện nay, giải phóng và phát triển sức sản xuất, bảo đảm cho kinh tế tăng trưởng nhanh,
phát triển bền vững phải là nhiệm vụ chính trị trọng đại số một, nhiệm vụ trọng tâm.
Phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội: Tại Đại hội VI
lần đầu tiên trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã đặt đúng tầm vấn đề xã hội
trong mối quan hệ với kinh tế. Và càng về sau Đảng ta càng khẳng định phải gắn kinh tế
với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế đi đôi
với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn hóa thực sự
là nền tảng tinh thần của xã hội: Phát triển văn hóa đồng bộ và tương xứng với tăng
trưởng kinh tế, phát triển xã hội, tiến bộ chính trị, là một định hướng căn bản của quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thể hiện sự nhận thức mới, sự phát triển tư duy
lý luận của Đảng ta.
Giữ vững mơi trường hịa bình, hữu nghị vì sự phát triển của đất nước: Chúng ta đã
đổi mới nhận thức về tình hình thế giới và khu vực; chuyển từ cách nhìn thế giới chỉ dưới
10


góc độ một vũ đài đấu tranh sang cách nhìn tồn diện hơn; coi thế giới như mơi trường tồn
tại và phát triển của Việt Nam; đổi mới tư duy đối ngoại theo tinh thần "thêm bạn bớt
thù"…
Xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa: Chúng ta
từng bước nhận thức sâu sắc hơn, cụ thể hơn về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa kinh tế và quốc phòng - an ninh - đối ngoại;
nhận thức toàn diện hơn về khái niệm "an ninh quốc gia" và "bảo vệ Tổ quốc".
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của

nhân dân: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ chính trị ở nước ta. Báo cáo
Chính trị tại Đại hội VII của Đảng cũng chỉ rõ: Thực chất của cơng cuộc đổi mới và kiện
tồn hệ thống chính trị ở nước ta là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; dân chủ vừa
là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới.
Nâng cao vai trò lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Đảng: Sự lãnh đạo của Đảng
là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cơng cuộc đổi mới cũng như tồn bộ sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta. Để có đủ khả năng và điều kiện lãnh đạo đúng đắn và có hiệu
quả, Đảng càng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, coi đây là quy luật tồn tại và
phát triển của Đảng.
2.2. Đổi mới kinh tế

Đổi Mới về kinh tế được định nghĩa là: Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cụ thể:
Một là, từ quan niệm về nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
một nền kinh tế chủ yếu có hai thành phần xã hội chủ nghĩa đã đi đến quan niệm về một
nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế này,
ngoài hai thành phần nói trên, cịn có: kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế ấy đều là bộ phận của nền kinh tế quốc
dân, bình đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại và phát triển lâu dài, cùng hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh.
Hai là, từ quan niệm cho rằng, để xây dựng được quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa, phải nhanh chóng hồn thành cải tạo kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể, tiểu
chủ là những thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, đã đi đến quan niệm cho rằng việc

11


cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới nhất thiết phải phù hợp với
từng bước phát triển của lực lượng sản xuất.

Ba là, từ quan niệm chế độ xã hội chủ nghĩa chỉ có một chế độ sở hữu duy nhất là
chế độ công hữu về tất cả các tư liệu sản xuất đã đi đến quan niệm về một nền kinh tế
nhiều sở hữu. Trong đó, khơng chỉ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất được thừa nhận, mà
ngay chế độ công hữu cũng được hiểu không phải về tất cả các tư liệu sản xuất mà chỉ là
về các tư liệu sản xuất chủ yếu để làm chỗ dựa cho nền kinh tế quốc dân.
Bốn là, từ quan niệm kinh tế quốc doanh là chủ đạo đã đi đến quan niệm kinh tế nhà
nước (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và những bộ phận khác như dự trữ quốc gia, ngân
sách nhà nước...) là chủ đạo.
Năm là, từ quan niệm hợp tác xã thuần túy là kinh tế tập thể, cho rằng tập thể hóa tư
liệu sản xuất càng mạnh, tỷ trọng sở hữu tập thể càng cao thì hợp tác xã càng gần chủ nghĩa
xã hội, do đó mà gò ép những người lao động cá thể vào hợp tác xã, đã đi đến quan niệm
hợp tác xã là một tổ chức kinh tế được hình thành trên cơ sở người lao động tự nguyện góp
sức, góp vốn và quản lý dân chủ, với quy mô và mức độ tập thể hóa tư liệu sản xuất khác
nhau.
Sáu là, từ quan niệm hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, với việc
xóa bỏ nhanh các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, ngay từ đầu, đã là nền tảng của
nền kinh tế quốc dân, đã đi đến quan niệm rằng muốn cho hai thành phần kinh tế nhà
nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân,
thì phải trải qua một quá trình xây dựng, củng cố và phát triển hai thành phần đó với
những bước đi thích hợp.
Bảy là, từ quan niệm Nhà nước phải chỉ huy nền kinh tế theo một kế hoạch tập
trung với những chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống, đã đi đến quan niệm phân biệt rõ
chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với chức năng quản lý kinh doanh; chức năng
quản lý nhà nước về kinh tế và chủ sở hữu tài sản cơng là thuộc Nhà nước, cịn chức năng
quản lý kinh doanh thì thuộc về doanh nghiệp.
Tám là, từ quan niệm chỉ thừa nhận một hình thức phân phối duy nhất chính đáng
là phân phối theo lao động, đã đi đến quan niệm thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy
phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa
trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và phân phối thông qua
phúc lợi xã hội.

12


Chín là, từ quan niệm thị trường xã hội chủ nghĩa đối lập với thị trường tư bản chủ
nghĩa, hạn chế quan hệ kinh tế quốc tế, đã đi đến quan niệm về một nền kinh tế mở, thực
hiện đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và toàn
cầu; kết hợp nội lực với ngoại lực, lấy phát huy nội lực là chính, đồng thời ra sức tranh
thủ ngoại lực để tạo nên sức mạnh tổng hợp; thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế nhưng vẫn
giữ được tính độc lập tự chủ, giữ được độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân
tộc.
Mười là, từ chỗ quan niệm đồng nhất kinh tế thị trường với kinh tế tư bản chủ
nghĩa đã đi đến quan niệm coi sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường khơng phải là sản
phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản, mà là thành quả phát triển qua nhiều phương thức sản
xuất mặc dù đến chủ nghĩa tư bản thì kinh tế thị trường phát triển đến mức điển hình.
3. Mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế
Tại sao Đảng ta lại đặt ra yêu cầu cấp bách của công cuộc đổi mới, trước hết là đổi
mới tư duy? Bởi vì khơng có bước đổi mới tư duy đi trước thì khơng có bất cứ một sự
đổi mới nào cả. Đổi mới tư duy để tìm ra những vấn đề lý luận và thực tiễn nước ta, làm
căn cứ phương pháp luận cho việc xác định con đường và bước đi sắp tới. Đổi mới tư duy
thực chất là một cuộc giải phóng triệt để mang ý nghĩa lịch sử. Tư tưởng giải phóng là
một q trình rời bỏ khỏi bản thân mình và tồn xã hội những gì đang kìm hãm và cản trở
sự phát triển, là quá trình tổ chức lại xã hội và đưa vào cơ chế vận hành của xã hội một hệ
thống đồng bộ các yếu tố vật chất và tinh thần, tạo nên lực đẩy cho sự phát triển nhanh và
bền vững.
Ngày nay cách mạng đã chuyển sang một giai đoạn phát triển mới khác về chất: Xây
dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa - Một phương thức chưa từng
có trong tiền lệ. Con đường mới lại diễn ra trong xu thế tồn cầu hố và sự cạnh tranh rất
quyết liệt trước sức ép của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, trước sự phát triển
như vũ bão của cách mạng khoa học và cơng nghệ. Trong hồn cảnh ấy, đổi mới tư duy và
phương thức lãnh đạo của Đảng trở thành nhu cầu không thể thiếu.

Thực tiễn cho thấy, sức sống của một Đảng chính trị tập trung trước hết là ở đường
lối của chính Đảng ấy. Là một Đảng cầm quyền, Đảng ta lãnh đạo cách mạng cũng chính
bằng đường lối chính trị của mình.
13


Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa rõ ràng là những vấn đề hoàn toàn
mới cả về lý luận và thực tiễn. Mác, Ăng ghen, Lênin và kể cả các lãnh tụ tiền bối của Đảng
ta cũng chưa từng đề cập đến vấn đề này. Con đường phía trước địi hỏi chúng ta phải hồn
tồn sáng tạo mới.
Con đường ấy vừa thể hiện sự trung thành với quá khứ, nhưng không lệ thuộc vào
quá khứ. Trong kinh tế, chúng ta một mặt rất muốn phát triển, nhưng mặt khác lại rất sợ
phát triển vượt khỏi khuôn khổ chuẩn mực của chủ nghĩa xã hội theo những tiêu chí truyền
thống. Vì vậy, đường lối kinh tế vẫn mang nặng hơi thở của lối tư duy cũ, tư duy thời kế
hoạch hoá-tư duy bao cấp, đối lập với kinh tế thị trường. Kết quả là đường lối đổi mới trong
kinh tế chưa thực sự khơi dậy mọi nguồn lực hiện có. Nguy cơ tụt hậu về kinh tế ngày càng
xa hơn là có thật. Do đó, Đảng đã chỉ đạo chuyển sang kinh tế thị trường, thiết kế một hệ
thống chính sách nhằm tạo điều kiện để tất cả mọi công dân ở trong nước và các nhà đầu tư
nước ngồi, có khả năng làm kinh tế đều hồn tồn có thể tham gia làm kinh tế, theo những
định hướng vĩ mô của nhà nước, trong khuôn khổ của luật pháp.
Đường lối đổi mới là sản phẩm của đổi mới tư duy, của sự khảo nghiệm từ thực tiễn
xây dựng chủ nghĩa xã hội nhiều năm trước đó, là sự kế thừa và phát triển đường lối đã
hình thành qua các thời kỳ và tổng kết thực tiễn một cách nghiêm túc, sáng tạo.
Khẳng định đổi mới tư duy là trước tiên, là cơ sở cho việc đổi mới ở các lĩnh vực
khác, Đảng ta cũng khẳng định đổi mới kinh tế giữ vai trị trọng tâm. Điều đó khơng
chỉ có ý nghĩa là kinh tế có vị trí hàng đầu, có tác dụng quyết định mà cịn là vì phát triển
kinh tế trong điều kiện bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội như nước
ta, có tầm quan trọng đặc biệt, nếu khơng muốn nói là quan trọng bậc nhất.
Nó cịn có ý nghĩa là vai trò kinh tế tuy chiếm vị trí hàng đầu nhưng tư duy kinh tế của
chúng ta trong nhiều năm qua còn quá lạc hậu so với cuộc sống, cản trở khơng ít đến sự phát

triển kinh tế. Tư duy kinh tế lỗi thời bắt nguồn từ căn bệnh giáo điều, bảo thủ, trì trệ, ln
bám lấy cái cũ, khơng chịu đổi mới, chính vì vậy mà nền kinh tế - xã hội nước ta đã lâm vào
một cuộc khủng hoảng kéo dài và đang trở thành vấn đề nóng bỏng, nổi lên hàng đầu. Đổi
mới tư duy kinh tế, vì vậy, là điểm xuất phát trong đổi mới lý luận của Đảng, là điều hợp với
thực tế, với logic cuộc sống.
14


Trong quá trình đổi mới, từ thực tế nền kinh tế nước ta ở điểm xuất phát thấp kém,
lạc hậu, lại lâm vào khủng hoảng từ cuối thập niên bảy mươi, Đảng ta chủ trương lấy đổi
mới kinh tế làm trọng tâm, tạo ra bước phát triển có tính bứt phá để sớm đưa đất nước ra
khỏi khủng hoảng, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Đảng, Nhà nước ta đã đưa đất
nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội từ 1996 và đạt thành tựu to lớn về kinh tế qua 20
năm đổi mới.
Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, chính trị có vị trí và tác động to lớn
tới kinh tế. Thấu triệt sâu sắc và xử lý thành công mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế
trong cơng cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi
mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước
đổi mới chính trị.

15


KẾT LUẬN
Lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, thống nhất hữu cơ với nhau. Lý
luận là kim chỉ nam cho hành động thực tiễn, thực tiễn là cơ sở, mục đích, động lực và là
tiêu chuẩn để kiểm nghiệm lý luận. Trong thực tiễn cách mạng nước ta, có những vấn đề
mới nảy sinh, nằm ngồi phạm vi lý luận đã biết, buộc Đảng ta phải vận dụng linh động,
sáng tạo và chủ động tổng kết thực tiễn, xây dựng lý luận nhằm tìm ra phương thức, biện
pháp hoạt động phù hợp. Sự nghiệp đổi mới là một trong những vấn đề như vậy, trong quá

trình đổi mới, Đảng ta đã chủ động, sáng tạo, vừa thực hiện, vừa tổng kết lý luận, vừa xây
dựng lý luận, vừa kiểm nghiệm và định hướng cho hoạt động thực tiễn.
Trải qua hơn 20 năm đổi mới thành công, sự nghiệp đổi mới đã được rất nhiều học
giả nghiên cứu ở phạm vi thế giới cũng như ở Việt Nam. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài
này, tôi đã cố gắng bám sát lý luận đã được trang bị ở môn Những nguyên lý cơ bản của
Chủ nghĩa Mác – Lê nin, đặc biệt là nội dung về mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn, từ
đó phân tích về mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế trong sự nghiệp đổi
mới toàn diện ở nước ta. Nhưng do thời gian nghiên cứu có hạn, kinh nghiệm nghiên cứu
cịn hạn chế, tài liệu tản mạn, đồng thời vấn đề mà tôi nghiên cứu khơng phải là dễ. Vì
vậy, đề tài khơng tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tơi hy vọng rằng vấn đề này sẽ
được tổ chức nghiên cứu ở phạm vi rộng lớn và sâu sắc hơn.

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa X về “Tiếp tục
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ mơn khoa học
Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình triết học Mác – Lê nin, nhà xuất bản chính
trị quốc gia, 2004.
Lưu Hà Vĩ, Khái niệm lý luận, tạp chí Triết học, số đăng ngày 4/12/2006.
Nguyễn Phú Trọng, Đổi mới tư duy lý luận vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội, tạp chí Cộng sản điện tử, số đăng ngày 22/1/2007.
Phan Đình Diệu, Tiếp tục đổi mới tư duy về kinh tế xã hội, tạp chí Tia sáng, số
đăng ngày 28/9/2006.
Trần Nhâm, Tư duy đổi mới của đồng chí Trường Chinh, Việt báo, số đăng ngày
8/2/2007.
Trần Văn Phòng, Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong Tư tưởng Hồ Chí
Minh, tạp chí Khoa học xã hội, số đăng ngày 28/4/2007.

Vi Thái Lang, Về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, tạp chí Triết
học, số đăng ngày 11/5/2007.
Vũ Văn Phúc, Vai trị của chính trị đối với sự phát triển kinh tế, Tạp chí cộng sản
điện tử, số đăng ngày 25/10/2008.

17


18



×