Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Chuyên đề công tác kiểm tra, giám sát, khen thưởng, kỷ luật ở chi bộ, đảng bộ cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.62 KB, 10 trang )

CHUYÊN ĐỀ 5:
CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT,
KHEN THƯỞNG, KỶ LUẬT Ở CHI BỘ,
ĐẢNG BỘ CƠ SỞ
PHẦN THỨ NHẤT:
I- MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT
1- Vị trí, tầm quan trọng và mục tiêu, yêu cầu của cơng tác kiểm tra, giám
sát
a.Vị trí, tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát.
- Kiểm tra, giám sát là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng là hoạt động của các cấp ủy đảng, các
ban chức năng của cấp ủy, các tổ chức đảng và đảng viên, hướng vào việc xây dựng,
thực hiện các nghị quyết, quyết định và chỉ thị của Đảng; hồn thiện quy trình lãnh
đạo và giữ gìn kỷ luật đảng; giải quyết những vấn đề trong sinh hoạt nội bộ Đảng,
tăng cường đoàn kết, thống nhất, góp phần tạo nên sức mạnh và bảo đảm vai trò lãnh
đạo của Đảng, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị.
Hoạt động lãnh đạo của Đảng gồm nhiều khâu: xây dựng và đề ra cương lĩnh,
đường lối, nghị quyết và các quyết định của Đảng; tổ chức thực hiện nghị quyết,
quyết định của Đảng; công tác tư tưởng, công tác tổ chức và công tác kiểm tra, giám
sát… Trong các khâu đó cơng tác kiểm tra, giám sát là khâu có vị trí rất quan trọng.
Tiến hành kiểm tra, giám sát sẽ phát hiện ra những ưu điểm, khuyết điểm, thiếu sót
của các quyết định và việc thực hiện quyết định để bổ sung, hoàn thiện các quyết
định và tổ chức thực hiện các quyết định với kết quả cao nhất. Kiểm tra, giám sát
không phải là khâu cuối cùng của quy trình lãnh đạo, mà nó đan xen vào tất cả các
khâu, góp phần hồn thiện quy trình lãnh đạo của Đảng. Lãnh đạo mà khơng kiểm
tra, giám sát thì coi như khơng có sự lãnh đạo.
- Kiểm tra, giám sát là bộ phận quan trọng trong công tác xây dựng Đảng.
Trong công tác xây dựng Đảng, tiến hành tốt công tác kiểm tra, giám sát sẽ
giúp cơ quan lãnh đạo của Đảng đánh giá đúng ưu điểm, khuyết điểm của tổ chức
đảng và đội ngũ cán bộ đảng viên; kịp thời đề ra các chủ trương, biện pháp xây dựng
tổ chức, xây dựng đội ngũ đảng viên phù hợp, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo


và sức chiến đấu của tổ chức đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
Kiểm tra, giám sát sẽ phát hiện ra những tổ chức đảng và đảng viên vi phạm kỷ
luật đảng, kịp thời có biện pháp xử lý với các hình thức thích hợp, đưa ra khỏi Đảng
những phần tử cơ hội, những kẻ tham nhũng, thối hóa, biến chất, những người
khơng đủ tư cách đảng viên, làm cho Đảng thực sự trong sạch vững mạnh.
Kiểm tra, giám sát có tác dụng giáo dục, thúc đẩy cán bộ, đảng viên làm tròn
nhiệm vụ được giao, làm tấm gương tốt cho nhân dân học tập và noi theo, góp phần
tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao uy tín của Đảng trước quần chúng
b. Mục đích, yêu cầu của công tác kiểm tra, giám sát.


Kiểm tra, giám sát đều là hoạt động của nội bộ đảng, do cấp ủy, tổ chức đảng
và ủy ban kiểm tra thực hiện. Mục đích của cơng tác kiểm tra, giám sát là phát hiện
những ưu điểm và những khuyết điểm, nhược điểm của tổ chức đảng và đảng viên
trong quá trình lãnh đạo, thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, thực hiện Điều lệ Đảng, nhiệm vụ của đảng viên; kịp thời biểu
dương, khen thưởng những tổ chức, cá nhân hoàn thành tốt nhiệm vụ; có biện pháp
giáo dục, nhắc nhở, xử lý kỷ luật, thích đáng đối với những trường hợp chấp hành
không nghiêm chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ được
giao; góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, xây dựng tổ chức đảng trong
sạch vững mạnh; nâng cao năng lực sức chiến đấu của Đảng; thực hiện thắng lợi
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Trong công tác kiểm tra, giám sát, phải coi trọng phát hiện nhân tố tích cực,
tổng kết và phổ biến những tấm gương, những bài học kinh nghiệm tốt, góp phần
phát huy ưu điểm, phòng ngừa khuyết điểm sai phạm của tổ chức đảng và đảng viên.
Giám sát là việc làm thường xuyên liên tục, để chủ động phòng ngừa ngăn chặn
xảy ra vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên ngay từ lúc mới manh nha. Giám sát
để phịng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm, vi phạm là chính; giúp cho tổ chức đảng và
đảng thực hiện đúng quy định, quy chế; phát hiện, góp ý, phản ảnh đề xuất biện
pháp lãnh đạo, xây dựng tổ chức, giáo dục quản lý cán bộ, đảng viên phù hợp.

Công tác kiểm tra, giám sát phải tiến hành theo quy trình nhất định; coi trọng
thẩm tra, xác minh, làm rõ đúng, sai, ưu điểm, khuyết điểm, vi phạm; từ đó có kết
luận, xử lý vi phạm.
Trong tình hình hiện nay, cơng tác kiểm tra, giám sát cần được đẩy mạnh, góp
phần đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, khắc phục suy thối về tư tưởng, chính
trị, đạo đức lối sống của cán bộ đảng viên, những vi phạm trong việc tổ chức thực
hiện nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, khắc phục tình trạng
quan liêu, mất dân chủ. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng khẳng định “Tập trung
kiểm tra, giám sát, chấp hành Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, luật
pháp, chính sách của Nhà nước; việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy
chế làm việc, chế độ công tác, thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ gìn đồn kết nội
bộ; việc thực hành tiết kiệm, phịng chống tham nhũng, lãng phí, rèn luyện phẩm
chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện cải
cách hành chính, cải cách tư pháp; việc điều tra, truy tố xét xử, thi hành án, nhất là
những vụ án nghiêm trọng, gây bức xúc trong dư luận xã hội; kiểm tra, giám sát việc
tuyển dụng, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, đề bạt, bố trí, sử dụng cán bộ. Chú
trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu tổ chức đảng, nhà nước, mặt trận và các
đoàn thể nhân dân các cấp trong việc thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao”
2. Công tác kiểm tra, giám sát của chi bộ, đảng bộ cơ sở.
Kiểm tra, giám sát là cơng việc của tồn Đảng, nhưng do vị trí, nhiệm vụ,
quyền hạn của các tổ chức đảng có khác nhau nên việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát cũng khác nhau. Vì vậy, các tổ chức Đảng cần căn cứ vào các quy
định chung và tình hình đặc điểm cụ thể để xây dựng phương hướng, nhiệm vụ và
nội dung, kế hoạch, kiểm tra, giám sát trong từng thời gian cho sát hợp với điều
kiện, nhiệm vụ và phạm vi quyền hạn của mình
2


a. Nội dung cơ bản công tác kiểm tra, giám sát của chi bộ. đảng bộ cơ sở.
Điểm 2 Điều 30 Điều lệ Đảng quy định “Các cấp uỷ đảng lãnh đạo công tác

kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, các tổ chức
đảng và đảng viên chấp hành cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị
của Đảng”.
Trong tình hình hiện nay, công tác kiểm tra giám sát ở chi bộ, đảng bộ cơ sở
cần tập trung kiểm tra, giám sát những tổ chức đảng và đảng viên được giao nhiệm
vụ quan trọng liên quan trực tiếp đến phát huy dân chủ ở cơ sở, phát triển kinh tế,
thực hiện chính sách xã hội, chăm lo đời sống, giải quyết việc làm cho nhân dân,
thực hành tiết kiệm, chống lãnh phí, phịng, chống tham nhũng, quan liêu và các tiêu
cực khác. Coi trọng kiểm tra, giám sát việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ,
quy chế làm việc, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, tự phê bình và phê
bình, giữ gìn đồn kết, thống nhất nội bộ, giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất
đạo đức cách mạng của đảng viên.
Trong công tác giám sát, cần thực hiện đúng quy định “Tổ chức đảng và đảng
viên phải thường xuyên tự kiểm tra. Tổ chức đảng cấp trên kiểm tra tổ chức đảng
cấp dưới và đảng viên…Tổ chức đảng cấp trên giám sát tổ chức đảng cấp dưới và
đảng viên. Tổ chức đảng và đảng viên thực hiện nhiệm vụ giám sát theo sự phân
công. Giám sát của Đảng có giám sát thường xuyên và giám sát theo chuyên đề, hay
theo sự phân công của tổ chức đảng có thẩm quyền. Chi bộ giám sát mọi đảng viên
sinh hoạt trong chi bộ, tập trung giám sát việc thực hiện nghị quyết của chi bộ, thực
hiện nhiệm vụ do chi bộ phân công và theo nhiệm vụ, tiêu chuẩn đảng viên; việc giữ
gìn phẩm chất đạo đức, lối sống và giữ mối liên hệ với tổ chức đảng nơi cư trú.
b. Công tác kiểm tra, giám sát của đảng ủy cơ sở.
Đảng uỷ, ban thường vụ đảng uỷ cơ sở căn cứ vào nghị quyết, chỉ thị của cấp
trên và nghị quyết của cấp mình, đề ra chương trình, kế hoạch cơng tác kiểm tra,
giám sát trong từng thời gian, định kỳ nghe báo cáo về tình hình và kết quả thực hiện
cơng tác kiểm tra, giám sát trong đảng bộ, xem xét và giải quyết những yêu cầu,
kiến nghị, đề nghị của các chi bộ, của uỷ ban kiểm tra đảng uỷ.
Chỉ đạo chặc chẽ về tổ chức và hoạt động của của uỷ ban kiểm tra đảng uỷ, xây
dựng, bồi dưỡng cán bộ làm công tác kiểm tra, theo dõi tiến độ và kết quả hoạt động
của ủy ban kiểm tra

Tổ chức thực hiện đầy đủ nội dung, nhiệm vụ kiểm tra, giám sát thuộc phạm vi,
thẩm quyền, trách nhiệm của mình.
Kết luận các vấn đề sau khi kiểm tra, rút ra bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo,
chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị và cơng tác xây dựng đảng bộ.
c. Cách tiến hành tổ chức kiểm tra, giám sát ở chi bộ, đảng bộ cơ sở.
Cấp uỷ chủ trì, chủ động thực hiện kiểm tra, giám sát theo chuơng trình kế
hoạch (hành tháng, quý, năm) đã được xây dựng, kiểm tra, giám sát việc thực hiện
Cương lĩnh, đường lối, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, thực hiện Điều lệ Đảng và
nhiệm vụ cơ sở.
- Cấp uỷ có thể trực tiếp kiểm tra, hoặc thông qua các thành viên của cấp uỷ và
các ban của đảng ủy (ủy ban kiểm tra, ban tổ chức,...) để tiến hành kiểm tra theo kế
hoạch. Khi cần có thể kiểm tra bất thường.
3


Để tổ chức tốt một cuộc kiểm tra cần làm tốt các bước công việc sau:
+ Căn cứ vào mục đích, u cầu và tình hình cụ thể mà lựa chọn nội dung, đối
tượng cần kiểm tra. Lập kế hoạch kiểm tra chi tiết, chu đáo và thông báo tổ chức
đảng và đảng viên biết.
+ Yêu cầu đảng viên, tổ chức đảng thuộc quyền báo cáo, giải trình về những
nội dung cần kiểm tra. Cá nhân, tổ chức chịu sự kiểm tra phải làm rõ những ưu
điểm, khuyết điểm, sai phạm; tự đánh giá mức độ và nguyên nhân, đề ra phương
hướng, biện pháp phát huy ưu điểm, khắc phục, sửa chữa khuyết điểm.
+ Cấp ủy, tổ chức đảng và cơ quan có thẩm quyền kiểm tra nhận xét, đánh giá,
đúng ưu điểm, khuyết điểm, nêu những biện pháp để tổ chức đảng và đảng viên phát
huy ưu điểm, khắc phục sữa chữa khuyết điểm. Đồng thời, đảng uỷ, chi uỷ, chi bộ
củng phải tự đánh giá ưu, khuyết điểm, và trách nhiệm của mình trong cơng tác lãnh
đạo, chỉ đạo, tổ chức thựuc hiện nhiệm vụ chính trị, quản lý, giáo dục, rèn luyện đội
ngũ cán bộ cán bộ, đảng viên, tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, rút ra
những kinh nghiệm để nâng cao năng lực lãnh đạo, chất lượng và hiệu quả công tác

kiểm tra, giám sát, xây dựng tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên trong sạch, vững
mạnh.
- Chi bộ kiểm tra, giám sát đảng viên thông qua sinh hoạt thường kỳ (kiểm
điểm cơng tác lãnh đạo, tự phê và phê bình); phân tích chất lượng đảng viên; qua
theo dõi, đơn đốc đảng viên thực hiện nhiệm vụ được giao; qua yêu cầu đảng viên
báo cáo khi cần thiết; nhận xét, đánh giá, phản ánh của các đoàn thể và nhân dân đối
với tổ chức đảng và đảng viên; nghiên cứu, khảo sát nắm tình hình theo yêu cầu của
cấp uỷ; sơ kết, tổng kết công tác chuyên môn của đơn vị để đánh giá đúng mặt
mạnh, mặt yếu của đảng viên, kịp thời phời phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết
điểm, chủ động phòng ngừa vi phạm của đảng viên. Qua giám sát nếu phát hiện
đảng viên có dấu hiệu vi phạm hoặc bị tố cáo, chi bộ kịp thời xem xét, hoặc báo cáo
tổ chức đảng cấp trên có thẩm quyền xem xét, giải quyết.
3. Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của uỷ ban kiểm tra đảng uỷ cơ sở.
a. Tổ chức.
Điều 31 Điều lệ Đảng quy định việc lập uỷ ban kiểm tra các cấp từ đảng uỷ cơ
sở trở lên như sau:
“1. Uỷ ban kiểm tra các cấp do cấp uỷ cùng cấp bầu, gồm một số đồng chí
trong cấp uỷ và một số đồng chí ngồi cấp uỷ.
2. Các thành viên của uỷ ban kiểm tra, chủ nhiệm, phó chủ nhiệm uỷ ban kiểm
tra cấp dưới phải được cấp uỷ cấp trên trực tiếp chuẩn y, nếu điều động chủ nhiệm
uỷ ban kiểm tra sang công tác khác phải được cấp uỷ cấp trên trực tiếp đồng ý.
3. Uỷ ban kiểm tra làm việc theo chế độ tập thể, dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ
cùng cấp và sự chỉ đạo của uỷ ban kiểm tra cấp trên”.
Thực hiện quy định này, cần nắm vững và thực hiện tốt một số nội dung sau:
- Uỷ ban kiẻm tra của đảng uỷ cơ sở do hội nghị BCH đảng uỷ bầu, gồm một số
đồng chí trong cấp uỷ và một số đồng chí ngồi cấp uỷ. Bầu uỷ viên uỷ ban kiểm tra
4


trước, sau đó bầu chủ nhiệm, phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra trong số uỷ viên uỷ ban

kiểm tra. Việc bầu cử tiến hành bằng phiếu kín.
- Nhiệm kỳ của uỷ ban kiểm tra theo nhiệm kỳ của đảng uỷ. Uỷ ban kiểm tra
khố mới điều hành cơng việc ngay sau khi được bầu và nhận bàn giao từ uỷ ban
kiểm tra khoá trước.
- Số lượng uỷ ban kiểm tra đảng uỷ có từ 3 đến 5 đồng chí (do đảng ủy cơ sở
quyết định) trong đó đồng chí Phó Bí thư hoặc uỷ viên ban thường vụ làm chủ
nhiệm. Trường hợp khơng có ban ttrường vụ cấp uỷ thì đồng chí phó bí thư làm chủ
nhiệm, phó chủ nhiệm là cấp uỷ viên hoặc đảng viên. Các uỷ viên khác có thể là cấp
uỷ viên, hoặc đảng viên phụ trách cơng tác đồn thể, bí thư chi bộ, thanh tra nhân
dân.
Các thành viên uỷ ban kiểm tra, chủ nhiệm, phó chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra cấp
dưới phải được cấp uỷ cấp trên trực tiếp chuẩn y, nếu điều động chủ nhiệm uỷ ban
kiểm tra sang công tác khác phải được cấp uỷ cấp trên trực tiếp đồng ý. Khi thay đổi
Phó chủ nhiệm hoặc uỷ viên uỷ ban kiểm tra (kể cả việc chuẩn bị người thay thế)
cấp uỷ hoặc ban thưuờng vụ cấp uỷ phải trao đổi với uỷ ban kiểm tra cấp trên trực
tiếp trước khi thực hiện.
- Đảng uỷ bộ phận và chi uỷ khơng lập uỷ ban kiểm tra thì tập thể cấp uỷ thực
hiện công tác kiểm tra và phân công một đồng chí cấp uỷ viên phụ trách làm cơng
tác kiểm tra.
- Chế độ làm việc của uỷ ban kiểm tra:
Uỷ ban kiểm tra làm việc dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ cùng cấp và dưới sự chỉ
đạo, hướng dẫn kiểm tra, giám sát của uỷ ban kiểm tra cấp trên. Uỷ ban kiểm tra
phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của Điều lệ Đảng về chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của uỷ ban kiểm tra; định kỳ báo cáo với cấp uỷ chương trình, kế
hoạch, kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát của mình và thực hiện
các nghị quyết, chỉ thị, quyết định của cấp uỷ về công tác kiểm tra, giám sát, về quy
chế làm việc của uỷ ban kiểm tra và các nhiệm vụ do cấp uỷ giao; chịu sự kiểm tra,
giám sát của cấp uỷ về tất cả các hoạt động của mình.
Uỷ ban kiểm tra thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, làm việc theo chế độ
tập thể, quyết định theo đa số. Uỷ ban kiểm tra có thể uỷ quyền cho tập thể thường

trực uỷ ban (nơi có 02 phó chủ nhiệm trở lên) quyết định một số vấn đề cụ thể hoặc
giao cho từng thành viên của uỷ ban kiểm tra giải quyết, quyết định một số việc cụ
thể. Thường trực uỷ ban kiểm tra gồm chủ nhiệm và các phó chủ nhiệm.
b. Nhiệm vụ, quyền hạn của uỷ ban kiểm tra
Điều 32 Điều lệ Đảng UBKT các cấp có nhiệm vụ:
1. Kiểm tra đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm tiêu
chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên.
2. Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm trong việc chấp
hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên
tắc của Đảng; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật trong
đảng.
5


3. Giám sát cấp ủy viên cùng cấp, cán bộ diện cấp ủy cùng cấp quản lý và tổ
chức đảng cấp dưới về việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
nghị quyết của cấp ủy và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban Chấp hành Trung
ương.
4. Xem xét, kết luận những trường hợp vi phạm kỷ luật, quyết định hoặc đề
nghị cấp ủy quyết định thi hành kỷ luật.
5. Giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên; giải quyết khiếu nại về
kỷ luật Đảng.
6. Kiểm tra tài chính của cấp ủy cấp dưới và của cơ quan tài chính cấp ủy cùng
cấp.
Thực hiện quy định này cần nắm vững những nội dung sau:
- Về kiểm tra, giám sát.
Uỷ ban kiểm tra cơ sở có trách nhiệm kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên
thuộc quyền khi có dấu hiệu vi phạm cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên tắc tổ chức của Đảng, vi phạm về tiêu chuẩn,
thực hiện nhiệm vụ của đảng viên, cấp uỷ viên. Trường hợp đảng viên có dấu hiệu vi

phạm là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý thì uỷ ban kiểm tra cấp cơ sở báo
cáo lên uỷ ban kiểm tra cấp quản lý để chỉ đạo, tiến hành (hoặc do uỷ ban kiểm tra
cấp trên chủ trì có sự phối hợp với đảng uỷ, chi uỷ và UBKT đảng uỷ cơ sở). Khi
phát hiện dấu hiệu vi phạm ở nội dung nào thì kiểm tra và kết luận ở nội dung đó.
Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật
trong đảng. Đánh giá ưu, khuyết điểm về công tác kiểm tra, giúp cho tổ chức đảng
cấp dưới thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn kiểm tra và thi hành kỷ luật của Đảng.
Nội dung kiểm tra gồm: Kiểm tra việc thực hiện phương hướng, phương châm,
nguyên tắc, thủ tục kiểm tra và thi hành kỷ luật trong phạm vi, quyền hạn quy định;
kiểm tra việc khiếu nại kỷ luật đảng; kiểm tra việc chấp hành các quyết định, thông
báo, chỉ thị của tổ chức đảng cấp trên về việc kiểm tra và thi hành kỷ luật; xem xét
mức độ thi hành kỷ luật của tổ chức đảng đúng hay chưa đúng.
- Về giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên.
Tố cáo trong Đảng là việc làm của công dân, đảng viên báo cáo cho tổ chức
đảng hoặc cán bộ, đảng viên có trách nhiệm biết về hành của tổ chức đảng hoặc
đảng viên mà người tố cáo cho lá sai trái, vi phạm Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị,
quy định, quy chế của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước, xâm phạm
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Tổ chức Đảng có thẩm quyền giải quyết tố
cáo bao gồm cấp uỷ hoặc ban thường vụ cấp uỷ và uỷ ban kỉêm tra các cấp, có
nhiệm vụ giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên thuộc phạm vi quản lý
của cấp uỷ cấp mình.
Uỷ ban kiểm tra đảng uỷ cơ sở có nhiệm vụ giải quyết những tố cáo đối với tổ
chức đảng và đảng viên thuộc phạm vi quản lý của đảng uỷ cơ sở, có nội dung liên
quan đến chấp hành Điều lệ Đảng, đường lối, nghị quyết, nguyên tắc tổ chức và sinh
hoạt đảng; liên quan đến tiêu chuẩn đảng viên, cấp uỷ viên và việc thực hiện nhiệm
vụ đảng viên. Những tố cáo có nội dung liên quan đến pháp luật, kinh tế…vẫn xem
6

4845430



xét giải quyết. Những trường hợp tố cáo mà uỷ ban kiểm tra không đủ khả năng,
điều kiện xem xét, kết luận thì báo cáo với cấp uỷ, để cấp uỷ chỉ đạo, phối hợp với
các tổ chức, cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan bảo vệ pháp luật xem xét kết luận và
giải quyết.
Những tố cáo về nghi vấn hoạt động chính trị phản động, về lịch sử chính trị thì
chuyển cho các cơ quan chức năng có thẩm quyền giải quyết.
Không xem xét, giải quyết những tố cáo giấu tên, mạo tên, không rõ địa chỉ và
những tố cáo có tên đã được cấp có thẩm quyền do Điều lệ Đảng quy định xem xét,
kết luận, nay tố cáo lại nhưng khơng có thêm tài liệu, chứng cứ mới; những tố cáo có
tên nhưng nội dung khơng cụ thể, khơng có căn cứ để thẩm tra xác minh; những thư
tố cáo sao chụp chữ ký mà không ký trực tiếp cũng không xem xét, giải quyết.
Tổ chức đảng và đảng viên bị tố cáo, khi được kiểm tra phải báo cáo trung
thực, rõ ràng, đầy đủ, kịp thời với tổ chức đảng có thẩm quyền; được đưa ra những
bằng chứng xác thực để chứng minh nội dung tố cáo khơng đúng.
Cần đảm bảo bí mật cho người tố cáo, không để cho tổ chức đảng và đảng viên
bị tố cáo chủ trì, giải quyết việc tố cáo đối với mình. Uỷ ban kiểm tra (cấp giải quyết
tố cáo) phải kiên quyết xử lý hoặc đề nghị với cấp có thẩm quyền của Đảng và Nhà
nước cũng như các cơ quan chức năng bảo vệ pháp luật nghiêm trị mọi hành động
trù dập, trả thù người tố cáo, gây cản trở, không giải quyết tố cáo, bao che cho người
bị tố cáo, hoặc lợi dụng tố cáo để xuyên tạc sự thật, vu cáo, đả kích, gây dư luận xấu
đối với người khác.
Giải quyết tố cáo là nhiệm vụ thường xuyên và trực tiếp của uỷ ban kiểm tra.
Tiến hành tốt công tác này, vừa giúp cho tổ chức đảng và đảng viên bị tố cáo nhận
thức rõ sai lầm, khuyết điểm để ngăn ngừa, sửa chữa hoặc thanh minh, bảo vệ cho tổ
chức đảng và đảng viên bị tố cáo sai, bị vu cáo…, vừa bảo đảm quyền dân chủ của
đảng viên và quần chúng trong công tác xây dựng đảng, vừa tăng cường sự đoàn kết
nhất trí về chính trị và tư tưởng trong nhân dân. Tải bản FULL (FILE WORD 14 trang):
- Giải quyết khiếu nại kỷ luật trong Đảng bit.ly/2TcOBPi
Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net

Khiếu nại kỷ luật trong Đảng là quyền của tổ chức đảng và đảng viên bị thi
hành kỷ luật. Cấp ủy hoặc ban thường vụ cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp có
nhiệm vụ giải quyết khiếu nại kỷ luật trong Đảng. Ban thường vụ, ủy ban kiểm tra
của đảng ủy cơ sở và đảng ủy bộ phận có trách nhiệm xem xét khiếu nại về kỷ luật
của đảng viên do chi bộ quyết định, nhưng khơng có quyền chuẩn y, thay đổi hoặc
xóa bỏ hình thức kỷ luật mà phải đề nghị đảng ủy cơ sở xem xét, quyết định. Việc
giải quyết khiếu nại của tổ chức đảng và đảng viên phải tiến hành tuần tự từ ủy ban
kiểm tra hoặc cấp ủy cấp trên trực tiếp của tổ chức đảng đã quyết định thi hành kỷ
luật. Sau khi được giải quyết, nếu đảng viên hoặc tổ chức đảng bị thi hành kỷ luật
khơng đồng ý, có khiếu nại tiếp thì cấp trên nữa mới giải quyết, lần lượt cho đến Ban
Chấp hành Trung ương.
Khi nhận được khiếu nại kỷ luật, cấp ủy hoặc ủy ban kiểm tra phải thông báo
cho tổ chức đảng hoặc người khiếu nại biết. Phải lắng nghe ý kiến trình bày của
người khiếu nại, nghiên cứu nghiêm túc hồ sơ và các tài liệu có liên quan, xác định
vấn đề thẩm tra, xem xét, giải quyết. Kể từ ngày nhận được khiếu nại trong thời hạn
7


90 ngày đối với cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và tương đương trở
xuống, 180 ngày đối với cấp Trung ương, cấp ủy hoặc ủy ban kiểm tra phải xem xét
giải quyết, trả lời cho tổ chức đảng hoặc người khiếu nại biết.
Không giải quyết những trường hợp khiếu nại sau đây: quá thời hạn 30 ngày kể
từ ngày tổ chức đảng, đảng viên nhận được quyết định kỷ luật; đã được cấp có thẩm
quyền cao nhất xem xét, kết luận mà khơng có chứng cứ mới; bị tịa án quyết định
hình phạt từ cảnh cáo trở lên chưa được cơ quan pháp luật có thẩm quyền hủy bỏ
bản án; cá nhân, tập thể và tổ chức đảng khiếu nại hộ cho tổ chức và người bị thi
hành kỷ luật; khiếu nại khi chưa có quyết định kỷ luật của tổ chức đảng có thẩm
quyền.
Trường hợp người bị thi hành kỷ luật có khiếu nại chưa được giải quyết mà đã
qua đời thì tổ chức đảng vẫn xem xét, giải quyết.

c. Một số vấn đề cần nắm vững trong công tác kiểm tra
Một là, nắm vững tư tưởng chỉ đạo: chủ động, chiến đấu, giáo dục, hiệu quả.
Phải thường xuyên chủ động nắm vững tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị
và cơng tác xây dựng Đảng cơ sở. Từ đó, có chương trình, kế hoạch kiểm tra và tiến
hành thực hiện theo chương trình, kế hoạch đã đề ra.
Khi tổ chức đảng và đảng viên có dấu hiệu vi phạm hoặc đã vi phạm, đã mắc
sai lầm, khuyết điểm, tổ chức đảng, các cơ quan có trách nhiệm trong công tác kiểm
tra và mọi đảng viên phải nêu cao tính chiến đấu, đấu tranh tìm ra sự thật, làm rõ
đúng sai, làm rõ tính chất, mức độ tác hại, nguyên nhân vi phạm…, để đi đến kết
luận đúng đắn. Qua mỗi vụ việc kiểm tra, kỷ luật cần rút ra những bài học về giáo
dục, quản lý và rèn luyện cán bộ, đảng viên, nâng cao chất lượng cơng tác kiểm tra,
góp phần thực hiện tốt cơng tác xây dựng Đảng.
Hai là, nắm vững phương pháp cơ bản của công tác kiểm tra.
Kiểm tra là một nội dung của công tác đảng, là sinh hoạt nội bộ Đảng. Do đó,
tiến hành cơng tác kiểm tra phải giữ vững nguyên tắc lãnh đạo và sinh hoạt đảng
đúng tính chất cơng tác đảng. Vì vậy, phương pháp tiến hành công tác kiểm tra là:
- Phải dựa vào tổ chức và chính tổ chức đảng phải có trách nhiệm tiến hành
công tác kiểm tra. Phát huy tinh thần tự giác của đảng viên và tổ chức đảng; động
viên, giúp đỡ người vi phạm thành khẩn nhận thức đúng sai lầm, khuyết điểm, thiếu
sót để khắc phục, sửa chữa.
- Phát huy tinh thần xây dựng Đảng của nhân dân, để nhân dân chủ động và
tích cực đóng gáp ý kiến cho tổ chức đảng và đảng viên. Việc lấy ý kiến của nhân
dân góp ý cần được lãnh đạo, tổ chức chặt chẽ, chu đáo bằng nhiều hình thức,
phương pháp phù hợp để đem lại kết quả.
- Phải thận trọng, chu đáo trong việc xác minh, thẩm tra. Chưa thẩm tra, xác
minh thì chưa kết luận.
Ba là, nắm vững và thực hiện tốt các hình thức kiểm tra.
- Kiểm tra thường xuyên.
8



Hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên trên các lĩnh vực diễn ra thường
xun, do đó cơng tác kiểm tra cũng phải được tiến hành thường xuyên, gắn chặt với
các hoạt động ấy. Kiểm tra thường xuyên được thực hiện thông qua các hoạt động:
thực hiện nhiệm vụ chính trị và cơng tác xây dựng đảng ở cơ sở; thực hiện nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; sinh hoạt thường kỳ ở
chi bộ mà kiểm điểm công tác lãnh đạo, tự phê bình và phê bình; phân tích chất
lượng đảng viên; sơ kết, tổng kết; thông báo của tổ chức đảng cấp trên để đánh giá
đúng ưu điểm, khuyết điểm, mặt mạnh, mặt yếu của tổ chức đảng và đảng viên.
Muốn vậy, cấp ủy, ủy ban kiểm tra phải thường xuyên sinh hoạt, tham dự sinh hoạt
đảng, tham dự các buổi sinh hoạt của đồn thể nhân dân để nắm tình hình hoạt động
của các đồn thể và tình hình hoạt động của tổ chức đảng, đảng viên, qua đó mà phát
hiện vấn đề cần xem xét, giải quyết.
- Kiểm tra định kỳ.
Kiểm tra định kỳ là hình thức kiểm tra mà các tổ chức đảng xác định rõ kế
hoạch, thời gian, nội dung cụ thể và tạo điều kiện để tiến hành. Tùy theo đặc điểm,
yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị và cơng tác xây dựng Đảng mà xác định nội
dung, thời gian định kỳ kiểm tra cho phù hợp. Nội dung kiểm tra định kỳ có thể là
kiểm tra tồn diện, nhưng cũng có thể chỉ đi sâu một số nội dung cần thiết, có tính
chất chun đề như: kiểm tra việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc
ra nghị quyết và thực hiện nghị quyết; kiểm tra việc tự phê bình, phê bình …
- Kiểm tra đột xuất, bất thường.
Hình thức này được áp dụng khi có sự việc đột xuất xảy ra; khi có đơn thư tố
cáo, khiếu nại của đảng viên và quần chúng. Đối tượng kiểm tra thường ít, nội dung
tập trung vào một số vấn đề nhất định, yêu cầu cần được xem xét và kết luận nhanh
chóng. Vì vậy, khi tiến hành kiểm tra bất thường phải lên kế hoạch chu đáo, tỉ mỉ,
xác định rõ mục đích, yêu cầu, đối tượng, nội dung và hình thức kiểm ta; bố trí lực
lượng tham gia, định thời gian kiểm tra, kết luận cụ thể,chính xác.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ KHEN THƯỞNG VÀ KỶ LUẬT CỦA ĐẢNG
1. Về khen thưởng

Điều 34 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định: “Tổ chức đảng và đảng
viên có thành tích được khen thưởng theo quy định của Ban Chấp hành Trung
ương”. Việc khen thưởng đối với tổ chức đảng và đảng viên được quy định như sau:
a. Hình thức khen thưởng trong Đảng
- Đối với tổ chức đảng: biểu dương, tặng giấy khen, bằng khen, tặng cờ, tặng
thưởng huân chương, huy chương và các danh hiệu vinh dự khác của Đảng và Nhà
nước.
- Đối với đảng viên: biểu dương, tặng giấy khen, bằng khen, Huy hiệu Đảng 30
năm, 40 năm, 50 năm, 60 năm, 70 năm, 80 năm tuổi đảng, tặng thưởng huân
chương, huy chương và các danh hiệu vinh dự khác của Đảng và Nhà nước.
Tải bản FULL (FILE WORD 14
b. Thẩm quyền khen thưởng
trang): bit.ly/2TcOBPi
- Chi bộ: biểu dương tổ đảng và đảng viên trong Dự
chi phòng:
bộ.
fb.com/TaiHo123doc.net
9


- Đảng ủy bộ phận: biểu dương tổ chức đảng và đảng viên trong đảng bộ.
- Đảng ủy cơ sở: quyết định công nhận chi bộ trong sạch, vững mạnh, biểu
dương, khen thưởng, tặng giấy khen cho tổ chức đảng và đảng viên trong đảng bộ.
- Huyện ủy (và tương đương): quyết định công nhận tổ chức cơ sở đảng trong
sạch, vững mạnh, tặng giấy khen cho tổ chức đảng và đảng viên trong đảng bộ.
- Tỉnh ủy (và tương đương): quyết định tặng bằng khen, tặng cờ cho tổ chức
đảng, tặng Huy hiệu Đảng 30 năm, 40 năm, 50 năm, 60 năm, 70 năm, 80 năm tuổi
đảng, bằng khen cho đảng viên trong đảng bộ.
- Việc tặng thưởng huân chương, huy chương và các danh hiệu cao quý khác
cho tổ chức đảng và đảng viên thực hiện theo quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư

và pháp luật về khen thưởng.
c. Tiêu chuẩn, đối tượng tặng Huy hiệu Đảng.
Những đảng viên hoạt động cách mạng lâu năm, giữ gìn được tư cách đảng
viên, có đủ 30 năm, 40 năm, 50 năm, 60 năm, 70 năm, 80 năm tuổi đảng trở lên thì
được tặng Huy hiệu Đảng. Đảng viên đã từ trần, nếu thời gian tham gia sinh hoạt
đảng có đủ tuổi đảng như nêu trên thì được tuy tặng Huy hiệu Đảng. Tại thời điểm
xét tặng Huy hiệu Đảng, đảng viên bị kỷ luật về Đảng từ hình thức cảnh cáo trở lên
thì chưa được xét tặng; sau sáu tháng (đối với kỷ luật cảnh cáo), một năm (đối với
kỷ luật cách chức), nếu sửa chữa tốt khuyết điểm sẽ được xét tặng Huy hiệu Đảng.
Đảng viên bị bệnh nặng có thể được xét tặng Huy hiệu Đảng sớm, nhưng thời gian
xét tặng không được quá một năm so với thời gian quy định.
- Việc tặng giấy khen, bằng khen, tặng cờ đối với tổ chức đảng, tặng giấy khen,
bằng khen đối với đảng viên và thủ tục xét tặng Huy hiệu Đảng, các hình thức khen
thưởng khác ở trong Đảng thực hiện theo hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương.
- Chi bộ bình chọn và đề nghị đảng ủy cơ sở khen thưởng đối với đảng viên có
thành tích hằng năm. Cấp ủy cấp trên cơ sở (huyện ủy, quận ủy, tỉnh ủy, thành ủy…)
xem xét, quyết định khen thưởng những đảng viên có thành tích đặc biệt xuất sắc
theo định kỳ hoặc bất thường theo đề nghị của cấp ủy cơ sở.
d. Giá trị tặng phẩm kèm theo các hình thức khen thưởng của Đảng.
- Tặng phẩm kèm theo các hình thức khen thưởng huân, huy chương và các
danh hiệu cao quý khác, thực hiện theo quy định chung của Nhà nước.
- Tặng phẩm kèm theo đối với các đảng viên được tặng Huy hiệu Đảng và các
hình thức khen thưởng khác trong Đảng được quy định thống nhất và nguồn kinh
phí được trích từ quỹ khen thưởng chung của các địa phương và ngành hoặc một
phần từ tài chính Đảng.
2. Về kỷ luật
a. Mục đích kỷ luật của Đảng
Thi hành kỷ luật đối với tổ chức đảng và đảng viên nhằm giữ vững sự đồn kết
trong Đảng, tăng cường sự thống nhất ý chí và hành động, tăng cường sức chiến đấu
của Đảng, làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh. Nếu kỷ luật của Đảng khơng

nghiêm thì chủ trương, đường lối của Đảng bị chấp hành sai lệch, tổ chức đảng lỏng
10
4845430



×