ĐẢNG BỘ TỈNH NAM ĐỊNH
LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT
TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2015
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60220315
HÀ NỘI - 2015
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Chữ viết tắt
Ban Chấp hanh
BCH
Ban Chấp hành Trung ương
BCHTW
Kiểm tra, giám sát
KT, GS
Ủy ban kiểm tra
UBKT
Ủy ban Kiểm tra Trung ương
UBKTTW
Chính trị quốc gia
CTQG
Nhà xuất bản
Nxb
2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1
3
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH NAM ĐỊNH VỀ CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM
SÁT TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2015
1.1.
Yêu cầu khách quan và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Nam
Định về công tác Kiểm tra, giám sát (2007 - 2015)
1.2.
2.1.
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
Kinh nghiệm
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
36
51
Nhận xét quá trình Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo công
tác Kiểm tra, giám sát (2007 - 2015)
2.2.
10
Đảng bộ tỉnh Nam Định chỉ đạo công tác Kiểm tra, giám
sát (2007 - 2015)
Chương 2
10
51
66
79
81
90
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, giáo
dục và rèn luyện - nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Quán triệt các nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, quá trình xây
dựng và hoạt động, Đảng ta luôn coi trọng công tác KT, GS và coi đó là
những chức năng lãnh đạo của Đảng, khâu quan trọng trong tổ chức thực
hiện, một biện pháp cơ bản phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm; nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp;
giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh,
kiến thức, năng lực toàn diện, trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên;
xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; lãnh đạo
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Công tác KT, GS của cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT các cấp trong Đảng bộ
cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là một bộ phận trong toàn bộ công tác
xây dựng đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam, có vai trò rất quan trọng trong xây
dựng Đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong sạch vững mạnh, xây
dựng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương vững mạnh toàn diện.
Là một tổ chức đảng trực thuộc, nắm vững vị trí, vai trò, chức năng,
nhiệm vụ công tác KT, GS, Đảng bộ tỉnh Nam Định luôn quán triệt, vận dụng
sáng tạo các chủ trương, đường lối của Đảng nói chung, các nghị quyết, chỉ
thị, quy định của Đảng về công tác KT, GS và hướng dẫn của UBKTTW vào
công tác KT, GS của tỉnh Nam Định, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của các tổ chức đảng và đảng viên, xây dựng Đảng bộ trong
sạch vững mạnh, Tỉnh vững mạnh toàn diện.
Thực tiễn đã chứng minh, trong những năm đổi mới, nhất là từ năm
2007 đến năm 2015, công tác KT, GS của Đảng bộ tỉnh Nam Định không
ngừng được tăng cường, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ chính trị, góp
3
phần giữ vững kỷ cương, kỷ luật, nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng và
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng và
đảng viên. Cơ bản xử lý kịp thời, nghiêm minh các vi phạm, nâng cao tính
phòng ngừa, xây dựng của công tác KT, GS, nhanh chóng đưa Tỉnh bắt
nhịp với xu thế đổi mới của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công
tác KT, GS ở tỉnh Nam Định vẫn còn bộ lộ một số mặt hạn chế nhất định,
những hạn chế đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả lãnh đạo thực hiện
nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng ở tỉnh Nam Định.
Thực tiễn nêu trên đặt ra yêu cầu cần phải nghiên cứu có tính chất hệ
thống, toàn diện nhằm đánh giá đúng những ưu điểm, hạn chế, làm rõ nguyên
nhân và rút ra những kinh nghiệm để tiếp tục xây dựng tỉnh Nam Định vững
mạnh toàn diện đủ sức lãnh đạo xây dựng quê hương giàu mạnh.
Vì lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh
đạo công tác Kiểm tra, giám sát từ năm 2007 đến năm 2015” làm luận văn
thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Công tác KT, GS có vai trò rất quan trọng trong công tác xây dựng
Đảng nên được rất nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu với những góc độ khác nhau, có thể khái quát thành
các nhóm như sau:
Nhóm các công trình nghiên cứu chung về công tác Kiểm tra, giám
sát và thi hành kỷ luật của Đảng
Cao Văn Thống, “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra trong
điều kiện mới”, Tạp chí Kiểm tra, 2009; Phạm Thị Ngạn “Một số giải pháp
xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra vững mạnh”, Tạp chí Kiểm tra, 2011;
Hoàng Trà “Nâng cao chất lượng hiệu quả kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và
đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm”, Tạp chí Kiểm tra, 2012; Lê Hồng Anh
“Công tác KT, GS từng bước có chiều sâu, bảo đảm chất lượng và hiệu quả,
góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng”, Tạp chí Kiểm
4
tra, 2013; Cao Hữu Thắng “Nâng cao chất lượng phát hiện, xác định tổ chức
đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm”, Tạp chí Kiểm tra, 2013; Lê Vĩnh
Tân, “Kiểm tra, giám sát là nhiệm vụ then chốt nhằm giữ gìn kỷ cương, kỷ
luật trong Đảng”, Tạp chí Kiểm tra, 2013; Nguyễn Thị Doan, “Tạo dựng
người cán bộ kiểm tra thân thiện, gần gũi”, Tạp chí Kiểm tra, 2013; Nguyễn
Phú Trọng, “Cán bộ kiểm tra là cán bộ làm công tác xây dựng Đảng, xây
dựng tổ chức và con người”, Tạp chí Kiểm tra, 2013; Lê Hồng Anh, “Tiếp tục
đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác Kiểm tra, giám sát”, Tạp chí
Kiểm tra, 2014; Trần Tiến Hưng, “Kinh nghiệm nâng cao chất lượng các cuộc
Kiểm tra, giám sát”, Tạp chí Kiểm tra, 2014.
Nhóm các công trình nêu trên khẳng định vị trí, vai trò, tầm quan trọng
của công tác KT, GS và đội ngũ cán bộ làm công tác KT, GS trong công tác
xây dựng Đảng hiện nay. Khẳng định công tác KT, GS là nhiệm vụ then chốt
nhằm giữ gìn kỷ cương, kỷ luật của Đảng, giữ gìn phẩm chất, đạo đức lối
sống và bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong các cơ quan
Đảng, Nhà nước, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên trực tiếp làm công tác KT,
GS của Đảng. Nhóm các công trình này, một mặt đánh giá khái quát thực
trạng công tác KT, GS của Đảng trong những năm gần đây, đặc biệt là việc
xem xét, phát hiện tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, việc
chấp hành kỷ luật Đảng và vấn đề giải quyết khiếu nại, tố cáo trong Đảng, chỉ
ra những hạn chế yếu kém về năng lực cũng như phương pháp, kinh nghiệm
của đội ngũ cán bộ làm công tác KT, GS; chỉ ra những ưu điểm, hạn chế,
nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công tác KT, GS của Đảng trong
thời gian tới, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác KT, GS có đủ phẩm chất
và năng lực đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi thực tiễn công tác KT, GS của Đảng
trong điều kiện đất nước đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, mở cửa và hội nhập quốc tế sâu rộng.
5
Nhóm các công trình nghiên cứu về công tác Kiểm tra, giám sát và
thi hành kỷ luật trong Đảng của các đảng bộ cơ sở
Bùi Thế Đăng, Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra đảng viên và tổ
chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm của ủy ban kiểm tra đảng ủy các
trung, lữ đoàn đủ quân ở Quân khu 1 giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ
Khoa học chính trị, Học viện Chính trị quân sự, 2005; Nguyễn Nguyện, Công
tác kiểm tra của đảng ủy các hệ đào tạo cán bộ chỉ huy tham mưu cấp chiến
thuật, chiến dịch ở Học viện Lục quân giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ
Khoa học Chính trị, Học viện Chính trị quân sự, 2005; Bùi Quang Cường,
“Một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
ở đảng bộ cơ sở trong Quân đội hiện nay”, Tạp chí Giáo dục lý luận chính
trị quân sự, số 3 - 2009; Trương Tấn Sang, “Nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác kiểm tra, giám sát trong đảng bộ khối các cơ quan Trung ương”,
Tạp chí Kiểm tra, 2009; Phạm Quang Thanh, Công tác kiểm tra, giám sát
của đảng ủy các hệ, tiểu đoàn quản lý học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị
hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Chính trị, Học viện Chính trị, 2010;
Ngô Xuân Cầm, Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của các
đảng ủy trung, lữ đoàn thuộc Quân khu 4 hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa
học Chính trị, Học viện Chính trị, 2011; Lê Hữu Đức, “Nâng cao chất lượng
công tác kiểm tra, giám sát, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung
ương 4 (Khóa XI) trong Đảng bộ Quân đội”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân,
2012; Nguyễn Văn Bắc, Chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của ủy ban
kiểm tra đảng ủy các cấp ở Đảng bộ Học viện Hậu giai đoạn hiện nay , Luận
văn Thạc sỹ Khoa học Chính trị, Học viện Chính trị, 2012.
Nhóm các công trình nêu trên khẳng định vị trí, vai trò, tầm quan trọng
của công tác KT, GS, vị trí, vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng và UBKT các cấp
trong thực hiện nhiệm vụ công tác KT, GS của Đảng. Căn cứ vào Điều lệ
Đảng, các chỉ thị, nghị quyết và hướng dẫn của Đảng về công tác KT, GS; căn
6
cứ vào đặc điểm, tình hình cụ thể của từng địa phương, đơn vị, nhóm các công
trình này đã đánh giá khá đầy đủ và toàn diện quá trình thực hiện nhiệm vụ KT,
GS của các đơn vị, địa phương, trên cơ sở đó rút ra một số bài học kinh nghiệm
cho từng đơn vị và địa phương, đưa ra các yêu cầu và giải pháp cơ bản nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác KT, GS của tổ chức đảng và UBKT các
cấp trong các đơn vị và địa phương đó trong thời gian tới.
Nhóm các công trình nghiên cứu về công tác Kiểm tra, giám sát và
thi hành kỷ luật trong Đảng của Đảng bộ tỉnh Nam Định
Nguyễn Đình Hùng, Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo công tác phát
triển tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn từ năm 2001 đến năm 2010,
Luận văn thạc sĩ Khoa học Chính trị, Học viện Chính trị, 2013; Lê Ba,
“Đảng bộ thành phố Nam Định coi trọng công tác kiểm tra, giám sát”, Tạp
chí Kiểm tra, 2014; Phạm Hồng Hà, “Cần có đội ngũ cán bộ kiểm tra giỏi về
chuyên môn, vững về lập trường và đủ bản lĩnh thực hiện nhiệm vụ kiểm tra,
giám sát”, Tạp chí Kiểm tra, 2014; Trần Thị Thúy Nga, “Đảng bộ xã Hợp
Hưng kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng bộ”,
Tạp chí kiểm tra, 2014; Thu Hoài, “Kiểm tra là khám bệnh cứu người”, Tạp
chí kiểm tra, 2014. Lê Ba “Hải Hậu xây dựng nông thôn mới”, Tạp chí kiểm
tra, 2014. Bùi Xuân Đức, “Nam Định đẩy mạnh giải pháp trong kiểm tra tổ
chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm”, Tạp chí Kiểm tra, 2014.
Nguyễn Thị Hường, Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo phát triển đảng viên
trong đồng bào các tôn giáo từ năm 2001 đến năm 2010, Luận văn thạc sĩ
Khoa học Chính trị, Học viện Chính trị, 2015.
Các công trình nghiên cứu trên đánh giá khá toàn diện về thực trạng công
tác KT, GS của Đảng trên phạm vi tỉnh Nam Định, chỉ rõ những ưu điểm, hạn
chế, nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế trong công tác KT, GS, đặc biệt
chỉ rõ những hạn chế, yếu kém của cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT các cấp và đội
ngũ cán bộ, đảng viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ KT, GS. Từ đó, đề
xuất các yêu cầu, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ KT, GS của cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT các cấp và xây
7
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên ngành KT, GS đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng
yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Với các góc độ tiếp cận, nghiên cứu khác nhau, những bài viết, công
trình khoa học trên đã luận giải và làm rõ nhiều vấn đề về công tác KT, GS cả
về phương diện lý luận và thực tiễn. Phần lớn các công trình đều khẳng định
công tác KT, GS là chức năng lãnh đạo của Đảng, là cơ sở, biện pháp, cách
thức để Đảng giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật, giữ gìn phẩm chất, đạo đức của
đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trên cơ sở khẳng định vị trí, vai trò, tầm quan
trọng của công tác KT, GS, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế trong thực hiện
công tác KT, GS ở từng đơn vị và địa phương trong những năm vừa qua, các
công trình đã rút ra các bài học kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công tác KT, GS của Đảng trong thời
gian tới. Tuy nhiên, nghiên cứu về quá trình Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo
công tác KT, GS (2007 - 2015) vẫn chưa có một công trình nào đề cập đầy
đủ, toàn diện dưới góc độ khoa học Lịch sử Đảng. Trên cơ sở kế thừa những
công trình đã công bố, tác giả hệ thống và mô tả, tái hiện lại quá trình Đảng
bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo công tác KT, GS từ năm 2007 đến năm 2015. Qua
đó, rút ra một số nhận xét và kinh nghiệm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác KT, GS ở Đảng bộ tỉnh Nam Định trong những năm tiếp theo.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo công KT,
GS từ năm 2007 đến năm 2015, trên cơ sở đó đúc rút kinh nghiệm để vận
dụng trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ yêu cầu khách quan lãnh đạo công tác KT, GS của Đảng bộ
tỉnh Nam Định.
- Trình bày có hệ thống chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Nam
Định về công tác KT, GS từ năm 2007 đến năm 2015.
- Đánh giá ưu, khuyết điểm và rút ra những kinh nghiệm lịch sử.
8
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nam Định đối với công tác KT, GS.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh
Nam Định đối với công tác KT, GS.
- Về thời gian: Từ năm 2007 đến năm 2015
- Về không gian: Tỉnh Nam Định.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, phương pháp
luận sử học mác xít.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp logic và sự kết
hợp hai phương pháp đó là chủ yếu, đồng thời kết hợp với các phương pháp
khác như: thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, lịch đại, đồng đại, phương
pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Góp phần làm sáng tỏ hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nam Định
về công tác KT, GS trong những năm 2007 đến năm 2015.
- Những nhận xét, đánh giá và kinh nghiệm rút ra được trình bày trong
luận văn, góp phần vào việc tổng kết công tác KT, GS của Đảng bộ tỉnh Nam
Định trong thời kỳ đổi mới; đồng thời bổ sung vào Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam
Định thêm đầy đủ, phong phú hơn.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc học tập,
nghiên cứu về công tác KT, GS ở Tỉnh nói riêng và công tác nghiên cứu Lịch
sử Đảng trong các học viện, nhà trường nói chung.
7. Kết cấu của đề tài
Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
9
Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH NAM ĐỊNH VỀ CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT
TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2015
1.1. Yêu cầu khách quan và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Nam
Định về công tác Kiểm tra, giám sát (2007 - 2015)
1.1.1. Yêu cầu khách quan Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo công
tác Kiểm tra, giám sát (2007 - 2015)
* Vị trí, vai trò công tác Kiểm tra, giám sát của Đảng
Kiểm tra, giám sát cần thiết với mọi tổ chức và con người trong xã hội,
đặc biệt là đối với chính đảng của giai cấp vô sản. Đảng Cộng sản Việt Nam,
chính đảng kiểu mới theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
“là tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động”, có sứ mệnh lịch sử là
lãnh đạo giai cấp và dân tộc tiến hành thắng lợi cách mạng dân tộc, dân
chủ, đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân,
phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,
tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc nền độc lập của Tổ quốc. Sự nghiệp cách mạng lâu dài, gian khổ,
quyết liệt, phức tạp đó, đòi hỏi Đảng phải có đường lối, chính sách đúng,
có năng lực tổ chức thực hiện cao, phải tiến hành KT, GS thường xuyên,
kịp thời, có hiệu quả. Chính vì vậy, ngay từ khi mới thành lập và suốt trong
quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng và tiến hành thường
xuyên công tác KT, GS. Vậy, KT, GS là gì?
Theo nghĩa chung: Kiểm tra được hiểu là “xem xét thực chất, thực
tế” [18, tr. 937] hoặc là “xem xét tình hình thực tế thi hành pháp luật, thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn nói chung hay một công tác cụ thể được giao để
đánh giá, nhận xét” [86, tr. 264]. Kiểm tra của Đảng là một trong những chức
10
năng lãnh đạo của Đảng, là việc các tổ chức đảng xem xét, đánh giá, kết luận
về ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm của các cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới
và đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ
trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Giám sát là
“theo dõi, kiểm tra, xem xét thực hiện đúng những điều quy định không” [18,
tr. 389] hoặc là “sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động, thường
xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và
hướng các hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế
nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã được xác định từ trước, bảo đảm cho
pháp luật được tuân theo nghiêm chỉnh” [86, tr. 174]
Theo Quyết định số 46 - QĐ/TW ngày 01/01/2011 của BCHTW ban
hành hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác KT, GS và kỷ luật của
Đảng trong chương VII và chương VIII Điều lệ Đảng khóa XI: Kiểm tra của
Đảng là việc các tổ chức đảng xem xét, đánh giá, kết luận về ưu điểm, khuyết
điểm hoặc vi phạm của các cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên trong
việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết,
chỉ thị của Đảng và pháp luật Nhà nước.
Giám sát của Đảng là việc các cấp ủy, tổ chức đảng theo dõi, xem xét, đánh
giá hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên chịu sự giám sát trong việc chấp
hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng
và đạo đức, lối sống theo quy định của BCHTW.
Kiểm tra và giám sát đều là công việc nội bộ của Đảng, do cấp ủy, tổ
chức Đảng, UBKT các cấp thực hiện nhưng có sự khác nhau tương đối về
tính chất, đối tượng và phương pháp tiến hành. Song KT, GS có chung mục
đích là nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng
các cấp; nâng cao phẩm chất chính trị, năng lực công tác,...của đội ngũ cán
bộ, đảng viên; xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, vì thế có mối
quan hệ chặt chẽ, thống nhất biện chứng với nhau. Để giám sát đạt được kết
11
quả phải tiến hành kiểm tra tình hình thực tế của đối tượng được giám sát để
xem xét, nhận xét; ngược lại, muốn thực hiện tốt việc kiểm tra thì phải thường
xuyên giám sát để đưa ra quyết định kiểm tra kịp thời, chính xác.
Kiểm tra, giám sát có vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động lãnh
đạo của Đảng. Khi bàn về vấn đề này V.I.Lênin khẳng định: Khi đường lối,
chính sách đã được xác định, phương hướng đã được thông qua thì nhiệm
vụ tổ chức thực hiện phải đặt lên hàng đầu và sự lãnh đạo phải “chuyển
trọng tâm từ việc soạn thảo các sắc lệnh và mệnh lệnh sang việc lựa chọn
người và kiểm tra việc thực hiện, đó là vấn đề then chốt” [35, tr. 450].
Theo V.I. Lênin, nếu chỉ chú ý vào một việc là soạn thảo các sắc lệnh, nghị
quyết, chỉ thị, không quan tâm tới việc kiểm tra, tổ chức thực hiện thì “tất
cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn” [35, tr. 451]. Và
Người coi kiểm tra là biện pháp để nâng cao hiệu quả của việc chấp hành
các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đã đề ra và khắc phục bệnh
quan liêu, giấy tờ của cán bộ, nhân viên công tác trong cơ quan của Đảng,
Nhà nước. V.I.Lênin nhấn mạnh: “Kiểm tra nhân viên công tác và kiểm tra
việc chấp hành thực tế công tác - mấu chốt của toàn bộ công tác, của toàn
bộ chính sách hiện nay là ở đấy, vẫn ở đấy và chỉ có ở đấy” [35, tr. 19].
Chủ tịch Hồ Chí Minh – Người sáng lập, xây dựng và rèn luyện Đảng
Cộng sản Việt Nam thành một đảng cách mạng chân chính, trong quá trình
hoạt động cách mạng, Người khẳng định:
Chính sách đúng là nguồn gốc của thắng lợi... Khi đã có chính sách đúng,
thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức
công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài,
thì chính sách đúng mấy cũng vô ích... Có kiểm tra mới huy động được
tinh thần tích cực và lực lượng to tát của nhân dân, mới biết rõ năng lực và
khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời [30, tr. 636].
12
Người chỉ rõ, công tác kiểm tra của Đảng cần tập trung vào những vấn đề sau:
Kiểm tra phải có hệ thống nghĩa là khi đã có nghị quyết, thì phải lập tức đốc
thúc sự thực hành nghị quyết ấy, phải biết rõ sự linh hoạt và cách làm việc của
cán bộ và nhân dân địa phương ấy, “Kiểm tra không nên chỉ bằng căn cứ vào
các tờ báo cáo, mà phải đi tới tận nơi”, “Kiểm tra phải dùng cách thức thật thà
tự phê bình và phê bình” [30, tr. 521].
Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam. Sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo cánh mạng của Đảng bắt nguồn từ
sự đoàn kết, thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Để thực hiện được
vai trò lãnh đạo và sứ mệnh lịch sử của mình trước giai cấp và dân tộc thì
Đảng phải tiếp tục tự đổi mới và chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, bảo đảm Đảng thực sự trong sạch vững mạnh cả về
chính trị, tư tưởng và tổ chức. Để đạt được điều đó, Đảng phải coi trọng và làm
tốt công tác KT, GS vì: Công tác kiểm tra là “một bộ phận quan trọng trong
toàn bộ công tác xây dựng Đảng” [19, tr. 122], là một khâu quan trọng của tổ
chức thực hiện, là “biện pháp hiệu nghiệm để khắc phục bệnh quan liêu” [20,
tr. 137], có giám sát tốt mới có thể đánh giá đúng, lựa chọn đúng và đặc biệt là
kịp thời ngăn ngừa sai phạm từ khi mới có những dấu hiệu vi phạm; đó cũng là
phương thức quan trọng để bảo vệ cán bộ, bảo đảm Đảng và Nhà nước có đội
ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, được
nhân dân tin yêu.
Điều lệ Đảng được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
thông qua đã tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò công tác KT, GS của Đảng và
nhiệm vụ KT, GS của các tổ chức đảng, trước hết là của cấp ủy các cấp được
quy định tại Điều 30 Điều lệ Đảng. Quy định của Điều lệ Đảng về công tác
KT, GS đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghiêm
chỉnh. Quy định này xác định rõ công tác KT, GS là của toàn Đảng, các cấp
ủy, tổ chức đảng các cấp vừa phải tiến hành công tác KT, GS vừa phải chịu sự
13
KT, GS của tổ chức đảng có thẩm quyền cấp trên; xác định rõ vai trò, trách
nhiệm, quyền hạn của các cấp ủy, tổ chức đảng đối với công tác KT, GS.
* Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ tỉnh Nam
Định trước năm 2007
Đặc điểm tỉnh Nam Định tác động đến công tác kiểm tra của Đảng bộ
địa phương
Nam Định là một Tỉnh ven biển phía Đông Nam đồng bằng châu thổ
sông Hồng, cách Thủ đô Hà Nội 90 km về phía Nam (theo Quốc lộ 1A qua
Hà Nam) và cách thành phố Hải Phòng 80 km về phía Tây (theo Quốc lộ 10
qua Thái Bình). Phía Đông, Nam Định giáp tỉnh Thái Bình; phía Tây giáp
tỉnh Ninh Bình; phía Nam và Đông Nam giáp biển Đông với tổng chiều dài
đường bờ biển là 72 km; phía Bắc giáp tỉnh Hà Nam.
Nam Định ở vào vị trí trung chuyển giữa các tỉnh phía Nam đồng bằng sông
Hồng và các tỉnh Bắc Trung bộ. Diện tích tự nhiên Nam Định là 1652,2 km2, bằng
khoảng 0,5% diện tích tự nhiên cả nước. Dân số Nam Định là 1.836.900
người, là một trong 10 tỉnh, thành phố đông dân nhất cả nước.
Tỉnh Nam Định có 10 đơn vị hành chính, trong đó có 09 huyện và 1 thành
phố trực thuộc Tỉnh với tổng số 229 xã, phường, thị trấn, trong đó có 09 thị
trấn là huyện lỵ và 6 thị trấn độc lập khác trực thuộc huyện. Là Tỉnh nằm
trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của tam giác tăng trưởng trọng điểm phía
Bắc (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh). Là vùng đất với nền kinh tế đang
phát triển với nhiều tiềm năng lợi thế về nông nghiệp, chăn nuôi, thủy hải
sản, các làng nghề truyền thống như đúc đồng, mây, tre, dệt may và các
ngành công nghiệp đang trên đà phát triển.
Nam Định là mảnh đất địa linh nhân kiệt, có lịch sử truyền thống trên 750
năm của Phủ Thiên Trường; nơi sinh ra nhiều danh nhân cho đất nước như Quốc
công Tiết chế Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, Thượng tướng Trần Quang
Khải, vua Trần Thái Tông và Trần Thánh Tông, Thiền sư Dương Không Lộ và
Nguyễn Giác Hải, các vị trạng nguyên như Nguyễn Hiền, Lương Thế Vinh,... Các
14
danh nhân không chỉ là niềm tự hào của nhân dân Nam Định mà còn là niềm tự hào
của cả nước. Nam Định là một trong những địa phương có chi bộ đảng đầu tiên của
Đảng, nơi sinh ra nhiều lãnh tụ xuất sắc của Đảng và cách mạng Việt Nam. Nam
Định là địa phương có mật độ dân số đông, có nền văn hóa đa dạng với nhiều danh
lam thắng cảnh, nhiều di tích lịch sử - văn hóa; là địa phương có nhiều người theo
các tôn giáo khác nhau. Nam Định có 3 tôn giáo chính: Công giáo, Phật giáo, Tin
Lành cùng với nhiều loại hình tín ngưỡng, nhất là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và tín
ngưỡng thờ Mẫu...tạo nên sự đa dạng, phong phú trong hoạt động chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội của Tỉnh.
Tính đến tháng 12 năm 2006, Đảng bộ tỉnh Nam Định có 90.621 đảng
viên, sinh hoạt tại 971 tổ chức cơ sở đảng trong 16 đảng bộ trực thuộc Tỉnh;
trong đó có 229 đảng bộ xã, phường, thị trấn; 214 đảng bộ, chi bộ cơ sở
doanh nghiệp; 67 đảng bộ, chi bộ cơ sở lực lượng vũ trang và 461 đảng bộ,
chi bộ cơ sở cơ quan hành chính, sự nghiệp
Thuận lợi: là địa phương có sự đa dạng về tiềm năng phát triển, đặc biệt
là tiềm năng về lực lượng lao động với trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp
vụ và tay nghề khá so với mặt bằng chung của cả nước. Cấp ủy, cán bộ, đảng
viên trong Đảng bộ luôn đoàn kết, thống nhất, phát huy truyền thống cách
mạng, kết thừa được thành tựu, kinh nghiệm của nhiều nhiệm kỳ, thực hiện
nghiêm túc, có hiệu quả các nghị quyết và sự chỉ đạo của Trung ương; tình
hình kinh tế - xã hội phát triển ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững.
Những thuận lợi trên là nền tảng căn bản để các cấp ủy đảng triển khai
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương,
trong đó có nhiệm vụ kiểm tra của Đảng.
Khó khăn: là Tỉnh duyên hải, ở hạ lưu sông Hồng, sông Đáy, mật độ
dân cư cao, thường xuyên chịu ảnh hưởng xấu do thiên tai, hiện tượng biến
đổi khí hậu và diễn biến phức tạp của nạn ô nhiễm môi trường. Quy mô nền
kinh tế nhỏ, nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu kinh tế,
15
nguồn thu ngân sách hạn hẹp, vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ, phát triển
kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn; một số vấn đề xã hội chậm được giải
quyết, tệ nạn tham ô, tham nhũng của đội ngũ cán bộ ở một số ngành, lĩnh vực
như đầu tư xây dựng cơ bản, chi ngân sách...chưa được đẩy lùi, hiệu quả hoạt
động của hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ có mặt còn hạn chế; hiệu lực, hiệu
quả của công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý điều hành của một số tổ chức đảng,
cơ quan nhà nước ở các cấp chưa phát huy tác dụng tích cực, nhất là ở cơ sở.
Những thuận lợi và khó khăn như trên đã tác động và ảnh hưởng trực
tiếp tới quá trình thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra ở Đảng bộ tỉnh Nam
Định trong những năm vừa qua.
Thực trạng công tác kiểm tra của Đảng bộ tỉnh Nam Định trước năm 2007
Báo cáo tổng kết công tác kiểm tra nhiệm kỳ (2001 – 2005) của Ủy ban
Kiểm tra Tỉnh ủy, số 151 – BC/UBKTTU, ngày 28/9/2005 đã chỉ rõ:
Về ưu điểm:
Công tác kiểm tra của Đảng bộ Tỉnh được thực hiện trong điều kiện tiếp
tục phục vụ việc thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng và thực
hiện nghị quyết Đại hội Đảng các cấp trong Tỉnh. Tỉnh ủy đã chỉ đạo, tổ chức
nghiên cứu, quán triệt và thực hiện đầy đủ, nghiêm túc mọi quy định của Trung
ương về công tác kiểm tra và thi thành kỷ luật trong Đảng, nhất là Chỉ thị số 29
- CT/TW ngày 14/2/1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác kiểm tra của
Đảng; hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra và thi hành kỷ luật
trong chương VII, VIII Điều lệ Đảng ban hành theo quyết định số 10 - QĐ/TW
ngày 29/5/2001 của Ban Bí thư Trung ương. Vì vậy, đã nâng cao nhận thức cho
các cấp ủy Đảng, về chức năng, nhiệm vụ kiểm tra theo Điều 30 Điều lệ Đảng;
làm cho các tổ chức đảng xác định rõ hơn nhiệm vụ kiểm tra là của toàn Đảng,
trước hết là của các cấp ủy Đảng; việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra đảm bảo đúng phương hướng, phương pháp, phương châm, quy trình
và ngày càng có nền nếp, hiệu quả hơn.
16
Trong công tác kiểm tra, cấp ủy và UBKT các cấp trong Tỉnh luôn chấp
hành 5 nội dung cơ bản của phương pháp kiểm tra: luôn dựa vào các tổ chức
đảng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật trong
Đảng, coi đó là nguyên tắc trong thực hiện nhiệm vụ; luôn phát huy tinh thần
tự giác của tổ chức đảng và đảng viên; luôn đề cao và phát huy trách nhiệm
xây dựng Đảng của quần chúng; luôn coi trọng và làm tốt công tác thẩm tra,
xác minh, đảm bảo đúng đắn, công tâm, trung thực, giúp cho cấp ủy, UBKT
kết luận các vụ việc chính xác, khách quan; luôn kết hợp chặt chẽ công tác
kiểm tra của Đảng với công tác thanh tra của Nhà nước, thanh tra nhân dân,
công tác kiểm tra của các đoàn thể chính trị - xã hội, nghề nghiệp và phối
hợp với các ban, ngành có liên quan. UBKT Tỉnh ủy luôn chỉ đạo và thực
hiện có hiệu quả sự phối hợp trong công tác kiểm tra, đảm bảo thực sự dân
chủ, công bằng, khách quan.
Việc thực hiện quy trình công tác kiểm tra theo quy định luôn được cấp
ủy và UBKT các cấp trong Tỉnh chú trọng, cố gắng thực hiện tốt. Cấp ủy các
cấp đã quan tâm lãnh đạo và thực hiện công tác kiểm tra, đề ra phương
hướng, nhiệm vụ, trọng tâm công tác kiểm tra của các tổ chức đảng cấp dưới
và của cấp mình; đôn đốc thực hiện phương hướng, nhiệm vụ kiểm tra; định
kỳ nghe các tổ chức đảng cấp dưới báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ kiểm
tra, cho ý kiến, nhận xét, đánh giá; đồng thời lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức và hoạt
động của UBKT cấp mình. Các cấp ủy Đảng đã thực hiện nghiêm túc chế độ
lãnh đạo có kiểm tra, kiểm tra có chương trình, kế hoạch được xây dựng cụ
thể trên cơ sở nắm vững và đề ra những việc chủ yếu, giải quyết dứt điểm
từng vụ việc; từng bước đã nhận thức rõ việc nâng cao chất lượng công tác
kiểm tra cũng có ý nghĩa là nâng cao chất lượng lãnh đạo của cấp ủy, đổi mới
triệt để tư duy, khắc phục những nhận thức không đúng, những định kiến sai
lầm đối với công tác kiểm tra và vấn đề thi hành kỷ luật trong Đảng. Đa số
các cán bộ chủ chốt, cấp ủy đã trực tiếp tổ chức, chỉ đạo việc kiểm tra.
17
Trong công tác kiểm tra, cấp ủy và UBKT các cấp trong Tỉnh luôn thực
hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh mọi nguyên tắc, phương châm, thủ tục; tuân thủ
nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, trước hết là nguyên tắc
tập trung dân chủ; nhận xét, đánh giá các sự việc một cách khách quan, thận
trọng trên cơ sở những văn bản pháp quy, những tiêu chí cụ thể đang có giá trị
hiện hành so với thực tế của đối tượng được kiểm tra; đảm bảo và phát huy tốt
tính đảng trong công tác kiểm tra; luôn dựa trên cơ sở và khuôn khổ của
Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng; lấy việc phục vụ
nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng làm mục tiêu, phương hướng,
nội dung hoạt động của công tác kiểm tra.
Ủy ban Kiểm tra các cấp trong Tỉnh đã nghiêm túc thực hiện quy chế
làm việc; thường xuyên sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả công tác kiểm tra,
nhất là kiểm tra các chuyên đề; từ đó có biện pháp chấn chỉnh kịp thời và rút
kinh nghiệm cho các đợt kiểm tra khác đạt kết quả tốt hơn. Quá trình xem xét,
xử lý các vụ việc, cấp ủy đã sử dụng có hiệu quả cơ quan tham mưu là UBKT.
Mọi hoạt động nghiệp vụ công tác kiểm tra như thu thập tài liệu, lấy ý kiến của
tổ chức đảng, đảng viên và quần chúng; tổ chức hội nghị với các tổ chức đảng;
thẩm tra, xác minh, trao đổi với tổ chức đảng và đảng viên có liên quan; thảo
luận, kết luận nội dung đã kiểm tra, quyết định hoặc đề nghị với cấp trên
quyết định thi hành kỷ luật đối với tổ chức đảng hoặc đảng viên có vi phạm;
thông báo kết quả kiểm tra và công bố quyết định xử lý kỷ luật...đều được tiến
hành công khai, được trao đổi dân chủ với đại diện các tổ chức đảng có liên
quan và với mọi đối tượng kiểm tra, thống nhất từ trong cấp ủy đến mọi tổ
chức đảng và đảng viên có liên quan; khi cấp có thẩm quyền quyết định thì
được thông báo rộng rãi, đầy đủ, tạo bầu không khí tâm lý thẳng thắn, tin
tưởng lẫn nhau, phát huy đến mức cao nhất chức năng tâm lý giáo dục của
công tác kiểm tra,...Quá trình kiểm tra, đánh giá, kết luận dựa trên những
chứng cứ rõ ràng, không áp đặt, quy chụp.
18
Bên cạnh những mặt đã làm được, công tác kiểm tra của Đảng bộ tỉnh
Nam Định trước năm 2007 còn bộc lộ những hạn chế đó là:
Cấp ủy và tổ chức đảng các cấp trong Tỉnh chưa tích cực nghiên cứu,
ban hành quy chế phối hợp giữa các ban, ngành trong việc thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra và giải quyết tố cáo. Trong 5 năm, từ năm 2001 đến năm 2005,
UBKT các cấp đã tiến hành kiểm tra được 1.510 đảng viên và 160 tổ chức
đảng các cấp so với tổng số 90.621 đảng viên và 971 tổ chức đảng trong
toàn Tỉnh thì đây là một con số còn khá khiêm tốn, điều đó chứng tỏ rằng:
tuy việc xây dựng chương trình công tác kiểm tra toàn khóa và hàng năm đã
trở thành nền nếp, song các cuộc kiểm tra tiến hành chưa được nhiều, nhất là
ở các lĩnh vực quan trọng như quản lý xây dựng cơ bản, quản lý tài chính
tiền tệ, quản lý đất đai, công tác cán bộ,...theo tinh thần Chị thị số 29 CT/TW của Bộ Chính trị; chưa phát huy được vai trò kiểm tra của các ban
cán sự đảng và các cấp ủy Đảng đối với các hoạt động của cơ quan Nhà
nước nên không kịp thời phát hiện và có biện pháp ngăn ngừa sai phạm. Một
số cấp ủy Đảng, nhất là ở cơ sở còn ngại khó, chưa trực tiếp chủ trì các cuộc
kiểm tra của cấp mình mà còn giao cho UBKT hoặc các ban đảng tham mưu
giúp việc kiểm tra là chủ yếu.
Mặc dù xác định nhiệm vụ kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng cấp dưới
khi có dấu hiệu vi phạm là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt nhưng việc kiểm tra
đối với cấp ủy viên cùng cấp và cán bộ do cấp ủy cấp mình quản lý chưa được
nhiều, thực tế đã chứng minh: từ năm 2001 đến năm 2005, UBKT các cấp đã
tiến hành kiểm tra được 433 cấp ủy viên các cấp, trong đó có 01 tỉnh ủy viên,
01 ủy viên ban thường vụ huyện ủy, 07 huyện ủy viên, 148 đảng ủy viên và
276 chi ủy viên; có 02 cán bộ thuộc diện Tỉnh quản lý, 164 trường hợp do
huyện ủy, thành ủy và đảng ủy trực thuộc quản lý. Việc xem xét, xử lý kỷ luật
đảng viên và tổ chức đảng đã có rất nhiều cố gắng, song, hiệu quả công tác tư
tưởng còn nhiều hạn chế; chất lượng thẩm tra, xác minh cần được chú trọng
19
hơn để đảm bảo nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ. Chất lượng thực hiện
nhiệm vụ của UBKT cơ sở chưa đồng đều, còn nhiều hạn chế.
Nguyên nhân chủ yếu của các khuyết điểm tồn tại nói trên, trước hết,
bắt nguồn từ việc nhận thức về công tác kiểm tra của nhiều cấp ủy (nhất là ở
cơ sở) chưa đầy đủ, chưa thấy kiểm tra vừa là chức năng lãnh đạo, vừa là
nhiệm vụ và trách nhiệm của tổ chức đảng. Các cấp ủy lãnh đạo công tác
kiểm tra và trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra còn chung chung; có nơi
quan niệm công tác kiểm tra là của UBKT nên chỉ chú trọng sử dụng UBKT
vào các công việc kiểm tra của cấp ủy. Cá biệt có cấp ủy Đảng ít quan tâm
đến công tác kiểm tra và cũng không muốn được cấp trên kiểm tra. Một số
nơi có tư tưởng thành tích nên thực hiện công tác kiểm tra không đến nơi đến
chốn, nặng về giải pháp tình thế, để vụ việc kéo dài, chưa kiên quyết xử lý các
sai phạm, hữu khuynh né tránh, thậm chí bao che cho những vi phạm của cấp
dưới làm cho tình hình diễn ra phức tạp thêm. Một số UBKT chưa làm tốt
chức năng tham mưu cho cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực công tác của cán bộ kiểm
tra chưa đồng đều, một số mới được bổ sung nên chưa có kinh nghiệm. Một
số cán bộ chưa chủ động tự nghiên cứu học tập để nâng cao trình độ, phương
pháp công tác nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đội ngũ
cán bộ kiểm tra ở các đảng ủy cơ sở nhìn chung năng lực hạn chế, lại phải
kiêm nhiệm nhiều việc nên hiệu quả thực hiện nhiệm vụ kiểm tra thấp. Chính
sách, chế độ, các phương tiện trang bị cho ngành kiểm tra còn thiếu và chưa
tạo được động lực thúc đẩy công tác kiểm tra.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên không chỉ tác động và ảnh hưởng
trực tiếp đến uy tín, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ mà còn
là một trong những nguyên nhân kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa
phương. Vì thế, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác KT, GS
nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
20
chiến đấu của Đảng bộ, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của thời kỳ mới là một tất
yếu khách quan.
* Chủ trương của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát trong những năm
(2007 – 2015)
Để nâng cao chất lượng hiệu quả công tác KT, GS của Đảng, xây
dựng Đảng trong sạch vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức đáp
ứng yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn đặt ra, Đại hội X của Đảng khẳng định:
Đổi mới và tăng cường công tác KT, GS. Tăng cường công tác KT, GS với
nhận thức và yêu cầu mới: công tác KT, GS phải góp phần phát hiện và khắc
phục được những khuyết điểm, thiếu sót khi mới manh nha; bên cạnh việc
tiếp tục thực hiện kiểm tra tổ chức và cá nhân đảng viên có dấu hiệu vi
phạm, phải tăng cường chủ động giám sát, kiểm tra về phẩm chất đạo đức lối
sống và kết quả thực hiện nhiệm vụ của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, về
nhận thức và chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước và việc chấp hành Điều lệ Đảng. Coi trọng kiểm tra phát
hiện nhân tố tích cực.
Bổ sung chức năng giám sát, tăng thẩm quyền và trách nhiệm xem xét
kỷ luật của cấp ủy và UBKT các cấp. UBKT các cấp có quyền yêu cầu các
cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên giải trình về các vấn đề thuộc thẩm quyền
và trách nhiệm KT, GS được giao.
Kiện toàn hệ thống UBKT các cấp, hoàn thiện quy chế phối hợp giữa
UBKT đảng với các tổ chức đảng và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc
xem xét, khiếu nại, tố cáo và xử lý kỷ luật đối với cán bộ, đảng viên.
Xây dựng quy chế tiếp nhận, xử lý ý kiến của Mặt trận, các đoàn thể và
của nhân dân, nhận xét, phê bình tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên.
Kiện toàn tổ chức, tăng cường cán bộ có chất lượng, cải thiện điều kiện,
phương tiện làm việc của UBKT các cấp.
21
Cụ thể hóa chủ trương của Đại hội X của Đảng về công tác KT, GS,
ngày 30/7/2007, Hội nghị lần thứ năm BCHTW khóa X của Đảng đã ra Nghị
quyết chuyên đề về tăng cường công tác KT, GS của Đảng, được thể hiện trên
các nội dung sau:
Quan điểm:
Kiểm tra, giám sát là nội dung rất quan trọng trong quá trình lãnh đạo
của Đảng, là chức năng lãnh đạo, nhiệm vụ thường xuyên của toàn Đảng,
trước hết là nhiệm vụ của cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy, do cấp ủy trực
tiếp tiến hành. Công tác KT, GS phải được tiến hành công khai, dân chủ,
khách quan, thận trọng và chặt chẽ theo đúng nguyên tắc, phương pháp công
tác đảng. Tổ chức đảng và đảng viên phải chịu sự KT, GS của Đảng và chịu
sự giám sát của nhân dân.
Tăng cường công tác KT, GS phải gắn chặt với công tác tư tưởng, công
tác tổ chức và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; phải thực hiện toàn diện,
đồng bộ, có hiệu lực, hiệu quả, góp phần xây dựng Đảng vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức; thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng.
Thực hiện đồng bộ giữa công tác kiểm tra và công tác giám sát; giám
sát phải mở rộng, kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm, để chủ động phòng
ngừa vi phạm, kịp thời phát hiện những nhân tố mới để phát huy, khắc phục
thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm ngay từ lúc mới manh nha.
Công tác KT, GS, kỷ luật của Đảng phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và
chống, lấy xây là chính. Khi các vụ việc vi phạm được phát hiện, phải kiên
quyết xử lý nghiêm minh để răn đe và giáo dục.
Đề cao trách nhiệm của tổ chức đảng và đảng viên; phát huy vai trò,
trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và của nhân dân
trong công tác KT, GS.
Mục tiêu:
Tăng cường công tác KT, GS nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của Đảng, sự đoàn kết thống nhất và bảo đảm thực hiện dân chủ
22
trong Đảng, giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng; phòng ngừa, ngăn chặn sự
suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên, bảo
vệ quan điểm, đường lối của Đảng, tránh các nguy cơ sai lầm về đường lối,
quan liêu, xa dân của đảng cầm quyền, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ X.
Tạo sự chuyển biến tích cực về tư tưởng, nhận thức và hành động trong
Đảng đối với công tác KT, GS, kỷ luật của Đảng, trước hết là trong cấp ủy, đặc
biệt là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, đoàn thể chính
trị xã hội các cấp. Từng bước hoàn thiện quan điểm, nội dung, phương pháp,
nâng cao hiệu quả công tác KT, GS của Đảng trong tình hình mới.
Kịp thời đánh giá đúng ưu điểm của tổ chức đảng và đảng viên để
phát huy; phát hiện, làm rõ thiếu sót, khuyết điểm để uốn nắn khắc phục
và xử lý nghiêm minh khi có vi phạm, góp phần xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh; phục vụ việc tổng kết thực tiễn, nhân rộng những nhân
tố mới, bổ sung, hoàn thiện và phát triển đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; chống tư tưởng bảo thủ, trì trệ, cục
bộ, bản vị, chống quan liêu, tham thũng, tiêu cực.
Nhiệm vụ:
Cấp ủy các cấp tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng
cao chất lượng nghiên cứu các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng để các
tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên nắm vững và tự giác chấp hành; đấu tranh
chống những biểu hiện tiêu cực, suy thoái trong Đảng. Cấp ủy các cấp, nhất là
chi bộ cần tăng cường quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên để chủ
động phòng ngừa, ngăn chặn xảy ra vi phạm hoặc không để tái phạm, góp
phần chủ động thực hiện có hiệu quả công tác KT, GS và kỷ luật của Đảng.
Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác KT, GS trong Đảng và trong cả
hệ thống chính trị. Chú trọng KT, GS người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức
23
nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội ở các cấp trong việc thực
hiện chức trách, nhiệm vụ được giao
Tăng cường công tác KT, GS của Đảng gắn với vai trò, trách nhiệm
của các tổ chức trong hệ thống chính trị và của nhân dân trong đấu tranh
phòng chống tham nhũng, lãng phí theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ
ba BCHTW Đảng khóa X.
Đổi mới phương pháp KT, GS, kỷ luật của Đảng theo hướng đồng bộ, nghiêm
minh, có hiệu lực, hiệu quả; sớm hoàn thiện quy chế giám sát trong Đảng. Kết hợp
giám sát trong Đảng với giám sát của Nhà nước và giám sát của nhân dân.
Củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy, tăng cường cán bộ đủ số lượng,
bảo đảm chất lượng; bảo đảm chế độ, chính sách theo quy định; cải thiện điều
kiện, phương tiện làm việc của UBKT các cấp.
Giải pháp:
Thứ nhất, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của các cấp
ủy, tổ chức đảng, UBKT, trước hết là người đứng đầu cấp ủy về công tác
KT, GS, kỷ luật của Đảng.
Tăng cường công tác phổ biến, quán triệt các quy định của Đảng, trước hết
là đối với người đứng đầu về vị trí, vai trò, ý nghĩa, tác dụng của công tác KT, GS,
kỷ luật của Đảng; vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức thực hiện công tác KT, GS; trách nhiệm của các tổ chức đảng, UBKT, của
cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với công tác KT, GS, kỷ luật của Đảng; tạo
được sự chuyển biến thực sự về nhận thức và hành động đối với công tác này.
Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của
Nhà nước phục vụ công tác KT, GS, kỷ luật của Đảng.
Sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định pháp luật về chế độ, chính
sách cho phù hợp với tình hình thực tế. Ban hành mới các quy định, quy chế về
công tác xây dựng Đảng; quy chế phối hợp giữa các tổ chức đảng với các tổ chức
nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội trong công tác KT, GS và kỷ luật của Đảng.
24