Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Tăng cường vai trò chính quyền địa phương trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư giải phóng mặt bằng ở huyện cẩm xuyên, tỉnh hà tĩnh giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (895.08 KB, 106 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH
----------------

VÕ TÁ NHÂN

TĂNG CƢỜNG VAI TRÕ CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG
TRONG CƠNG TÁC BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƢ
GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG Ở HUYỆN CẨM XUYÊN, TỈNH HÀ TĨNH
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS Đinh Trung Thành

Nghệ An, 2014


2
LỜI CẢM ƠN
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Ban Chủ nhiệm khoa, Hội
đồng Khoa học và Đào tạo, q thầy giáo, cơ giáo khoa Giáo dục Chính trị,
Phịng Đào tạo Sau đại học trường Đại học Vinh đã tận tình giảng dạy và giúp
đỡ em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến người
hướng dẫn khoa học - Thầy giáo - TS. Đinh Trung Thành, người đã tận tình
giúp đỡ, hướng dẫn và chỉ bảo tận tình cho em trong quá trình thực hiện luận


văn.
Xin trân trọng cảm ơn các đồng chí lãnh đạo, chuyên viên các phòng
ban thuộc UBND huyện Cẩm Xuyên, các bạn đồng nghiệp đã tận tình giúp
đỡ, tạo điều kiện để tơi hồn thành việc học tập, thu thập và xử lý thơng tin
phục vụ q trình nghiên cứu.
Mặc dù đã cố gắng hết mình, nhưng chắc chắn luận văn khơng sao
tránh khỏi những thiếu sót, tác giả rất mong nhận được sự thơng cảm, đóng
góp ý kiến của các nhà khoa học, của quý thầy giáo, cô giáo và các bạn đồng
nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Nghệ An, tháng 10 năm 2014


3
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... 2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................... 5
A. MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 6
B. NỘI DUNG ................................................................................................ 13
Chƣơng 113. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÕ CHÍNH QUYỀN ĐỊA
PHƢƠNG TRONG CÔNG TÁC BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI
ĐỊNH CƢ GIẢI PHĨNG MẶT BẰNG ...................................................... 13
1.1. Chính quyền địa phương trong Hiến pháp năm 2013 .............................. 13
1.2. Tăng cường vai trị của chính quyền địa phương trong cơng tác bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư giải phóng mặt bằng là một yêu cầu khách quan
trong bối cảnh hiện nay ................................................................................... 19
1.3. Quy trình bồi thường, hỗ trợ và tái định cư giải phóng mặt bằng ........... 29
1.4. Tăng cường vai trị chính quyền địa phương trong cơng tác bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư giải phóng mặt bằng là một tất yếu khách quan trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh trật tự của địa phương ...... 40

Kết luận chương 1 ........................................................................................... 51
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VAI TRÕ CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG
TRONG CÔNG TÁC BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƢ VÀ GIẢI
PHÓNG MẶT BẰNG Ở HUYỆN CẨM XUYÊN, TỈNH HÀ TĨNH .............53
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện Cẩm Xuyên . 53
2.2. Vai trò chính quyền địa phương trong cơng tác bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư giải phóng mặt bằng ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh thời gian qua 56
2.3. Những vấn đề đặt ra từ việc thực thi vai trò của chính quyền địa phương
trong cơng tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư giải phóng mặt bằng ở huyện
Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh ............................................................................... 69
Kết luận chương 2 ........................................................................................... 83


4
Chƣơng 3. MỘT SỐ ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG
VAI TRÕ CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG TRONG CƠNG TÁC BỒI
THƢỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƢ VÀ GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG Ở
HUYỆN CẨM XUYÊN, TỈNH HÀ TĨNH .................................................. 84
3.1. Một số định hướng trong việc tăng cường vai trị chính quyền địa phương
trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư giải phóng mặt bằng ở huyện
Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh ............................................................................... 84
3.2. Một số giải pháp nhằm tăng cường vai trị chính quyền địa phương nhằm
đẩy nhanh cơng tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư GPMB ở huyện Cẫm
Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay ......................................................................... 92
Kết luận chương 3 ........................................................................................... 99
KẾT LUẬN .................................................................................................. 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 103


5

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Chữ cái viết tắt

Chữ viết đầy đủ

1

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

2

CNH

Cơng nghiệp hóa

3

GPMB

Giải phóng mặt bằng

4

GCNQSD


Giấy chứng nhận quyền sử dụng

5

HĐH

Hiện đại hóa

6

HĐND

Hội đồng nhân dân

7

KTTT

Kinh tế thị trường

8

KSND

Kiểm sát nhân dân

9

LĐĐ


Luật đất đai

10

MTTQ

Mặt trận tổ quốc

11

SDĐ

Sử dụng đất

12

TAND

Tòa án nhân dân

13

THĐ

Thu hồi đất

14

WTO


Tổ chức thương mại thế giới

15

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


6
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tổ chức chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay được Hiến pháp
năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định tại chương IX là “HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ ỦY BAN NHÂN DÂN”, gồm 8 điều (từ Điều 118
đến Điều 125). Điều 119 quy định: “HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở
địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân,
do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương
và cơ quan nhà nước cấp trên”. Điều 123 quy định: “UBND do HĐND bầu là
cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương,
chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan nhà
nước cấp trên và Nghị quyết của HĐND”.
Thực tiễn cho thấy rằng cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương có vai
trị đặc biệt quan trọng trong việc cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước đến tận người dân và đa số chính quyền địa phương
đã phát huy tốt lợi thế, thực hiện phát triển kinh tế xã hội, đời sống nhân dân
ổn định, bộ mặt của các địa phương trong cả nước ngày một khởi sắc.
Đất nước ta đang trong giai đoạn hội nhập và phát triển, quá trình cơng
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước đang chuyển biến rất nhanh; cùng với đó
là việc đơ thị hóa cũng đang diễn ra ở khắp các tỉnh, thành trên tồn quốc.

Bên cạnh khn mặt mới của đơ thị với những cơng trình tầm vóc, những khu
cơng nghiệp rộng lớn là hình ảnh những người dân mất đất, mất nhà hy sinh
cuộc sống ổn định vốn có của bản thân và gia đình vì sự nghiệp phát triển
chung của đất nước, của đô thị. Việc thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt
bằng thời gian qua đã có những chuyển biến tích cực về mặt chính sách. Tuy
nhiên, những bất cập vẫn chưa được giải quyết triệt để; tỷ lệ hộ nghèo sau khi
giải phóng mặt bằng ở một số địa phương có xu hướng tăng lên, việc người
dân chưa được bồi thường thoả đáng vẫn đang khiếu kiện kéo dài làm họ mất


7
tập trung ổn định cuộc sống, gây mất ổn định chính trị, xã hội và dẫn đến tệ
nạn tại các khu vực giải toả có xu hướng tăng theo.
Trong những năm qua, bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước và huy
động các nguồn lực xã hội, huyện Cẩm Xuyên đã đầu tư xây dựng, giải phóng
mặt bằng nhiều cơng trình có tính chiến lược trên địa bàn huyện đã góp phần
quan trọng vào sự phát triển, ổn định chính trị, xã hội của huyện. Đạt được kết
quả đó là nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp ủy đảng, sự phối hợp đồng bộ
giữa chính quyền, mặt trận và các đoàn thể trong việc tuyên truyền vận động
nhân dân thực hiện công tác GPMB, đảm bảo tiến độ cho các nhà thầu thi
cơng.
Cơng tác giải phóng mặt bằng là lĩnh vực rất nhạy cảm, với nhiều tình
huống phức tạp, liên quan đến nhiều người và trong thực tế đã xẩy ra những
“điểm nóng” trong q trình thực hiện. Do đó cấp ủy, chính quyền, mặt trận
và đồn thể các cấp cần phải thực hiện đầy đủ, đồng bộ các nhiệm vụ, giải
pháp để làm tốt cơng tác giải phóng mặt bằng, tạo lập được sự đồng thuận
trong các tầng lớp nhân dân, đảm bảo tật tự an toàn xã hội, góp phần đẩy
nhanh tiến độ các cơng trình, dự án quan trọng, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trước thực trạng đó, đặt ra vấn đề khách quan là chính quyền địa

phương phải tự đổi mới và hồn thiện mình như thế nào? Điều tiết, quản lý và
thực hiện những nội dung, giải pháp nào để phát huy vai trò, hiệu lực, hiệu
quả của mình là những vấn đề cần được nghiên cứu kỹ lưỡng.
Vì những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Tăng cường vai trị chính
quyền địa phương trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư giải phóng
mặt bằng ở huyện Cẩm Xuyên giai đoạn hiện nay” làm luận văn Thạc sĩ
Chính trị học.


8
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đất đai là nguồn Tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản
xuất không thể thay thế được trong sản xuất nông lâm nghiệp, là mặt bằng để
triển khai các cơng trình, dự án trong q trình phát triển kinh tế…. Luật đất
đai năm 1987 được ban hành trong hồn cảnh cơng cuộc đổi mới tồn diện ở
nước ta tiến hành từ năm 1986 đó đạt được những thành tựu ban đầu, trong đó
nổi bật là những thành tựu về kinh tế. Nội dung quản lý nhà nước về đất đai
trong nền KTTT định hướng XHCN đó được nghiên cứu khá toàn diện và
rộng rãi. Tuy nhiên nội dung quản lý nhà nước về đất đai trong điều kiện phát
triển nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế thế giới, trong phạm vi một
huyện cụ thể như Cẩm Xun, Hà Tĩnh, cũng chưa có nhiều cơng trình nghiên
cứu một cách hệ thống và tồn diện.
Ở giác độ nghiên cứu lý luận về quan hệ sở hữu đất đai trong thời kỳ
quá độ lên CNXH, trong điều kiện nền KTTT đó có nhiều cơng trình nghiên
cứu quan trọng công phu của các Bộ, các Viện nghiên cứu, các nhà khoa học
như:
Đề tài nghiên cứu “Cơ sở khoa học cho việc hoạch định các chính sách
đất đai và sử dụng hợp lý quỹ đất đai” - năm 2000, của Tổng cục Địa chính và
Viện nghiên cứu Địa chính, do TS.Chu Văn Thỉnh là chủ nhiệm đề tài;
Đề tài khoa học cấp nhà nước về “Thực trạng vấn đề sở hữu và phương

hướng giải quyết ở nước ta hiện nay” - năm 2005, do PGS.TS Nguyễn Văn
Thạo là chủ nhiệm đề tài;
Đề tài: “Lý luận địa tô và vận dụng để giải quyết một số vấn đề về đất
đai ở Việt Nam” - năm 2005, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ thuộc Bộ Tài
chính do Hà Quý Tình là chủ nhiệm…. Nhìn chung các nghiên cứu đã đề cập
đến nội dung sở hữu toàn dân về đất đai gắn với nền KTTT ở nước ta, với
mục tiêu tìm hiểu cơ sở khoa học, tham mưu cho Nhà nước ban hành các
chính sách đất đai ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên về lý luận,
các nghiên cứu trên cũng cịn có những quan điểm chưa thống nhất như: có


9
một số đề xuất cần xem xét để quy định có nhiều hình thức sở hữu về đất đai,
khi nước ta là thành viên đầy đủ của WTO. Nền KTTT tự nó địi hỏi các
chính sách về quản lý đất đai của Nhà nước phải phù hợp các quy luật của thị
trường, nhằm thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế đất nước; có đề xuất nên có
hai hình thức sở hữu đất đai cơ bản ở nước ta là sở hữu nhà nước và sở hữu tư
nhân, vì quan hệ sở hữu đất đai này đang chiếm ưu thế trên thế giới và nước
ta không nên là một ngoại lệ, khi xác định phát triển nền KTTT có vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay… Quan điểm được thừa nhận
hiện nay, được quy định thành luật là hình thức sở hữu tồn dân về đất đai,
nhưng theo xu hướng mở rộng quyền sử dụng của người sử dụng đất đai tiệm
cận với quyền sở hữu.
Về nội dung đất đai với tính chất là nguồn lực quan trọng của q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, trong điều kiện nền KTTT, cũng đã
được nhiều tổ chức, cá nhân các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu như:
Cơng trình nghiên cứu của GS.TSKH Lê Đình Thắng (ĐH Kinh tế
Quốc dân); GS.TS Nguyễn Đình Hương (ĐH Kinh tế Quốc dân); GS.TSKH
Lê Du Phong (ĐH Kinh tế Quốc dân)… Trong đó có loạt bài nghiên cứu khá
sâu nội dung này của TS.Nguyễn Dũng Tiến (Viện nghiên cứu Địa chính) Ví dụ: Bài báo “Cơng tác địa chính - nhà đất một thời bất cập với thị trường

BĐS”, năm 2006 hoặc bài: “Quan hệ sử dụng hợp lý đất đai khu vực nông
thôn, một biện pháp vừa có tính trước mắt, vừa có tính lâu dài nhằm xố đói
giảm nghèo và phát triển bền vững ở Việt Nam”, năm 2005… Các nghiên
cứu này chủ yếu đề cập đến nội dung phân bổ đất đai cho các ngành kinh tế
và quản lý đất đai sao cho có hiệu quả; trong điều kiện nền kinh tế nước ta
đang phát triển, đất đai là nguồn tài nguyên lớn nhất cần được khai thác một
cách hiệu quả để phục vụ công cuộc phát triển kinh tế của đất nước.
Trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, tốc độ đơ thị hoá mạnh,
phát sinh mâu thuẫn về quyền lợi giữa người sử dụng đất bị thu hồi đất với
quyền lợi của Nhà nước trong các chính sách về bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi


10
đất. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu của nhiều nhà khoa học và nhà quản
lý về xây dựng chính sách đất đai trong quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai ở
nước ta, nhằm góp ý kiến với Nhà nước xây dựng chính sách bồi thường đảm
bảo cơng bằng xã hội, tạo điều kiện thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài
như:
“Một số ý kiến nhằm khắc phục sự trầm lắng của thị trường Bất động
sản giai đoạn hiện nay”, năm 2006 của GS.TS Tô Xuân Dân (Viện nghiên cứu
phát triển kinh tế xã hội);
Báo cáo tham luận với tiêu đề: “Một số vấn đề lý luận về thị trường Bất
động sản” - Hội thảo khoa học “Nghiên cứu thị trường Bất động sản ở Việt
Nam”, năm 2001 của PGS.TS Vũ Văn Phúc (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh);
“Một số suy nghĩ về giá cả ruộng đất và việc đền bù giải phóng mặt
bằng trong quy hoạch xây dựng” - Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số tháng 9
năm 2001 của GS.TS Phạm Quang Phan (ĐH Kinh tế Quốc dân);
Về nội dung quản lý nhà nước về đất đai trong thị trường bất động sản,
cũng đã được nhiều nhà khoa học, nhiều tổ chức quan tâm nghiên cứu và đạt

được nhiều thành tựu quan trọng. Viện Nghiên cứu Địa chính thuộc Bộ Tài
nguyên và Môi trường đã tổ chức hai cuộc hội thảo lớn ở thành phố Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2006 với tiêu đề: “Địa chính với thị
trường bất động sản, lý luận và thực tiễn ở Việt Nam”. Đã có nhiều ý kiến
tham gia với Nhà nước nhằm bĩnh ổn giá đất và phát triển thị trường bất động
sản ở nước ta, như:
Các nghiên cứu của TS. Phạm Sỹ Liêm (Hội xây dựng Việt Nam); GS.
TSKH Lê Đình Thắng (ĐH Kinh tế Quốc dân); PGS.TS Nguyễn Đình Kháng
(Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh)… trong đó có đề tài nghiên cứu
cấp Bộ do TS. Trần Kim Chung là chủ nhiệm với tiêu đề: “Môi trường đầu tư
bất động sản ở Việt Nam - Cơ sở lý luận, thực trạng và giải pháp” - năm
2006, đề cập khá tồn diện. Vì vậy luận văn tiếp cận vấn đề ''Tăng cường vai


11
trị chính quyền địa phương trong cơng tác bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư giải phóng mặt bằng ở huyện Cẩm Xuyên giai đoạn hiện nay” dưới góc
độ khoa học chính trị khơng trùng lặp với các cơng trình khoa học đã được
cơng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về vai trị của chính quyền địa
phương, đề xuất phương hướng và các giải pháp nâng cao vai trị chính quyền
địa phương trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư giải phóng mặt
bằng ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về vai trị chính quyền địa phương
ở Việt Nam.
- Phân tích thực trạng vai trị của chính quyền địa phương trong cơng
tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư giải phóng mặt bằng ở huyện Cẩm

Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
- Đề xuất một số định hướng, giải pháp tăng cường vai trò chính quyền
địa phương trong cơng tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư giải phóng mặt
bằng ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Vận dụng lý luận và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác Lênin, các quan niệm, cách nhìn nhận về chính quyền địa phương, vai trị của
chính quyền địa phương trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao; một số lý
thuyết của khoa học kinh tế và khoa học chính trị hiện đại cũng như một số
kinh nghiệm thực tiễn... để lý giải những vấn đề thực tiễn đặt ra.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác - Lênin.


12
Quan điểm, lý luận của Đảng và Nhà nước về vai trị của chính quyền
địa phương.
Bên cạnh đó, cịn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phương
pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp, so sách, dẫn chiếu để luận giải, chứng
minh cho các nhận xét đánh giá.
5. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
Vai trị của chính quyền địa phương trong công tác bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư giải phóng mặt bằng.
Việc thực thi vai trị của chính quyền địa phương trong cơng tác bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư giải phóng mặt bằng ở huyện Cẩm Xuyên từ
2005 đến nay.
6. Đóng góp của luận văn
Góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận về vai trị của chính quyền địa
phương trong cơng tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư giải phóng mặt bằng

ở nước ta hiện nay.
Các giải pháp mà luận văn đề xuất góp phần cung cấp thêm luận cứ,
luận chứng cho công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư giải phóng mặt
bằng của chính quyền huyện Cẩm Xun, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn được kết cấu thành 3 chương.


13
B. NỘI DUNG
Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRỊ CHÍNH QUYỀN ĐỊA
PHƢƠNG TRONG CÔNG TÁC BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ VÀ
TÁI ĐỊNH CƢ GIẢI PHĨNG MẶT BẰNG
1.1. Chính quyền địa phƣơng trong Hiến pháp năm 2013
1.1.1. Nội dung chính quyền địa phương trong Hiến pháp
Việc ban hành Hiến pháp (sửa đổi), gọi là Hiến pháp năm 2013 quy
định về chính quyền địa phương tại Chương IX có 7 điều, từ điều 110 đến
điều 116. Hiến pháp năm 2013 kế thừa Hiến pháp năm 1992, có sửa đổi, bổ
sung, phát triển một số quy định về tổ chức và hoạt động của HĐND và
UBND, đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước ta trong tình hình mới.
Chương IX - Chính quyền địa phương là một trong những nội dung
nhận được sự quan tâm lớn của nhân dân cả nước, đồng thời cũng là Chương
nhận được nhiều ý kiến góp ý nhất của các tầng lớp nhân dân, các cơ quan, tổ
chức trong quá trình xây dựng, sửa đổi Hiến pháp. Chương chính quyền địa
phương đã đánh dấu những thay đổi lớn của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến
pháp năm 1992, đã làm rõ hơn tính chất của hệ thống cơ quan công quyền ở
địa phương trong mối quan hệ với Trung ương, thể hiện tính gắn kết, mối
quan hệ chặt chẽ giữa HĐND, UBND trong chính thể của chính quyền địa

phương; đồng thời, cũng quy định một cách tổng quát về phân chia đơn vị
hành chính.
Trên thực tế, thuật ngữ “chính quyền địa phương” đã được sử dụng
tương đối rộng rãi và phổ biến trong các văn kiện của Đảng, các văn bản pháp
luật của Nhà nước, các sách báo chính trị pháp lý, cũng như các bài phát biểu
của lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta ở Trung ương và địa phương. Hiến pháp
năm 2013 đã đổi tên gọi từ HĐND và UBND (trong Hiến pháp năm 1992)
thành chính quyền địa phương. Đây là sự thay đổi hợp lý, phù hợp với lịch sử


14
lập hiến cũng như các văn bản khác của Đảng và Nhà nước ta. Mặt khác, từ
thực tiễn hoạt động của hai cơ quan này cho thấy: HĐND và UBND mặc dù
là hai cơ quan có vị trí và tính chất khác nhau, nhưng được tổ chức và hoạt
động trên cùng một địa bàn, một cấp hành chính. Do đó, hai cơ quan này có
mối quan hệ chặt chẽ về mặt tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Cũng
vì thế, việc đổi tên này khơng phải là hình thức, mà nó đặt ra yêu cầu phải đổi
mới thực sự về mơ hình tổ chức cũng như chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của chính quyền địa phương theo hướng: Bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ hơn
giữa HĐND và UBND; tạo không gian tự chủ, tự chịu trách nhiệm cao hơn
cho chính quyền địa phương; khẳng định rõ nét hơn vị trí của chính quyền địa
phương trong hệ thống hành chính thống nhất của đất nước.
Hiến pháp năm 2013 kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 về các
đơn vị hành chính nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, ổn định trong cấu
trúc hành chính ở nước ta; đồng thời, bổ sung quy định về đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt, đơn vị hành chính tương đương với quận, huyện, thị xã thuộc
thành phố trực thuộc Trung ương. Theo đó, nước chia thành tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương; tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh;
thành phố trực thuộc Trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị
hành chính tương đương; huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố
thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường; đơn vị hành

chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập (Điều 110). Bổ sung quy định
“Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính
phải lấy ý kiến nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật định”
(khoản 2 Điều 110). Từ các quy định trên, có thể nhận thấy một số điểm mới
như sau:
Thứ nhất, Hiến pháp đã sử dụng thuật ngữ “đơn vị hành chính tương
đương” với quận, huyện, thị xã trong thành phố trực thuộc Trung ương. Đây
là ý tưởng mới trên cơ sở tiếp thu ý kiến của đông đảo đại biểu Quốc hội và
nhân dân, mở ra khả năng cho việc thành lập các đơn vị hành chính mới nhằm


15
tăng khả năng dự báo và tính ổn định của Hiến pháp trong việc đáp ứng nhu
cầu khách quan của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Với cách quy định
mở về đơn vị hành chính, Hiến pháp mới đã tạo điều kiện việc đưa ra tên gọi
mới cho đơn vị hành chính trong thành phố trực thuộc Trung ương, ví dụ như
“thành phố” trong “thành phố trực thuộc Trung ương”. Theo đó, cách quy
định về đơn vị hành chính “thành phố trong thành phố” sẽ khơng bị xem là vi
hiến trong các văn bản pháp luật sau này.
Thứ hai, Điều 110 Hiến pháp năm 2013 bổ sung quy định “Đơn vị hành
chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập”. Thực chất, vấn đề này cũng
đã được đề cập trong Hiến pháp năm 1992. Đây là quy định được bổ sung trên
cơ sở ý kiến đề xuất của các đại biểu Quốc hội, các cơ quan, tổ chức (nhất là ý
kiến đề xuất của Chính phủ) và các địa phương, nhằm đáp ứng nhu cầu thiết
lập các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt đang đặt ra ở một số địa phương
như huyện đảo Phú Quốc tỉnh Kiên Giang hay huyện Vân Đồn tỉnh Quảng
Ninh...
Thứ ba, tại Điều 110 Hiến pháp năm 2013 bổ sung quy định: “Việc
thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy
ý kiến nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật định”. Thực tiễn

cho thấy, việc chia tách, sát nhập đơn vị hành chính lãnh thổ của nước ta
trong thời gian qua ở các cấp diễn ra rất phổ biến nên đã có lúc dẫn đến hoặc
làm tăng đầu mối đơn vị hành chính và làm tăng tổ chức bộ máy, biên chế
cơng chức và tài chính cơng... hoặc hao tổn rất nhiều chi phí quốc gia để làm
việc này... dẫn đến suy giảm hiệu quả quản lý Nhà nước nói chung và cải cách
hành chính hiện nay. Để tránh tình trạng nhập, tách, chia, điều chỉnh địa giới
hành chính một cách dễ dãi, thiếu căn cứ, tiêu chí minh bạch, cơng khai, đặc
biệt là thiếu sự tham gia ý kiến có tính quyết định của nhân dân đã diễn ra
trong thực tế vừa qua ở nước ta, Hiến pháp năm 2013 đã quy định việc thành
lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính phải lấy ý kiến nhân
dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật định. Có thể nói, việc hiến


16
định rõ hơn về thẩm quyền, tiêu chí, điều kiện, thủ tục thành lập mới, sát
nhập, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính của Hiến pháp mới góp phần bảo
đảm tính ổn định của các đơn vị hành chính hiện nay. Đồng thời, quy định
này cũng nhằm bảo đảm thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân quy
định tại Điều 6 Hiến pháp năm 2013. Bên cạnh đó, quy định mới này cũng đặt
ra nhiệm vụ cho Chính phủ phải gấp rút nghiên cứu và soạn thảo các quy định
ở tầm luật để trình Quốc hội ban hành về trình tự, thủ tục thành lập, giải thể,
nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính trong đó nhất thiết phải có
việc lấy ý kiến nhân dân địa phương.
1.1.2. Tổ chức chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính
Theo Điều 118 Hiến pháp năm 1992, “Việc thành lập HĐND và
UBND ở các đơn vị hành chính do luật định”. Thực tế, các đạo Luật tổ chức
HĐND và UBND (năm 1994 và 2003) đều quy định: Mọi đơn vị hành chính
đều tổ chức HĐND và UBND. Mơ hình tổ chức này đã gây nên sự cồng kềnh,
trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ giữa HĐND và UBND các cấp, khơng có
sự phân biệt giữa mơ hình tổ chức chính quyền địa phương ở nơng thơn, đơ

thị và hải đảo. Hiến pháp năm 2013 quy định như sau: Chính quyền địa
phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND được
tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thơn, đơ thị, hải đảo, đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt do luật định (Điều 111).
Với quy định trên, đơn vị hành chính nào cũng có chính quyền. Tuy
nhiên, cần phải hiểu rõ rằng: Không phải ở tất cả các đơn vị hành chính, chính
quyền địa phương được tổ chức giống nhau.
Với khái niệm này, cho phép chúng ta phân biệt rõ giữa cách phân chia
đơn vị hành chính để quản lý với mơ hình tổ chức quản lý ở từng đơn vị hành
chính. Khơng phải một đơn vị hành chính là một cấp chính quyền. Cấp chính
quyền được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị


17
hành chính - kinh tế đặc biệt. Ở đâu được coi là cấp chính quyền thì chính quyền
ở đó bao gồm HĐND và UBND; cịn ở đâu khơng được coi là cấp chính quyền
thì sẽ có cơ quan hành chính thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính và dịch vụ
cơng tại địa bàn. Vì vậy, Điều 111 Hiến pháp năm 2013 đã đưa ra khái niệm
“cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND”, cấp chính quyền có ở
những đơn vị hành chính nào sẽ do luật định, phù hợp với “đặc điểm nông thôn,
đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt”.
Như vậy, Hiến pháp năm 2013 đã mở ra những khả năng để luật quy
định và khắc phục những bất cập trong tổ chức chính quyền địa phương theo
Hiến pháp năm 1992, đồng thời, đổi mới một bước quan trọng tổ chức chính
quyền địa phương.
1.1.3. Về vai trị, chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương
Hiến pháp năm 1992 khơng có điều khoản riêng quy định về vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương mà nội dung này được thể hiện
thông qua các quy định về thẩm quyền của HĐND và UBND. Hiến pháp năm
2013 đã thay đổi cách tiếp cận khi bổ sung một điều mới (Điều 112) quy định về

vai trò, chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, khoản 1 của Điều 112 khẳng định rõ chính quyền địa phương
có hai loại nhiệm vụ được phân biệt với nhau: Nhiệm vụ tổ chức và bảo đảm
việc thi hành Hiến pháp, pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của
địa phương do luật định.
Trong một Nhà nước đơn nhất như nước ta, nhiệm vụ cơ bản, hàng đầu
của chính quyền địa phương là tổ chức và bảo đảm thực hiện Hiến pháp, pháp
luật tại địa phương. Đồng thời, chính quyền địa phương thực hiện các nhiệm
vụ xuất phát từ tính đặc thù của địa phương. Đây là quy định thể hiện nhiệm
vụ có tính tự quản cao của chính quyền địa phương, nhằm phát huy lợi thế của
mỗi địa phương trên thực tế.


18
Thứ hai, khoản 2 Điều 112 quy định rõ “Nhiệm vụ, quyền hạn của
chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa
các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính
quyền địa phương”. Có thể nói, đây là một định hướng quan trọng trong việc
thiết kế cơ chế điều chỉnh mối quan hệ giữa chính quyền địa phương và chính
quyền Trung ương (cũng như giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau)
trong thời gian tới. Chỉ có trên cơ sở phân định rõ thẩm quyền của mỗi cấp
chính quyền theo tinh thần phân cấp mạnh mẽ thì cơ chế xác định trách
nhiệm, bảo đảm tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền
cũng như thực hiện việc kiểm sốt quyền lực mới có hiệu quả.
Thứ ba, khoản 3 Điều 112 quy định: “Trong trường hợp cần thiết, chính
quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà
nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó”. Trên thực tế
rất nhiều nhiệm vụ của Trung ương được giao cho địa phương thực hiện,
nhưng chỉ giao việc mà không kèm theo các điều kiện để thực hiện cơng việc,
do đó, gây rất nhiều khó khăn cho địa phương. Quy định tại khoản 3 Điều 112

của Hiến pháp tạo cơ sở hiến định giải quyết nhiều khó khăn của các địa
phương hiện nay.
- Quy định về Hội đồng nhân dân: Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế thừa
các quy định về HĐND trong Hiến pháp năm 1992. Theo đó, khoản 1 Điều
113 tiếp tục quy định: “HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương,
đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương,
do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương
và cơ quan Nhà nước cấp trên”. Khoản 2 Điều 113 quy định rõ chức năng và
nhiệm vụ của HĐND địa phương. HĐND thực hiện hai loại chức năng là
“quyết định” và “giám sát”:
HĐND quyết định các vấn đề của địa phương do luật định;
HĐND giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và
việc thực hiện Nghị quyết của HĐND.


19
Như vậy, HĐND sẽ quyết định chính sách địa phương về việc thực
hiện công vụ địa phương; đồng thời giám sát việc thực hiện các chính sách
này. Trong khi đó, đối với các công vụ của Trung ương giao cho chính quyền
địa phương thực hiện thì HĐND có trách nhiệm giám sát việc triển khai công
việc này. Cách quy định như trên là phù hợp với những điểm mới trong quy
định tại Điều 112 về chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương.
- Quy định về Ủy ban nhân dân: Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế thừa
các quy định về UBND trong Hiến pháp năm 1992 theo hướng: Ở cấp chính
quyền nào có HĐND thì UBND ở nơi ấy phải do HĐND bầu ra và được xác
định là “cơ quan chấp hành của HĐND”, “cơ quan hành chính Nhà nước ở địa
phương”. Cụ thể, theo quy định tại Điều 114 Hiến pháp năm 2013, “UBND ở
cấp chính quyền địa phương do HĐND cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành
của HĐND, cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm
trước HĐND và cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên.” Tuy nhiên, quy định

về UBND trong Hiến pháp mới cũng thể hiện sự đổi mới theo hướng: Ở
những đơn vị hành chính khơng được xác định là một cấp chính quyền địa
phương, thì cơ quan quản lý hành chính ở nơi đó được thành lập như thế nào
là do luật định. Về chức năng, nhiệm vụ của UBND, khoản 2 Điều 114 tiếp
tục quy định “UBND tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa
phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của HĐND”, đồng thời, có bổ sung
nhiệm vụ “thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan Nhà nước cấp trên giao.”
1.2. Tăng cƣờng vai trị của chính quyền địa phƣơng trong cơng tác
bồi thƣờng, hỗ trợ, tái định cƣ giải phóng mặt bằng là một yêu cầu khách
quan trong bối cảnh hiện nay
1.2.1. Chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai và cơ quản quản lý đất đai
Theo quy định tại Điều 5 Luật Đất đai năm 2003 thì đất đai thuộc sở
hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Nhà nước thực hiện quyền
định đoạt đối với đất đai như sau:


20
- Quyết định mục đích sử dụng đất thơng qua việc quyết định, xét duyệt
quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất (sau đây gọi chung là quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất);
- Quy định về hạn mức giao đất và thời hạn sử dụng đất;
- Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục
đích sử dụng đất;
- Định giá đất.
Qua đó Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai
thơng qua các chính sách tài chính về đất đai như sau: Thu tiền sử dụng đất,
tiền thuê đất; thu thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng
đất; điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của người sử
dụng đất mang lại.
Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thơng qua hình

thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang
sử dụng đất ổn định; quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định căn cứ xác lập quyền sử
dụng đất như sau:
- Đất đai thuộc hình thức sở hữu Nhà nước, do Chính phủ thống nhất
quản lý;
- Quyền sử dụng đất của cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác
được xác lập do Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử
dụng đất;
- Quyền sử dụng đất của cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác
cũng được xác lập do được người khác chuyển quyền sử dụng đất phù hợp
với quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai.
Ngày 28-11-2013, Quốc hội nước ta đã thông qua Hiến pháp mới. Điều
53 Hiến Pháp đã khẳng định rõ: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng


21
sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài
sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Trên cơ sở Hiến pháp, ngày
29-11-2013, Quốc hội đã thông qua Luật Đất đai. Điều 4, Luật Đất đai quy
định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và
thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất
theo quy định của luật này”.
Việc thể chế hóa chế độ sở hữu tồn dân về đất đai trong Hiếp pháp và
Luật Đất đai đã nhận được sự đồng tình, nhất trí cao trong nhân dân. Tuy
nhiên, một vài ý kiến cho rằng sở hữu toàn dân về đất đai là một khái niệm
“mơ hồ”, “tù mù”, người dân khơng có thực quyền gì đối với đất đai… Ý kiến
trên dựa trên những lập luận cho rằng: Đã là chủ sở hữu thì đó phải là một chủ
thể, một pháp nhân cụ thể có tư cách pháp nhân, cịn “tồn dân” khơng thể là

một khái niệm kinh tế để thực thể đó có thể sở hữu một cái gì đó; là sự đánh
tráo khái niệm “sở hữu nhà nước về đất đai”...
Trước hết, cần khẳng định rằng, sở hữu tồn dân về đất đai khơng phải
là khái niệm “mơ hồ”, “tù mù”, người dân khơng có thực quyền gì đối với đất
đai. Bởi vì, sở hữu tồn dân về đất đai khơng đồng nhất với sở hữu Nhà nước
về đất đai. Sở hữu toàn dân về đất đai phải được hiểu là đất đai không thuộc
sở hữu của riêng ai, toàn thể nhân dân là chủ sở hữu đối với đất đai, Nhà nước
là đại diện chủ sở hữu và được giao nhiệm vụ thống nhất quản lý. Việc quy
định Nhà nước ở nước ta là đại diện chủ sở hữu đất đai và thống nhất quản lý
xuất phát từ bản chất của Nhà nước là nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước
của dân do dân và vì dân, mọi tài sản, tư liệu sản xuất do Nhà nước đại diện
cho dân là chủ sở hữu đều được sử dụng vào mục đích phục vụ lợi ích chung
của tồn thể nhân dân. Đồng thời, thực hiện chế độ sở hữu tồn dân về đất đai
khơng làm hạn chế đến quyền của tổ chức, cá nhân sử dụng đất. Vì Luật Đất
đai (Điều 166, 167) quy định người sử dụng đất có các quyền chung và các


22
quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho,
thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất.
Việc thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở nước ta hiện nay
còn tránh được những hậu quả do chế độ sở hữu tư nhân đất đai gây ra.
Nghiên cứu sản xuất nông nghiệp, trực tiếp là địa tô trong nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa, Các Mác và sau đó là V.I.Lênin đã chỉ ra tính chất vơ lý của chế độ
sở hữu tư nhân về ruộng đất, nguồn gốc đẻ ra địa tô, làm cho giá cả nơng
phẩm tăng, kìm hãm sự phát triển của nơng nghiệp. Để khắc phục tình trạng
này, V.I.Lênin đã chủ trương phải quốc hữu hố đất đai, xóa bỏ chế độ sở hữu
tư nhân về đất đai, thay vào đó là chế độ cơng hữu về đất đai.
Đối với nước ta, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, chế độ sở hữu
phong kiến về đất đai mà hình thức sở hữu đặc trưng là sở hữu tư nhân về đất

đai đã kìm hãm sự phát triển nơng nghiệp và dẫn đến tình cảnh đại đa số nơng
dân khơng có ruộng đất, phải thuê lại của địa chủ, phong kiến nên bị bóc lột
địa tơ rất nặng nề. Do vậy, việc xóa bỏ chế độ sở hữu phong kiến về đất đai là
một trong những mục tiêu của cách mạng nước ta do nhân dân ta tiến hành
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ở nước ta hiện nay, thực hiện chế độ sở hữu tư
nhân về đất đai, một mặt sẽ là phủ nhận thành quả cách mạng của nhân dân ta
giành được trải qua q trình đấu tranh vơ cùng gian khổ với bao sự hy sinh,
mất mát của các thế hệ chiến sĩ cách mạng Việt Nam; mặt khác, sẽ tạo ra tiền
đề, cơ hội dẫn đến sự xuất hiện tầng lớp địa chủ mới - giai cấp từng gây bao
đau khổ cho nông dân nước ta trước đây. Chỉ có thực hiện chế độ sở hữu tồn
dân về đất đai, chúng ta mới xóa bỏ tình trạng một nhóm người dùng độc
quyền sở hữu đất đai để bóc lột người sử dụng đất.
Mặc dù hiện nay, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản
xuất, nhiều thành phần kinh tế, song cũng không thể thực hiện đa hình thức sở
hữu về đất đai. Bởi vì đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt và có hạn; là tài
nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là nguồn sống của nhân dân, là tài sản,


23
nguồn lực to lớn của đất nước, không giống như các tư liệu sản xuất, tài sản
thông thường khác. Do đó, đất đai phải thuộc sở hữu tồn dân do Nhà nước
đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo quy định của pháp luật thì việc
khai thác, sử dụng đất đai mới bảo đảm hiệu quả cao, nhằm phục vụ đắc lực
cho phát triển kinh tế - xã hội, cũng cố quốc phòng, an ninh của đất nước.
Trong thời gian qua, ở nước ta nảy sinh một số tiêu cực, hạn chế trong
quản lý, sử dụng đất đai, song những hạn chế, tiêu cực đó khơng phải do bản
chất của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai gây ra. Những hạn chế, tiêu cực đó
một mặt, do sự yếu kém trong quản lý đất đai của Nhà nước ta, chính sách đất
đai thay đổi qua nhiều thời kỳ, đến nay, chủ trương, chính sách, pháp luật về

đất đai còn một số nội dung chưa đủ rõ, chưa phù hợp; tổ chức bộ máy, năng
lực đội ngũ cán bộ về quản lý đất đai cịn khơng ít hạn chế, yếu kém, một bộ
phận còn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi, tham nhũng; mặt khác, do
nước ta trải qua nhiều thời kỳ, giai đoạn lịch sử khác nhau, đất đai có nguồn
gốc rất phức tạp. Từ thực trạng đó, Luật Đất đai năm 2013 đã có những điều
chỉnh, bổ sung để việc quản lý, sử dụng đất đai chặt chẽ, hiệu quả hơn, hạn
chế nảy sinh những tiêu cực, hạn chế.
Từ những vấn đề trên cho thấy, việc quy định đất đai là tài sản cơng
thuộc sở hữu tồn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý
theo quy định của pháp luật trong Luật Đất đai năm 2013 trên cơ sở Hiến
pháp là cần thiết và đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh nước ta hiện
nay, bảo đảm sự thống nhất lợi ích của người dân và lợi ích quốc gia.
Điều 7 Luật đất đai đã xác định rõ Nhà nước thực hiện quyền đại diện
chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý Nhà nước về đất đai,
trong đó quy định HĐND các cấp thực hiện quyền giám sát việc thi hành
pháp luật về đất đai tại địa phương, UBND các cấp thực hiện quyền đại diện
chủ sở hữu về đất đai và quản lý Nhà nước về đất đai tại địa phương theo
thẩm quyền quy định tại Luật này.


24
1.2.2. Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư giải phóng mặt
bằng
Bồi thường
Bồi thường thiệt hại được hiểu là việc bù đắp bằng tiền hoặc bằng hiện
vật những thiệt hại về đất đai, nhà cửa, thu nhập và các tài sản khác do tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp của dự án. Trong quá trình Nhà nước thu hồi đất,
người bị thu hồi đất không chỉ bị thiệt hại về đất mà còn bị thiệt hại về các tài
sản gắn liền với đất như các cơng trình kiến trúc, cây cối, hoa màu... Vì vậy
bồi thường thiệt hại khơng chỉ bồi thường về đất mà cịn bồi thường thiệt hại

cả về tài sản gắn liền trên đất.
Bồi thường thiệt hại GPMB có thể được hiểu là việc chi trả, bù đắp,
những tổn thất về đất đai, những chi phí tháo dỡ, di chuyển nhà cửa, vật kiến
trúc, cơng trình hạ tầng kỹ thuật, cây cối, hoa màu, mồ mả và chi phí để ổn
định đời sống sản xuất, chuyển đổi nghề nghiệp cho người sử dụng đất đai, sở
hữu tài sản trên đất khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc
phịng, an ninh lợi ích quốc gia, lợi ích cơng cộng.
Hỗ trợ
Hỗ trợ là giúp đỡ nhau, giúp thêm vào. Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất thông qua đào tạo nghề mới, bố
trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa điểm mới.
Tái định cư
Tái định cư là việc di chuyển đến một nơi khác với nơi ở trước đây để
sinh sống và làm ăn. Tái định cư bắt buộc đó là sự di chuyển khơng thể trách
khỏi khi Nhà nước thu hồi hoặc trưng thu đất đai để thực hiện các dự án phát
triển.
Tái định cư được hiểu là một quá trình từ bồi thường thiệt hại về đất, tài
sản, di chuyển đến nơi ở mới và các hoạt động hỗ trợ để xây dựng lại cuộc
sống, thu nhập, cơ sở vật chất, tinh thần tại đó. Như vậy, Tái định cư là hoạt


25
động nhằm giảm nhẹ các tác động xấu về kinh tế - xã hội đối với một bộ phận
dân cư đã gánh chịu vì sự phát triển chung.
Giải phóng mặt bằng
Giải phóng mặt bằng là q trình thực hiện các công việc liên quan đến
việc di dời nhà cữa, cây cối, các cơng trình xây dựng và một bộ phận dân cư
trên một phần đất nhất định được quy hoạch cho việc cải tạo, mở rộng hoặc
xây dựng một công trình mới.
Q trình GPMB được tính từ khi bắt đầu hình thành Hội đồng giải

phóng mặt bằng đến khi giải phóng xong và giao cho chủ đầu tư mới. Đây là
một quá trình đa dạng và phức tạp thể hiện sự khác nhau giữa các dự án và
liên quan đến lợi ích trực tiếp của các bên tham gia và cả của xã hội.
Cơng tác GPMB mang tính quyết định đến tiến độ của các dự án, là
khâu đầu tiên thực hiện dự án. Trong đó bồi thường thiệt hại là khâu quan
trọng quyết định tiến độ giải phóng mặt bằng.
Theo từ điển tiếng việt thì đền bù có nghĩa là: “trả lại đầy đủ hoặc
tương xứng với mất mát hoặc sự vất vã” điều đó có nghĩa là: Khơng phải mọi
khoản đền bù đều bằng tiền; sự mất mát của người bị thu hồi đất không chỉ là
về mặt vật chất mà nhiều trường hợp còn mất mát cả về tinh thần nhất là khi
phải tái định cư; về mặt hành chính thì đây là một q trình khơng tự nguyện,
có tính cưỡng chế và vẫn địi hỏi sự “hy sinh”. Không chỉ là một sự đền bù
ngang giá tuyệt đối.
Từ những nhận thức trên có thể hiểu bản chất của cơng tác đền bù giải
phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất phục vụ mục đích an ninh, quốc
phịng, lợi ích quốc gia, lợi ích cơng cộng trong q trình hiện nay khơng chỉ
đơn thuần là sự đền bù về mặt vật chất mà còn phải đảm bảo lợi ích của người
dân phải di chuyển. Đó là họ phải có được chỗ ở ổn định, điều kiện sống bằng
hoặc tốt hơn nơi cũ, nhưng chắc chắn phải tốt hơn nơi cũ về mọi mặt thì mới
tạo điều kiện cho người dân sống và ổn định.


×