Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên các trường trung học phổ thông huyện nga sơn, tỉnh thanh hóa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (882 KB, 104 trang )

-1-

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH
------------------

PHẠM XUÂN DINH

BỒI DƢỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN CÁC TRƢỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THƠNG HUYỆN NGA SƠN,
TỈNH THANH HĨA HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Bùi Văn Dũng

NGHỆ AN – 2014


-2-

LỜI CẢM ƠN
Trong q trình thực hiện đề tài, tơi đã nhận được sự quan tâm của
nhiều đơn vị, thầy cô và đồng nghiệp.
Tôi xin bày tỏ sự tri ân sâu sắc tới TS. Bùi Văn Dũng, Trưởng khoa
Kinh tế trường Đại học Vinh, đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ trong suốt q
trình thực hiện đề tài.
Tơi xin trân trọng cảm ơn: Ban Giám hiệu, Phòng đào tạo Sau đại học,
Khoa Giáo dục Chính trị trường Đại học Vinh, quý thầy, cô giáo tham gia


giảng dạy lớp cao học chun ngành Chính trị học khố XX tại trường Đại
học Vinh đã dành cho cho chúng tôi nhiều chỉ dẫn khoa học quý báu.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn: Ban Giám đốc Sở Giáo dục và Đào
tạo Thanh Hoá, Ban Thường vụ Huyện uỷ Nga Sơn, các trường trung học phổ
thơng huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hố; bạn bè, đồng nghiệp đã nhiệt tình hỗ
trợ, tạo điều kiện thuận lợi và động viên khích lệ trong suốt q trình thực
hiện luận văn.
Nghệ An, tháng 10 năm 2014
Tác giả luận văn

Phạm Xuân Dinh


-3-

MỤC LỤC
Trang

A.

MỞ ĐẦU................................................................................................................................

5

B.

NỘI DUNG..........................................................................................................................

15


Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của việc bồi dƣỡng lý luận chính trị
cho cán bộ, đảng viên trƣờng trung học phổ thông...............................

15

1.1. Những vấn đề chung về lý luận chính trị.............................................................

15

1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên.................................

24

1.3. Bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên trường trung học
phổ thông là yêu cầu khách quan trong tình hình hiện nay……............

30

Chƣơng 2: Thực trạng cơng tác bồi dƣỡng lý luận chính trị cho
cán bộ, đảng viên các trƣờng trung học phổ thông huyện Nga
Sơn, tỉnh Thanh Hóa hiện nay.............................................................................

41

2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Nga Sơn, tỉnh
Thanh Hóa............................................................................................................................

41


2.2. Tình hình cơng tác bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên
các trường trung học phổ thông huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá.........

44

Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp nâng cao hiệu quả bồi
dƣỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên các trƣờng trung
học phổ thông huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa hiện nay…………

65

3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả bồi dưỡng lý luận chính trị cho
cán bộ, đảng viên các trường trung học phổ thông huyện Nga Sơn,
tỉnh Thanh Hóa...................................................................................................................

65


-4-

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ,
đảng viên các trường trung học phổ thơng huyện Nga Sơn, tỉnh
Thanh Hóa hiện nay.........................................................................................................

69

C. KẾT LUẬN…........................................................................................................................ 90
D. DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ …..................……

93


E. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................... 94
F. PHỤ LỤC…............................................................................................................................ 98


-5-

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lý luận chính trị có tầm quan trọng đặc biệt trong cơng tác cán bộ của
Đảng. Cán bộ là gốc của cách mạng và lý luận chính trị là nền tảng của cái
gốc đó. Lý luận chính trị là kinh nghiệm thực tiễn chính trị đã được khái quát
trong ý thức hệ giai cấp, thể hiện thái độ và lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Thực tiễn chính trị ln thay đổi và thích ứng với sự thay đổi đó, lý luận
chính trị cũng phải thay đổi theo. Do đó, giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng lý luận
chính trị cho đội ngũ cán bộ là việc làm tất yếu. Đảng ta muốn hoàn thành
trọng trách tiên phong dẫn dắt dân tộc đến độc lập, nhân dân ấm no hạnh phúc
phải có lý luận chính trị mở đường. Lý luận chân chính, đúng đắn, phù hợp sẽ
là cẩm nang để cán bộ, đảng viên khám phá, sáng tạo, định hướng và chỉ đạo
hoạt động thực tiễn.
Nhận thức được tầm quan trọng của lý luận chính trị đối với cán bộ,
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn quan tâm, chăm lo giáo dục, bồi
dưỡng lý luận chính trị. Làm cho mỗi cán bộ, đảng viên nắm vững lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng, tinh hoa
tri thức lý luận chính trị của nhân loại, vận dụng phù hợp trong từng giai đoạn
cách mạng, đưa cách mạng không ngừng tiến lên. Văn kiện Đại hội XI của
Đảng xác định: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa
tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng, tuyên truyền
học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước... Mỗi cán bộ, đảng viên phải

học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị” [10; 256 - 257].
Bối cảnh hiện nay, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên
nói chung, cho cán bộ, đảng viên, giáo viên ngành giáo dục nói riêng lại càng
có ý nghĩa quan trọng và cần thiết. Nguồn nhân lực, nguồn cán bộ, đảng viên


-6-

mà giáo dục tạo ra cho đất nước phụ thuộc vào năng lực chuyên môn, năng
lực tư duy lý luận của đội ngũ người thầy. Trong xu thế đổi mới căn bản toàn
diện giáo dục theo phương châm chuyển từ dạy nhiều, học nhiều sang dạy và
học những gì cơ bản nhất, cần thiết nhất, hữu dụng nhất; từ đánh giá chất
lượng đầu vào sang đánh giá chất lượng đầu ra; từ kiểm tra kiến thức sang
đánh giá năng lực đòi hỏi mỗi nhà giáo của các cơ sở giáo dục phải có cách
nhìn nhận thấu đáo, suy ngẫm nghiêm túc, tìm tịi, khảo nghiệm những cách
làm hay, hiệu quả ở mỗi lĩnh vực cơng tác, góp phần làm sống động mục tiêu,
quan điểm, chủ trương của Đảng. Thực tiễn đó đặt ra phải nâng cao hơn nữa
chất lượng và hiệu quả bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục. Bởi chính những tri thức lý luận chính trị mà cán bộ,
đảng viên tiếp thu được sẽ góp phần hình thành thế giới quan khoa học, nhân
sinh quan cộng sản, năng lực tư duy biện chứng.
Hiện nay, đội ngũ nhà giáo ở các trường trung học phổ thông huyện
Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa có tình trạng q chú trọng về trình độ chun mơn
mà ít chú tâm đến chất lượng lý luận chính trị, đến phẩm chất đạo đức, lối
sống. Đội ngũ cán bộ, đảng viên làm việc chủ yếu theo thói quen, kinh
nghiệm. Trong khi đó, cơng tác tun truyền, bồi dưỡng lý luận chính trị
mang tính hình thức, chiếu lệ, nặng về sách vở. Các phương tiện hỗ trợ giảng
dạy, tun truyền cịn nghèo nàn. Cơng tác đánh giá, bổ nhiệm cán bộ chưa coi
trọng trình độ lý luận chính trị... Vì vậy, đội ngũ cán bộ, đảng viên các trường
trung học phổ thông huyện Nga Sơn chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất

lượng giáo dục, nhất là chất lượng giáo dục cao. Xuất phát từ thực tế đó, chúng
tơi chọn vấn đề “Bồi dƣỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên các
trƣờng trung học phổ thơng huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa hiện nay”
làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học.


-7-

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nhận thức được tầm quan trọng của lý luận chính trị và vai trị của lý
luận chính trị đối với cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay, đã có nhiều
Chỉ thị, Nghị quyết, các cơng trình nghiên cứu.
- Các văn kiện của Đảng và Nhà nước
Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa IX) đã
ra Nghị quyết: Nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình
hình mới [7]. Đây là những vấn đề cơ bản, vừa cấp bách được Ban Chấp hành
Trung ương chọn lựa, thảo luận và lần đầu tiên ra Nghị quyết chuyên đề nhằm
tập trung đánh giá tình hình tư tưởng, lý luận sau 15 năm đổi mới và xác định
những nhiệm vụ chủ yếu, các giải pháp lớn, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi cấp bách
của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương Năm (Khóa IX), nhiều
vấn đề thực tiễn nảy sinh, Hội nghị Trung ương Năm (Khóa X) tiếp tục ra
Nghị quyết chun đề: Cơng tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu
mới [9], làm rõ hơn vai trị, vị trí của cơng tác tư tưởng, lý luận và báo chí
trước thực tiễn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ đó, xác định
những mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm tạo đột phá cho quá
trình phát triển.
Nghị quyết số 12 - NQ/TW - Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (Khóa XI): Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay, đã khẳng định dứt khoát: “kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi

tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận
khơng nhỏ cán bộ, đảng viên” [11; 26].
Thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên, Ban Chấp hành Trung ương
(Khóa XI) đã ban hành Quy định số 164 - QĐ/TW ngày 1/2/2013: Về chế độ
bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp [14].


-8-

Theo đó, cán bộ lãnh đạo, quản lý các trường trung học phổ thông diện Ban
Thường vụ Huyện ủy quản lý như Hiệu trưởng, các phó Hiệu trưởng, cấp ủy
viên tổ chức Đảng trực thuộc Huyện ủy phải tham gia bồi dưỡng, cập nhật
kiến thức lý luận chính trị.
Ngày 8/3/2013, Ban Bí thư Trung ương ban hành Kết luận số 57KL/TW: Tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho
cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp [13]. Ban Bí thư kết luận, trình độ lý luận
chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm
vụ trong giai đoạn mới. Vì vậy, các cấp ủy Đảng cần phải tăng cường lãnh
đạo nhằm đổi mới nội dung, phương thức bồi dưỡng, chế độ chính sách để
nâng cao hơn nữa chất lượng bồi dưỡng lý luận chính trị.
Trước yêu cầu mới, ngày 26/5/2014, Bộ Chính trị có Nghị quyết số 32NQ/TW: tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý
luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý [15]. Nghị quyết nêu rõ bốn nhóm
giải pháp đồng bộ từ tăng cường lãnh đạo của Đảng đến đổi mới nội dung,
phương pháp, công tác kiểm tra và nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo.
Như vậy, công tác tư tưởng và lý luận mang tầm chiến lược trong công
tác cán bộ. Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng là nền tảng cơ sở quan trọng để các
cấp, các ngành triển khai việc bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ.
- Các cơng trình tham khảo, chun khảo
Đi sâu tìm tịi, khảo nghiệm các mơ hình, giải pháp về cơng tác bồi
dưỡng lý luận chính trị đã có nhiều cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa
học như:

Tăng cường giáo dục, rèn luyện chính trị, tư tưởng, đạo đức cách mạng,
nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn cho cán bộ, đảng viên trong tình hình
mới [32] của PGS.TS. Đào Duy Quát (Chủ biên), TS. Hồng Vinh (2007) đã
khẳng định phải có tiêu chuẩn đánh giá chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống cho


-9-

cán bộ. Tiêu chuẩn đó phải được soi rọi từ thực tiễn và lấy sự hài lòng của nhân
dân làm thước đo đánh giá cán bộ, đảng viên.
TS. Nguyễn Danh Tiên (2010), Đảng lãnh đạo công tác tư tưởng trong
thời kỳ đổi mới [36] cho rằng, Đảng cần có các giải pháp đồng bộ nắm bắt tư
tưởng và định hướng tư tưởng, nghiên cứu lý luận nhằm nâng cao trình độ lý
luận cho cán bộ, đảng viên. Tiếp cận vấn đề dưới góc độ đổi mới phương pháp
giảng dạy bộ môn Mác - Lênin và xây dựng đội ngũ làm công tác giảng dạy
bộ môn này ở các trường Đại học, cao đẳng, các Học viện, các trường Chính
trị tỉnh, thành phố, các nhà khoa học nghiên cứu lý luận đã có nhiều đề tài
chuyên sâu.
Đề tài nghiên cứu, mã số KX 10 - 09 do GS. Phạm Tất Dong làm chủ
nhiệm (1996), “Đổi mới quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giảng dạy
và nghiên cứu khoa học Mác - Lênin, kiến nghị và giải pháp, Hà Nội” [6]. Đề tài
làm rõ thực trạng đào tạo và giảng dạy của đội ngũ khoa học Mác - Lênin, đồng
thời đề xuất những chế độ, chính sách để phát triển đội ngũ này.
Đề tài nghiên cứu, mã số KX 10 - 08 do GS.TS. Nguyễn Hữu Vui làm
chủ nhiệm (2002),“Đổi mới phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác Lênin ở Việt Nam - Những vấn đề chung” [44]. Đề tài đã đánh giá thực trạng
sử dụng phương pháp trong giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin hiện
nay và đề ra những giải pháp cơ bản để đổi mới phương pháp giảng dạy các
môn khoa học này. Ngồi các cơng trình khoa học chun khảo, trên các tạp
chí cịn có nhiều bài viết với các nội dung khác nhau. Đó là:
“Lý luận và thực tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng vai trị của

lý luận hiện nay” của Trần Viết Quang (2005), Tạp chí tư tưởng - văn hóa,
(số) 10/2005. Tác giả, “coi đổi mới tư duy lý luận là khâu đột phá, là điều
kiện và tiền đề cho những đổi mới trong hoạt động thực tiễn” [31; 14].


- 10 -

“Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về lý luận chính trị theo quan
điểm của Hồ Chí Minh” [34] của GS.TS. Mạch Quang Thắng (2008), Tạp chí
Tuyên giáo, (số) 11/2008. Tác giả đã làm rõ quan điểm tư tưởng của Hồ Chí
Minh về việc xác định nội dung, đối tượng, cách thức bồi dưỡng lý luận chính
trị cho cán bộ, đảng viên. Từ những thành công và hạn chế của cơng tác bồi
dưỡng lý luận chính trị của Đảng, Nhà nước để đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả của cơng tác bồi dưỡng cán bộ.
GS.TS. Trần Văn Bính, Tạp chí Tuyên giáo, (số) 5/2009 đã trao đổi:
“Giải pháp đấu tranh với những biểu hiện suy thối tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên” [3]. Tác giả nhận thấy rằng, giải pháp
hiệu quả nhất trong đấu tranh phịng chống suy thối là cán bộ, đảng viên phải
có quyết tâm chính trị cao trong việc tự học, tự bồi dưỡng, tự rèn luyện.
TS. Dương Trung Ý, Tạp chí Tun giáo, (số) 7/2012, trong bài: “Đổi
mới cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng góp phần thực hiện hiệu quả Nghị
quyết Trung ương 4” [45] đã tập trung đánh giá thực trạng trình độ lý luận
chính trị của cán bộ, đảng viên. Từ đó, tác giả đi sâu phân tích những u cầu
đổi mới cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về lý luận chính trị cả về nội
dung, hình thức, biện pháp.
PGS.TS. Phan Hữu Tích, Tạp chí Cộng sản, (số) 854 (12/ 2013), “Bàn về
xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức cơ quan tham mưu tỉnh ủy,
thành ủy" [35]. Tác giả đề xuất 4 nhóm tiêu chuẩn với những tiêu chí tương ứng
nhằm thực hiện tốt hơn công tác cán bộ trong thời kỳ mới. Biện pháp xuyên suốt
thực hiện các nhóm tiêu chuẩn là phải lấy hiệu quả bồi dưỡng lý luận chính trị

làm gốc. Quan điểm này có ý nghĩa thiết thực đối với các đơn vị trong hệ thống
chính trị.


- 11 -

- Luận án, luận văn thạc sĩ:
Bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên là yêu cầu cấp bách
trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Vì vậy, đã có nhiều tác giả đi sâu
nghiên cứu, bảo vệ luận văn thạc sĩ như:
Quá trình đổi mới cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng
viên ở cơ sở trong cuộc đấu tranh “Chống diễn biến hồ bình” [1] của Vũ Ngọc
Am (2002), Luận văn thạc sĩ Triết học. Tác giả cho rằng, cơng tác tư tưởng,
chính trị là thành tố của văn hóa. Do đó, cần phát huy vai trị tự giác, tự bồi
dưỡng gắn với thực tiễn nhiệm vụ công tác của mỗi người.
Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trung học phổ
thông huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa [17] của Mai Tuấn Hưng (2010), Luận
văn thạc sĩ quản lý giáo dục. Trên cơ sở đánh giá thực trạng đội ngũ, tác giả
đã đề xuất các giải pháp đồng bộ nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục ở các trường trung học phổ thơng huyện Nga Sơn, tỉnh
Thanh Hóa.
Qua tìm hiểu Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, các đề tài nghiên cứu, các
bài báo khoa học, luận văn trên đây, chúng tơi thấy các cơng trình đó đã tập
trung vào:
Thứ nhất: Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của cơng tác bồi dưỡng lý
luận chính trị cho cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay. Vai trị của
cơng tác bồi dưỡng lý luận chính trị đối với đào tạo cán bộ. Những hạn chế và
nguyên nhân của những hạn chế trong công tác bồi dưỡng lý luận trong hệ
thống chính trị.
Thứ hai: Để nâng cao hiệu quả bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ,

đảng viên cần xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, yêu cầu đạt được. Từ đó, đề


- 12 -

xuất các nội dung, hình thức, phương pháp, giải pháp, mơ hình bồi dưỡng phù
hợp với mỗi trình độ.
Thứ ba: Bồi dưỡng lý luận chính trị là trách nhiệm của các cấp ủy
Đảng, chính quyền, đồn thể và của mỗi cán bộ, đảng viên. Đây cũng là một
trong những giải pháp quan trọng góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo
tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI).
Tuy nhiên, qua nghiên cứu các cơng trình khoa học đã nêu, chúng tơi
thấy cịn có những khoảng trống mà các tác giả trên chưa đề cập hoặc đề cập
còn sơ lược. Đó là:
Thứ nhất: Chưa làm rõ khái niệm bồi dưỡng lý luận chính trị và vai trị
của bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên các trường trung học
phổ thơng nói chung và các trường trung học phổ thông trên địa bàn huyện
Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa nói riêng.
Thứ hai: Chưa có cơng trình nào đi sâu khảo sát, đánh giá thực trạng
trình độ lý luận chính trị và cơng tác bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ,
đảng viên các trường trung học phổ thơng huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Thứ ba: Các cơng trình nghiên cứu chưa đề cập đến phương hướng và
các giải pháp nâng cao hiệu quả bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng
viên các trường trung học phổ thơng huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Chúng tơi ý thức được rằng, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ,
đảng viên các trường trung học phổ thông trên địa bàn huyện Nga Sơn, tỉnh
Thanh Hóa là một vấn đề mới mẻ, cần có hướng tiếp cận để đi sâu nghiên
cứu. Những giá trị khoa học của những cơng trình đã nêu sẽ là cơ sở lý luận
quan trọng để tác giả tham khảo và kế thừa trong quá trình thực hiện đề tài.



- 13 -

3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nhằm nâng cao hiệu quả bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng
viên các trường trung học phổ thông huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hố hiện
nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích cơ sở lý luận của việc nâng cao hiệu quả bồi dưỡng lý luận
chính trị cho cán bộ, đảng viên các trường trung học phổ thơng.
- Khảo sát, đánh giá trình độ lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên và
cơng tác bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên các trường trung
học phổ thông của huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả bồi dưỡng lý luận chính trị cho
cán bộ, đảng viên các trường trung học phổ thông huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh
Hóa hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về việc nâng cao hiệu quả bồi dưỡng lý luận chính trị cho
cán bộ, đảng viên các trường trung học phổ thông huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh
Hố hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Cơng tác bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên các trường
trung học phổ thơng Ba Đình, Mai Anh Tuấn, Trần Phú, Nga Sơn của huyện
Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn từ 2003 đến 2013.


- 14 -


5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được triển khai dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
lý luận chính trị và bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng hệ thống các phương pháp: phân
tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử và logic, thống kê, điều tra xã hội học…
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ,
đảng viên các trường trung học phổ thông.
- Xây dựng và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả bồi dưỡng lý
luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên các trường trung học phổ thông
huyện Nga Sơn, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài đã được cơng bố trên tạp chí Giáo dục
số đặc biệt tháng 7 năm 2014.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho các tổ chức Đảng ở các trường trung học phổ thơng, Sở Giáo dục và Đào
tạo Thanh Hóa và cơ quan Huyện uỷ Nga Sơn trong việc hoạch định chiến
lược cơng tác cán bộ.
7. Kết cấu của đề tài
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ
lục, nội dung của đề tài được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết.


- 15 -

B. NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC BỒI DƢỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Những vấn đề chung về lý luận chính trị
1.1.1. Khái niệm lý luận chính trị
Lý luận là một phạm trù khoa học, mang tính lịch sử, là kết quả của
quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Lý luận tồn tại và phát triển cùng
với sự phát triển của trí tuệ lồi người trên mọi lĩnh vực tự nhiên và xã hội. Lý
luận là: “1. Hệ thống những tư tưởng được khái quát từ những kinh nghiệm
thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn. 2. Những kiến thức được khái quát và
hệ thống hố trong một lĩnh vực nào đó” [30; 565]. Từ điển Triết học khẳng
định: “Lý luận là sự tổng hợp các tri thức về tự nhiên và xã hội tích lũy được
trong quá trình lịch sử” [42; 526], là “Hệ thống tư tưởng chủ đạo trong một
lĩnh vực tri thức” [42; 526]. Trong tác phẩm Sửa đổi lề lối làm việc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã viết: “lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm,
trong các cuộc đấu tranh, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng, rõ ràng làm thành
kết luận. Rồi đem nó chứng minh với thực tế” [24; 470]. Qua ba cách định
nghĩa về lý luận, chúng ta thấy khái niệm này có nhiều cách tiếp cận và cách
diễn đạt khác nhau. Theo chúng tôi, lý luận là hệ thống tri thức đúng đắn,
phản ánh quy luật, bản chất của các sự vật, hiện tượng, các q trình trong tự
nhiên, trong xã hội. Đó là kết quả của quá trình tổng kết, kiểm nghiệm, tích
luỹ được trong thực tiễn lao động sản xuất, đấu tranh chính trị xã hội. Vì vậy,
tri thức lý luận có tính khái qt hố, trừu tượng hố, có tác dụng chỉ đạo,
định hướng cho hoạt động thực tiễn của con người. Như vậy, lý luận và thực
tiễn có mối quan hệ hữu cơ, biện chứng, ln ln gắn bó với nhau và thường


- 16 -

xuyên tác động qua lại lẫn nhau, trong đó thực tiễn đóng vai trị là cơ sở. Bởi
vì, thực tiễn, hiểu một cách khái quát nhất, đó là hoạt động của con người
nhằm bảo đảm cho xã hội tồn tại và phát triển. Còn lý luận là cái phản ánh

thực tiễn, lý luận được thể hiện dưới dạng hệ thống những tri thức đã được
khái quát, tạo ra những quan niệm tương đối hoàn chỉnh về các mối liên hệ cơ
bản và các quy luật của hiện thực khách quan. Nói cách khác, lý luận là kinh
nghiệm thực tiễn đã được khái quát trong ý thức của con người, là hệ thống
tương đối độc lập của các tri thức có tác dụng tái hiện trong lơ-gíc của các
khái niệm - cái lơ-gíc khách quan của hiện thực mà nó phản ánh. Tác dụng và
sức sống của lý luận phụ thuộc vào khả năng của chính nó trong việc khái
quát bản chất của hiện thực khách quan từ vô số các hiện tượng cụ thể, phụ
thuộc vào chỗ nó tạo ra sự tiến bộ của lịch sử, sự phát triển kinh tế, chính trị,
xã hội, và tựu trung lại là để tạo ra cuộc sống tốt đẹp hơn cho con người.
Chính trị là một hiện tượng xã hội xuất hiện gắn liền với sự ra đời của
giai cấp và nhà nước. Từ khi xuất hiện, chính trị đã có ảnh hưởng to lớn tới quá
trình tồn tại và phát triển của mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia, dân tộc và tồn
nhân loại. Thuật ngữ chính trị xuất hiện từ rất sớm gắn liền với sự hình thành
của tư tưởng chính trị, thể hiện rõ nét trong tư tưởng về nhà nước của các nhà
triết học cổ đại ở phương Tây và phương Đông. Theo Platon - triết gia Hy Lạp
cổ đại phương Tây thì chính trị là nghệ thuật cung đình liên kết trực tiếp của
người anh hùng và sự thơng minh. Sự liên kết đó được thực hiện bằng sự
thống nhất tư tưởng và tinh thần hữu ái. Chính trị là nghệ thuật cai trị. Cai trị
bằng sức mạnh là độc tài, cai trị bằng nghệ thuật mới là đích thực. Với
Aristotle, chính trị là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên - là hình thức giao
tiếp cao nhất của con người. Con người là động vật chính trị. Quyền lực chính
trị có thể được phân chia thành lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ở phương
Đông cổ đại, nhất là ở Trung Quốc thời kỳ bách gia chư tử - trăm hoa đua nở -


- 17 -

trăm nhà đua tiếng cũng xuất hiện những tư tưởng chính trị kiệt xuất. Nổi bật
nhất là các quan niệm của Khổng tử, Hàn Phi tử, Lăo tử... Khổng tử quan

niệm chính trị là cơng việc của người qn tử, là làm cho chính đạo, chính
danh. Ơng xây học thuyết về Nho gia với các quan điểm Tam cương, Ngũ
thường - là cơ sở nền tảng cho các xã hội phong kiến phương Đông lúc bấy
giờ và cả sau này. Còn Hàn Phi tử lại quan niệm để thực hiện hoạt động chính
trị cần thiết phải xây dựng và ban hành pháp luật. Với luận thuyết nổi tiếng về
thế, thuật và pháp - ông là đại diện tiêu biểu của phái Pháp gia. Các quan niệm
trên đây là những tư tưởng về chính trị, khả năng sử dụng quyền lực chính trị
trong thực tế mặc dù cịn sơ khai, song đã đặt nền móng cho sự hình thành
khoa học chính trị sau này. Trong đêm trường trung cổ, chính trị được các nhà
thần học và chủ nghĩa duy tâm như Tơmat Đa - Canh... lý giải dưới góc độ
huyền bí rằng: chính trị có nguồn gốc từ quyền lực tối cao của Thượng đế.
Theo đó, tất cả trật tự của thế giới đều do bàn tay vạn năng của Thượng đế mà
ra và do đó, mọi người phải tuân theo như một định mệnh. Quan niệm về chính
trị của chủ nghĩa duy tâm thần bí hồn tồn bị phá sản dưới ánh sáng của khoa
học thực nghiệm thế kỷ XVII-XVIII. Tư tưởng về chính trị của các nhà triết
học cổ đại được kế thừa và làm sáng tỏ hơn trong học thuyết tam quyền phân
lập, khế ước xã hội của J.Loke - nhà triết học người Anh, CL.Montesquieu,
Rousseau nhà khai sáng người Pháp. Theo các ơng, chính trị được quan niệm
là vấn đề quyền lực nhà nước và việc thực thi quyền lực chính trị phải bằng
hình thức tổ chức nhà nước với ba nhánh quyền. Quan điểm này đã tạo ra sức
sống mãnh liệt trong tổ chức nhà nước đương thời và đã để lại những giá trị
thực tiễn sâu sắc trong nghiên cứu về chính trị của các nhà khoa học hiện đại.
Nghiên cứu một cách nghiêm túc các quan điểm đi trước về chính trị,
đồng thời vận dụng một cách khoa học các phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin đã có


- 18 -

những luận giải đúng đắn về chính trị. Theo C.Mác: “chính trị theo đúng

nghĩa của nó, là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp
khác” [21, 628]. Phát triển quan điểm của C.Mác, Lênin cho rằng: “chính trị
là sự tham gia vào những công việc của nhà nước, là việc vạch hướng đi cho
nhà nước, việc xác định những hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của
nhà nước" [18, 404].
Ở Việt Nam, khái niệm chính trị được tiếp cận một cách có hệ thống và
làm sáng tỏ trên cả 3 phương diện là tư tưởng chính trị, thể chế chính trị và hệ
thống chính trị. Từ đó, đã có nhiều luận giải về khái niệm chính trị. Theo tác
giả Phạm Quang Minh: “chính trị là q trình bao gồm tranh luận, quyết định,
xung đột và/ hoặc hợp tác giữa các cá nhân, nhóm và tổ chức đối với sự chi
phối, kiểm soát, phân phối và sử dụng các nguồn tài nguyên, cũng như các giá
trị và tư tưởng làm nền tảng cho các hoạt động đó” [28; 25]. Ở khía cạnh khác,
Từ điển tiếng Việt của Bùi Đức Tịnh giải thích, chính trị là: “Những hoạt động
của một giai cấp, một chính đảng, một tập đồn nhằm giành hay duy trì quyền
điều khiển bộ máy nhà nước” [37; 157]. Như vậy, khái niệm chính trị được
nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Song bản chất của chính trị là vấn đề
quyền lực nhà nước, tức là quyền lực của giai cấp cầm quyền và sự phân phối
quyền lực đó trong thực tế xã hội. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế.
Giai cấp thống soái địa vị kinh tế cũng đồng thời là giai cấp trung tâm của địa
vị chính trị. Vì vậy, chính trị là nền tảng cốt lõi của kiến trúc thượng tầng, có
chức năng xử lý và điều tiết các mối quan hệ qua lại giữa các giai cấp, các dân
tộc, các quốc gia.
Từ cách tiếp cận khái niệm lý luận và chính trị, chúng tơi cho rằng, lý
luận chính trị là bộ phận quan trọng trong kho tàng lý luận của nhân loại trong
lĩnh vực chính trị, phản ánh mối quan hệ của các giai cấp trong việc giành và
giữ chính quyền. Nói cách khác, lý luận chính trị là hệ thống tri thức về lĩnh


- 19 -


vực chính trị thể hiện thái độ và lợi ích giai cấp đối với quyền lực nhà nước
trong xã hội có giai cấp, là kết quả của hoạt động nghiên cứu khoa học và
thực tiễn chính trị của nhiều người, qua nhiều thế hệ. Lý luận chính trị ở Việt
Nam hiện nay là hệ thống những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước cùng những tinh hoa tư tưởng chính trị của dân tộc và nhân
loại. Nó phản ánh tính quy luật của các quan hệ kinh tế - chính trị - xã hội, thể
hiện lợi ích và thái độ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đối với
việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là công cụ quan trọng
cho việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Khái niệm bồi dưỡng lý luận chính trị
Từ điển tiếng Việt do GS. Hoàng Phê (Chủ biên) viết: “Bồi dưỡng: 1.
Làm cho tăng thêm sức của cơ thể bằng chất bổ. 2. Làm cho tăng thêm năng
lực hoặc phẩm chất” [30; 82]. Theo Từ điển tiếng Việt do Bùi Đức Tịnh biên
soạn: “Bồi dưỡng là bồi bổ, nuôi dưỡng thêm” [37; 63]. Như vậy, bồi dưỡng
được hiểu với hai nội dung: thứ nhất là làm cho cơ thể khỏe mạnh hơn về thể
lực và thứ hai là tăng thêm năng lực, phẩm chất. Trong phạm vi nghiên cứu
của đề tài, chúng tôi sử dụng khái niệm bồi dưỡng ở nội dung thứ hai với ý
nghĩa là cập nhật kiến thức còn thiếu hoặc đã lạc hậu, bổ túc thêm về nghiệp
vụ, củng cố các kỹ năng nghề nghiệp để làm cho người được bồi dưỡng tốt
hơn. Đây là quy luật của lý luận nhận thức. Sự hiểu biết của con người về thế
giới là kết quả của quá trình phản ánh liên tục hiện thực sinh động vào bộ óc
thơng qua hàng loạt hoạt động sáng tạo. Đến lượt nó, sự hiểu biết sẽ mở
đường để con người tiếp tục khám phá, sáng tạo, đem lại cuộc sống tốt đẹp
hơn. Khi thực tiễn thay đổi, vốn hiểu biết đã có sẽ trở nên lạc hậu, xa rời cuộc
sống, cản trở bước tiến lên của xã hội. Do đó, để đáp ứng sự thay đổi đó, con
người phải khơng ngừng nghiên cứu thực tiễn để chắt lọc, kế thừa, phát triển


- 20 -


những tri thức còn phù hợp, phát triển chúng trong những điều kiện mới và
loại bỏ những kiến thức đã cũ kỹ, lạc hậu.
Từ cách hiểu thuật ngữ bồi dưỡng và lý luận chính trị, chúng tơi có thể
khái quát: bồi dưỡng lý luận chính trị là một q trình tác động có chủ đích
đến đối tượng nhằm làm cho đối tượng nắm vững hơn, đầy đủ hơn tri thức lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối
của Đảng Cộng sản Việt Nam, truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc, của
thời đại. Từ đó, hình thành thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản,
phương pháp tiếp cận và xử lý các vấn đề thực tiễn nảy sinh tốt hơn. Mặt
khác, làm cho đối tượng có phương pháp tự nghiên cứu, tự tìm hiểu để bổ
sung kiến thức mới. Nói cách khác, bồi dưỡng lý luận chính trị chính là việc
trang bị, củng cố thêm tri thức về các lĩnh vực chính trị và phương pháp tổng
kết thực tiễn để rút ra kiến thức lý luận mới. Vì vậy, bồi dưỡng lý luận chính
trị là việc làm thường xuyên, liên tục với những nội dung, hình thức và
phương pháp phù hợp.
1.1.3. Nguồn gốc, bản chất và đặc trưng của lý luận chính trị
Về nguồn gốc, lý luận chính trị là sản phẩm của hoạt động nghiên cứu
về lý luận và thực tiễn chính trị của giai cấp trong việc đấu tranh giành, giữ và
xây dựng chính quyền nhà nước. Khi xã hội hình thành giai cấp đối kháng và
có sự phân phối khơng bình đẳng về lợi ích giữa các giai cấp thì diễn ra quá
trình đấu tranh giành, giữ chính quyền. Giai cấp cầm quyền khi đã xác lập bộ
máy nhà nước, xác lập quyền lực chính trị của mình đối với xã hội thì đồng
thời xác lập hệ tư tưởng giai cấp tương ứng với sự tồn tại và phát triển của
chính quyền nhà nước đó. Như vậy, lý luận chính trị ra đời là một tất yếu, gắn
liền với sự ra đời của nhà nước, của hệ thống chính trị. Khi xã hội thay đổi,
các quan hệ kinh tế biến đổi thì lý luận chính trị cũng biến đổi theo. C.Mác
khẳng định, nhà nước là sản phẩm của lịch sử. Khi xã hội đã thủ tiêu giai cấp



- 21 -

thì nhà nước cũng bị tiêu vong và khi đó lý luận chính trị khơng cịn lý do để
tồn tại.
Về bản chất, lý luận chính trị phản ánh tính quy luật của các quan hệ
kinh tế - chính trị - xã hội, thể hiện lợi ích và thái độ của giai cấp đối với
quyền lực nhà nước. Sự tồn tại của quyền lực chính trị là một tất yếu lịch sử,
quyền lực đó khơng xuất phát từ ý muốn chủ quan của bất kỳ một giai cấp,
đảng phái nào trong xã hội. Giai cấp nào đại diện cho một lực lượng sản xuất
tiến bộ thì dù sớm hay muộn, giai cấp đó sẽ giành được quyền kiểm sốt
quyền lực và chi phối đến các giai cấp khác, đến tồn xã hội. Để đảm bảo
quyền lực chính trị được thực thi trên thực tế, giai cấp cầm quyền thể hiện
quan điểm của mình trên tất cả các lĩnh vực của kiến trúc thượng tầng của xã
hội. Vì vậy, lý luận chính trị trở thành giá trị cốt lõi, nền tảng, để lại dấu ấn rõ
nét và trở thành văn hóa chính trị của một dân tộc, một thời đại nhất định.
Về mục đích, lý luận chính trị nhằm trang bị thế giới quan và thúc đẩy
hành vi thực hiện mục tiêu, lý tưởng chính trị của giai cấp. Giai cấp đứng ở vị
trí trung tâm của quyền lực chính trị đã sử dụng lý luận chính trị để vũ trang
cho giai cấp mình nhằm hiện thực hóa quyền lực nhà nước trong thực tế,
thơng qua đó để khẳng định sự tồn tại của nhà nước gắn với vai trò của giai
cấp đại diện là một tất yếu. Các giai cấp có lợi ích đối kháng với giai cấp cầm
quyền, muốn xóa bỏ sự tồn tại của nhà nước, của quyền lực chính trị hiện thời
phải có đủ cơ sở lý luận để khẳng định quyền lực chính trị đang tồn tại đã lỗi
thời, khơng cịn phù hợp với phương thức sản xuất tiến bộ, đã đến lúc cần
phải xóa bỏ. Tuy nhiên, khi quyền lực chính trị đang hiện hữu đã chứng minh
được sức sống, đang là động lực cho sự phát triển xã hội thì khơng một quan
điểm chính trị, một hệ thống lý luận nào có thể cản trở được nó.


- 22 -


Về đặc trưng, lý luận chính trị là thuộc tính vốn có, là đặc điểm riêng
biệt, để phân biệt với các hệ thống lý luận khác. Các nhà khoa học chính trị đã
phân tích và khẳng định lý luận chính trị có các đặc trưng bản chất sau đây:
Lý luận chính trị là lĩnh vực hoạt động tư tưởng của một giai cấp, một
chính đảng. Đó là kết quả của quá trình quan sát, đánh giá, tổng kết thực tiễn
hoạt động chính trị - xã hội. Từ đó đúc kết, xâu chuỗi thành những tri thức chung
nhất, bản chất nhất, mang tính quy luật của sự vận động, phát triển xã hội. Hệ
thống tri thức lý luận được biểu đạt dưới dạng các khái niệm, quy luật, phạm trù,
phán đoán, suy lý thể hiện bản chất, mối liên hệ phổ biến của các hiện tượng, các
q trình chính trị. Để hiểu được tri thức lý luận chính trị phải bằng tư duy trừu
tượng, bằng sự khái quát hóa cao độ của những tri thức cụ thể, riêng lẻ. Tri thức
lý luận chính trị bao giờ cũng mang tính định hướng, thể hiện xu thế phát triển
tất yếu của các quá trình lịch sử. Từ hệ thống tri thức đó, các giai cấp, các chính
đảng vận dụng vào hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, xác định tầm
nhìn, vạch ra con đường phát triển của đất nước. Vì vậy, lý luận chính trị bao
giờ cũng mang tính khái qt hóa cao, tính trừu tượng sâu sắc.
Tri thức lý luận chính trị được hình thành từ nhiều lĩnh vực và có mối
liên hệ mật thiết, bổ sung cho nhau, thâm nhập vào nhau, tạo nên chỉnh thể.
Trong đó, tri thức của các bộ môn khoa học xã hội - nhân văn, tâm lý, truyền
thống lịch sử văn hóa, hệ tư tưởng, phong tục tập quán là điểm xuất phát tạo
nên những luận điểm, quan điểm khoa học và tri thức của các bộ môn khoa
học tự nhiên, thực nghiệm là cơ sở luận cứ, luận chứng cho các quan điểm đã
nêu ra. Hơn nữa, vì tri thức lý luận chính trị phản ánh những đặc tính chung
nhất, phổ quát nhất, thể hiện bản chất và mối liên hệ của các sự vật, hiện
tượng, các quá trình lịch sử và do đó, lý luận chính trị có tính chính xác, logic,
chặt chẽ.


- 23 -


Nguồn gốc của tri thức lý luận xuất phát từ đời sống chính trị - xã hội khái
quát lên mà thành. Nó phản ánh tâm tư, nguyện vọng, xu thế phát triển tất yếu
của một giai cấp, một dân tộc hay một thời đại nhất định. Tri thức lý luận nói
chung và lý luận chính trị nói riêng bao giờ cũng là kết quả của quá trình tổng
kết đời sống chính trị - xã hội. Đến lượt nó, lý luận lại soi sáng, mở đường cho
thực tiễn tiến lên theo mục đích đặt ra. Tuy nhiên, thực tiễn ln sinh động, biến
đổi và chuyển hóa khơng ngừng. Vì vậy, lý luận phải luôn gắn với thực tiễn,
thống nhất với thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện hệ thống lý luận đó. Giai cấp
cầm quyền vì lợi quyền của mình khơng thể ngồi ơm khư khư hệ thống lý luận
đã có mà phải ln bám sát đời sống chính trị - xã hội để rút ra những quy luật
chung nhất, định hướng cho xã hội phát triển.
Lý luận là sản phẩm của lịch sử, của thời đại. Lý luận khơng mang tính
giai cấp, song khi vận dụng vào thực tiễn phục vụ cho lợi ích giai cấp thì lý
luận bao giờ cũng mang đậm nét ý nguyện của một giai cấp, một chính đảng
nhất định. Trong xã hội có giai cấp, lý luận chính trị phải phục vụ mục tiêu
phát triển kinh tế- xã hội, quy tụ các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế, phát
triển xã hội. Giai cấp cầm quyền mà bộ tham mưu là chính đảng của nó sử
dụng hệ thống lý luận của thời đại làm vũ khí tư tưởng cho giai cấp mình để
duy trì sự tồn tại của nhà nước đương thời, đồng thời cũng chống lại sự chống
phá của các thế lực từ bên ngồi. Lý luận chính trị Mác - Lênin thống nhất
giữa tính đảng và tính khoa học.
Tựu trung lại, lý luận chính trị có tính khái qt hóa cao từ thực tiễn
chính trị, phản ánh mối quan hệ quyền lực giữa các giai cấp trong xã hội. Lý
luận chính trị Mác - Lênin bao giờ cũng mang tính khoa học, tính thực tiễn sâu
sắc, có tác dụng định hướng cho xã hội tiến lên.


- 24 -


1.2. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về bồi dƣỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán
bộ, đảng viên
Quan điểm về đào tạo, bồi dưỡng lý luận cho cán bộ của Hồ Chí Minh
là một hệ thống tư tưởng sâu sắc và toàn diện nhằm bồi dưỡng những tri thức
lý luận chính trị, cốt lõi là lý luận Mác - Lênin, đường lối chính sách của
Đảng để nâng cao trình độ nhận thức, giác ngộ cách mạng, xây dựng thế giới
quan và phương pháp luận khoa học, bồi dưỡng những phẩm chất chính trị,
đạo đức và năng lực của người cán bộ cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai
cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa
cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam” [23; 268].
Người khẳng định dứt khoát: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ
nghĩa Lê - nin” [23; 268].
Bồi dưỡng lý luận chính trị khơng chỉ là truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin, mà cịn phải tun truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
ta. Bởi vì đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước là sự vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta
trong mỗi giai đoạn cách mạng. Người nói: “Có nắm vững đường lối cách
mạng mới thấy rõ phương hướng tiến lên của cách mạng, mới hiểu rõ mình
phải làm gì và đi theo hướng nào để thực hiện mục đích của Đảng trong giai
đoạn cách mạng hiện nay” [27; 96].
Vì vậy, bồi dưỡng lý luận chính trị là rất cần thiết, có ý nghĩa đối với
cách mạng. Hồ Chí Minh cho rằng, học lý luận để nâng cao vốn lý luận của
mỗi cán bộ, từ đó mà nâng cao trình độ lý luận của Đảng để bản thân mỗi cán


- 25 -


bộ hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ của Đảng. Theo Người, Đảng ta có nhiều ưu
điểm và cũng nhiều nhược điểm mà “một trong những nhược điểm lớn là
trình độ lý luận cịn thấp kém” [26; 494] và “vì trình độ lý luận cịn thấp kém
cho nên đứng trước nhiệm vụ cách mạng ngày càng mới và phức tạp, trong
việc lãnh đạo, Đảng ta không khỏi lúng túng, không tránh khỏi sai lầm,
khuyết điểm” [26; 494 - 495].
Mặt khác, xuất phát từ điều kiện đặc thù của lịch sử cách mạng nước ta,
trong bối cảnh thế giới và trong nước có những biến đổi địi hỏi chúng ta phải
có những đường lối, phương châm, phương pháp đấu tranh cho thích hợp.
Điều đó địi hỏi Đảng ta phải nâng cao mình lên nữa. Muốn vậy, phải tổ chức
học tập lý luận trong toàn Đảng, trước hết là trong đội ngũ cốt cán của Đảng.
Người cũng khẳng định, muốn đỡ bớt mị mẫm, đỡ phạm sai lầm thì chúng ta
phải tự nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin. Như thế là phải học
tập lý luận, phải nâng cao trình độ lý luận chung của Đảng, trước hết là đội
ngũ cán bộ, đảng viên. Người còn nhấn mạnh rằng, mỗi đảng viên phải tự cải
tạo mình, đấu tranh chống thói hư tật xấu, đấu tranh tự khắc phục chủ nghĩa
cá nhân, rèn luyện chủ nghĩa tập thể, gắn bó chặt chẽ với quần chúng, phát
huy đầy đủ tính sáng tạo của quần chúng thì phải học lý luận để nâng cao
trình độ chung của Đảng, đó là một địi hỏi bức thiết của Đảng ta.
Nói về mục đích của học tập lý luận, Hồ Chí Minh nêu lên:
“a) Học để sửa chữa tư tưởng: Hăng hái theo cách mạng, điều đó rất
hay. Nhưng tư tưởng chưa thật đúng là tư tưởng cách mạng, vì thế phải học
tập để sửa chữa cho đúng. Tư tưởng đúng thì hành động cho khỏi sai lạc và
mới làm tròn được nhiệm vụ cách mạng được.
b) Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng. Có đạo đức cách mạng thì mới
hy sinh tận tụy với cách mạng, mới lãnh đạo được quần chúng đưa cách mạng
đến thắng lợi hoàn toàn.



×