Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Nâng cao hiệu quả thực hiện nghị quyết trung ương 4 (khóa xi) một số vấn đề cấp bách về xây dựng đảng hiện nay ở đảng bộ thành phố vinh, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (797.89 KB, 95 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH
***

NGUYỄN VĂN ĐIỀU

NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT
TRUNG ƢƠNG 4 (KHÓA XI) “MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẤP
BÁCH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG HIỆN NAY” Ở ĐẢNG BỘ
THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Chuyên ngành: Lý luận và Phƣơng pháp dạy học Bộ môn Giáo dục chính trị
Mã số: 60.14.01.11
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS,TS, GVCC Đoàn Minh Duệ

NGHỆ AN, NĂM 2014


2

LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn các Thầy các Cơ khoa
Giáo dục chính tri và một số Thầy Cô các khoa khác – Trường Đại học Vinh đã
trực tiếp truyền dạy nhiều vấn đề lý luận khoa học và thưc tiễn bổ ích về chính
trị và phương pháp giảng dạy bộ mơn chính trị. Đó là cơ sở để tác giả (với tư
cách là người học) tiếp cận được nhiều vấn đề lý luận và phương pháp, từ đó
vận dụng vào thực tiễn công việc và cuộc sống. Tác giả thực sự thấy rất bổ ích
và thiết thực.


Để hồn thành luận văn thạc sỹ của mình, trong q trình nghiên cứu, tìm
tịi và hoàn thiện các nội dung, tác giả đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của
nhiều cơ quan, đơn vị và cá nhân có liên quan, như: Thành ủy thành phố Vinh,
UBND thành phố Vinh, Ban Tuyên giáo Thành ủy Vinh, Đảng ủy, UBND các
phường, xã trong thành phố, Thư viện Tỉnh Nghệ An…; các đồng chí lão thành
cách mạng, các đồng chí lãnh đạo thành phố Vinh đã nghỉ hưu qua các thời kỳ;
các đồng chí lãnh đạo Thành ủy, UBND thành phố Vinh đương nhiệm.v.v..
Trong đó, tác giả đặc biệt cảm ơn sự hướng dẫn giúp đỡ tận tình và hiệu quả về
mặt khoa học của PGS, TS, GVCC Đoàn Minh Duệ - Trường Đại học Vinh.
Tác giả luận văn xin trân trọng cảm ơn!


3

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CNTB

Chủ nghĩa tư bản

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CNH, HĐH

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

CT/TW


Chỉ thị Trung ương

NQ/TW

Nghị quyết Trung ương

QĐ/TTg

Quyết định của Thủ tướng Chính phủ

NQ/TU

Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy

NQ/Th.U
KH/TU
KH/Th.U

Nghị quyết của Ban Thường vụ Thành ủy
Kế hoạch của Ban Thường vụ Tỉnh ủy
Kế hoạch của Ban Thường vụ Thành ủy

HĐND

Hội đồng nhân dân

UBND

Ủy ban nhân dân


UVBCH
UBKT
UV UBKT

Ủy viên Ban Chấp hành
Ủy ban kiểm tra
Ủy viên Ủy ban kiểm tra


4

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU. ....................................................................................................... 4
B. NỘI DUNG ................................................................................................... 11
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
HIỆN NGHỊ QUYẾT TRUNG ƢƠNG 4 (KHÓA XI) “MỘT SỐ VẤN ĐỀ
CẤP BÁCH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG HIỆN NAY” ..................................... .11
1.1. Về Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay” …………………………………………………………..11
1.2. Sự cần thiết của việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số
vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”………………………………….18
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT TRUNG ƢƠNG 4
(KHÓA XI) “MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẤP BÁCH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG
HIỆN NAY” TẠI ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN ..... 45
2.1. Một số nét về Đảng bộ Thành phố Vinh ..................................................... 45
2.2. Thực trạng triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một
số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” ở Đảng bộ Thành phố Vinh ..54
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT TRUNG ƢƠNG 4 (KHÓA
XI) “MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẤP BÁCH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG HIỆN NAY”

Ở ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN TRONG THỜI
GIAN TỚI ......................................................................................................... 71
3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa
XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” ở Đảng bộ Thành phố
Vinh, tỉnh Nghệ An ............................................................................................ 71
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện Nghị quyết Trung ương
4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” ở Đảng bộ
Thành phố Vinh, Tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay ................................ 74
C. KẾT LUẬN .................................................................................................. 88
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………90


5

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện.
Trải qua hơn 80 năm phấn đấu, xây dựng và trưởng thành, vượt qua mn vàn
khó khăn, thử thách, với bản lĩnh của một đảng cách mạng chân chính, dạn dày
kinh nghiệm, ln gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng đã lãnh đạo, tổ chức và
phát huy sức mạnh to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, giành được nhiều
thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng. Trên cơ sở đó, cơng tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng đã đạt được nhiều kết quả tích cực; năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng cao; phương thức lãnh đạo của
Đảng từng bước được đổi mới; vai trò lãnh đạo của Đảng được giữ vững, niềm
tin của nhân dân với Đảng được củng cố
Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng vẫn cịn khơng ít những hạn chế, yếu
kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ
chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Nhất là
một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo,

quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống với nhiều biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa
cá nhân, ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn kựa, cục bộ,
tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vơ ngun tắc…
Thực tế đó địi hỏi Đảng ta phải nghiêm túc tự phê bình và phê bình, thực
hiện mạnh mẽ công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Bởi vì, nếu khơng kịp thời
khắc phục, sửa chữa sẽ là thách thức lớn đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự
tồn vong của chế độ. Cũng chính vì xác định được được tầm quan trọng đó, nên
tại Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI), Trung ương đã ra Nghị quyết số 12NQ/TW ngày 16/1/2012 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
Nghị quyết ngay sau khi ra đời đã có hiệu ứng tích cực trong tồn Đảng, tồn
dân, tồn qn; được ví như “liều thuốc” hữu hiệu, kịp thời để Đảng ta gột rửa
những “ung nhọt” tồn tại bấy lâu nay


6

Tại Đảng bộ thành phố Vinh, việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” bước
đầu đạt được kết quả tích cực; thật sự trở thành đợt sinh hoạt chính trị quan
trọng trong Đảng và nhân dân thành phố; tạo động lực to lớn cho nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tuy nhiên, cơng tác xây dựng chỉnh đốn
Đảng vẫn cịn nhiều tồn tại, hạn chế. Sự chuyển biến trong nhận thức và hành
động của cán bộ, đảng viên và nhân dân về ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức
lối sống vẫn cịn khiêm tốn. Điều đó càng đặt ra yêu cầu phải đẩy mạnh hơn nữa
việc thực hiện Nghị quyết. Phải đưa việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 trở
thành việc làm quan trọng và thường xuyên trong công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, xây dựng Đảng thật sự trong sạch vững mạnh, xứng đáng với vai trò lãnh
đạo cách mạng trong suốt chiều dài lịch sử vẻ vang của Đảng. Xác định được ý
nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề nêu trên, tác giả lựa chọn vấn đề: Nâng cao
hiệu quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp

bách về xây dựng Đảng hiện nay” ở Đảng bộ thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
làm đề tài luận văn Cao học thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) ra đời đầu năm 2012, đến nay mới
tròn 2 năm thực hiện, nên các cơng trình nghiên cứu, tổng kết từ thực tiễn thực
hiện chưa nhiều. Các bài viết, bài nói đăng trên các báo, đài chủ yếu tập trung
vào việc khẳng định giá trị, ý nghĩa quan trọng của việc ra đời bản Nghị quyết
quan trọng này. Bên cạnh đó là một số bài viết, bài nghiên cứu xoay quanh
những kinh nghiệm bước đầu trong triển khai thực hiện Nghị quyết ở các địa
phương…Tuy nhiên, các tài liệu nghiên cứu có liên quan đến vấn đề xây dựng
Đảng thì rất phong phú, đa dạng, vì đây là vấn đề lớn và ln gắn liền với các
bước đường phát triển của Đảng.
Ở đây, tác giả nêu ra một số tài liệu nghiên cứu cơ bản có liên quan đến
đề tài:


7

Xây dựng, chỉnh đốn, củng cố tổ chức Đảng dưới ánh sáng tư tưởng Hồ
Chí Minh trong thời kỳ mới (Chào mừng đại hội đại biểu toàng quốc lần thứ XI
của Đảng), Nhiều tác giả, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2010.
Tư tưởng Hồ Chí Minh trong cơng tác xây dựng Đảng và giáo dục lý luận
chính trị của cách mạng hiện nay, GS Trần Đình Huỳnh, Nxb. Lao động, Hà
Nội, 2010.
Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp
đổi mới, PGS, TS Bùi Đình Phong, Nxb. Lao động, Hà Nội 2007.
Xây dựng chỉnh đốn Đảng chống quan liêu tham nhũng lãng phí, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
Quyết tâm cao biện pháp quyết liệt nhằm tạo sự chuyển biến mới về xây
dựng Đảng, GS,TS Nguyễn Phú Trọng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012.

Nhiệm vụ cần làm ngay về xây dựng Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội 2013.
Đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh – giải
pháp quan trọng thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng, PGS,TS
Ngô Văn Thạo, Tạp chí Tun giáo, số 4- 2012, tr.22.
Tăng cường cơng tác tư tưởng, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung
ương 4 về xây dựng Đảng, PGS,TS Đào Duy Quát, Tạp chí Tuyên giáo, số 42012, tr.19…
Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ
sở các trường chính trị, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 4
về xây dựng Đảng, Trần Ngọc Uẩn, Tạp chí Tuyên giáo, số 7-2012, tr.43.
Đổi mới cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng góp phần thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4, TS. Dương Trung Ý, Tạp chí Tuyên giáo, số 7-2012, tr.47.
Làm thế nào để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 4, Hoàng Hoa
Mai, Tạp chí Tuyên giáo, số 12-2012, tr.55.


8

Chung quanh vấn đề thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu với tập thể
theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Tạp chí Cộng sản, số 8-2012,
tr.50.
Báo cáo sơ kết một năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một
số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” (Báo cáo số 108 ngày
06/6/2013) của Ban Thường vụ Thành ủy Vinh
Báo cáo sơ kết hai năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một
số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” (Báo cáo số 211 ngày
09/6/2014) của Ban Thường vụ Thành ủy Vinh.
Báo cáo việc thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ
Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh đầu năm 2013 (Báo cáo số 133 ngày 19/6/2013) của Ban Thường vụ

Thành ủy Vinh.
Báo cáo việc thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ
Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh đầu năm 2014 (Báo cáo số 214 ngày 17/6/2014) của Ban Thường vụ
Thành ủy Vinh.
Báo cáo đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
Thành phố lần thứ XXII (Báo cáo tháng 6/2013) của Ban Thường vụ Thành ủy
Vinh...
Vì vậy, tác giả xác định lựa chọn đề tài này là cần thiết và đúng đắn,
mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn mới. Việc nghiên cứu thành công đề tài sẽ có
những đóng góp nhất định đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng ở thành
phố Vinh tỉnh Nghệ An nói riêng, cơng tác xây dựng Đảng nói chung.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu: Thông qua việc tổng kết thực tiễn thực hiện nghị quyết
nhằm đề ra phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả Nghị quyết Trung ương
4 tại Đảng bộ thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, qua đó góp phần xây dựng và
chỉnh đốn Đảng, nâng cao vai trò và sức chiến đấu của Đảng.


9

3.2. Nhiệm vụ: - Làm rõ cơ lý luận của vấn đề nghiên cứu;
- Đánh giá thực trạng của việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 “Một
số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” tại Đảng bộ thành phố Vinh;
- Xác định phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay” tại Đảng bộ Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An trong tời gian tới.
4. Đối tƣợng và hạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghị quyết Hội nghị BCH TƯ 4 khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về

xây dựng Đảng ta hiện nay” là nghị quyết chuyên đề về công tác xây dựng
Đảng. Nghị quyết ra đời trong thời điểm công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
của Đảng ta đang đứng trước những thử thách lớn, một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên đã và đang bị suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức,
lối sống; tình trạng tham nhũng, lãng phí, chạy chức, chạy quyền…đang đe dọa
trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ và vai trò lãnh đạo của Đảng; làm giảm
lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Vì vậy, sự ra đời của Nghị quyết là cấp
bách và quan trọng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Qua việc nghiên cứu việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 nói chung
của Đảng ta hiện nay, đề tài là thực trạng việc thực hiện, từ đó tìm ra giải pháp
góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một
số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” ở Đảng bộ thành phố Vinh, tỉnh
Nghệ An.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin. Những nguyên tắc,
quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và cơng tác xây dựng chỉnh đốn Đảng.


10

Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như:
Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sách, phương
pháp thống kê và một số phương pháp khác...
6. Đóng góp mới của đề tài
Đề tài sau khi hồn thành sẽ có những đóng góp mới cả về phương diện lý
luận và thực tiễn, cụ thể:
- Đánh giá đúng thực trạng việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 tại

Đảng bộ thành phố Vinh tỉnh Nghệ An trong thời gian qua.
- Xác định phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm thực hiện có hiệu quả
việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về
xây dựng Đảng hiện nay” tại Đảng bộ Thành phố Vinh tỉnh Nghệ An trong giai
đoạn hiện nay.
7. Giả thuyết khoa học
Thông qua công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết
Trung ương 4 (khóa XI) làm cơ sở cho việc thực hiện có hiệu quả việc thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay” tại Đảng bộ thành phố Vinh tỉnh Nghệ An.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài
được cấu thành 3 chương:
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận của việc nâng cao hiệu quả thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay”.
Chƣơng 2. Thực trạng thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI)
“Một số vấn đề cấp bách về công tác xây dựng Đảng hiện nay” tại Đảng bộ
thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
Chƣơng 3. Phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về cơng
tác xây dựng Đảng hiện nay” tại Đảng bộ thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An trong
thời gian tới


11

B. NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN

NGHỊ QUYẾT TRUNG ƢƠNG 4 (KHÓA XI) “MỘT SỐ VẤN ĐỀ
CẤP BÁCH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG HIỆN NAY”
1.1. Về Nghị quyết Trung ƣơng 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách
về xây dựng Đảng hiện nay”
1.1.1. Bối cảnh ra đời Nghị quyết
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng,
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khóa đã ban hành
nhiều chủ trương, nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trên cơ sở đó, cơng
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được nhiều kết quả tích cực; năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng cao; phương thức lãnh
đạo của Đảng từng bước được đổi mới; vai trò lãnh đạo của Đảng được giữ
vững, niềm tin của nhân dân với Đảng được củng cố; đội ngũ cán bộ, lãnh đạo,
quản lý các cấp đã có bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ,
đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống,
có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng. Thành tựu 30 năm đổi
mới là thành quả của toàn Đảng, toàn dân, tồn qn, trong đó có sự đóng góp to
lớn của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Bên cạnh kết quả đạt được, cơng tác xây dựng Đảng vẫn cịn khơng ít hạn
chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm
kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu
không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự
tồn vong của chế độ. Nổi lên một số vấn đề cấp bách sau đây:
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên
giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng


12

chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý
tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi,

tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vơ ngun tắc...
Đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược rất quan trọng nhưng
chưa được xây dựng một cách cơ bản. Công tác quy hoạch cán bộ mới tập trung
thực hiện ở địa phương, chưa thực hiện được ở cấp trung ương, dẫn đến sự hẫng
hụt, chắp vá, không đồng bộ và thiếu chủ động trong cơng tác bố trí, phân cơng
cán bộ. Một số trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật cơng tâm, khách
quan, khơng vì u cầu cơng việc, bố trí khơng đúng sở trường, năng lực, ảnh
hưởng đến uy tín cơ quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa phương và cả
nước.
Nguyên tắc "tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách" trên thực tế ở nhiều nơi
rơi vào hình thức, do khơng xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa
tập thể và cá nhân, khi sai sót, khuyết điểm khơng ai chịu trách nhiệm. Do vậy,
vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa
không khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám
làm, tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền lực một
cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân.
Tình hình trên đây có nguyên nhân khách quan do việc thực hiện đổi mới
kinh tế phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, chưa lường hết được những tác động
của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế, chưa có sự chuẩn bị thật kỹ về
lập trường, tư tưởng và cả cách thức tiếp cận mới cho cán bộ, đảng viên. Đặc
biệt, cịn thiếu những cơ chế, chính sách đồng bộ, khoa học để chủ động ngăn
ngừa những vi phạm.
Đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
hội nhập quốc tế, xây dựng, phát triển với quy mô ngày càng lớn, một bộ phận
cán bộ lãnh đạo, quản lý nắm giữ khối lượng tài sản, nguồn vốn lớn của tập thể,
của Nhà nước, đó là môi trường để chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, thực dụng phát
triển.


13


Trong khi đó, các thế lực thù địch khơng từ bỏ âm mưu và hoạt động
"diễn biến hịa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", tăng cường hoạt
động chống phá, chia rẽ nội bộ Đảng và phá hoại mối quan hệ gắn bó giữa Đảng
với nhân dân, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng.
Nhưng chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan là: Cán bộ, đảng viên
thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn
phận trước Đảng, trước nhân dân. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây dựng, chỉnh
đốn Đảng ở một số nơi chưa đến nơi đến chốn, kỷ cương, kỷ luật khơng nghiêm,
nói khơng đi đơi với làm, hoặc làm chiếu lệ.
Các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi
vừa bị bng lỏng trong thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể để làm cơ sở
cho công tác kiểm tra, giám sát. Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế,
chính sách, pháp luật thích ứng với q trình vận hành của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa chưa kịp thời; nhiều văn bản quy định thiếu chế tài
cụ thể. Đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ cịn nể nang, cục bộ, chưa chú trọng
phát hiện và có cơ chế thật sự để trọng dụng người có đức, có tài; khơng kiên
quyết thay thế người vi phạm, uy tín giảm sút, năng lực yếu kém.
Cơng tác tun truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống
nhiều khi cịn hình thức, chưa đủ sức động viên và thường xuyên nâng cao ý chí
cách mạng của cán bộ, đảng viên; một số nơi có tình trạng những việc làm đúng,
gương người tốt không được đề cao, bảo vệ; những sai sót, vi phạm khơng được
phê phán, xử lý nghiêm minh. Cơng tác kiểm tra, giám sát, giữ gìn kỷ cương, kỷ
luật ở nhiều nơi, nhiều cấp chưa thường xuyên, ráo riết; đấu tranh với những vi
phạm còn nể nang, khơng nghiêm túc. Vai trị giám sát của nhân dân thơng qua
Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội chưa được phát huy, hiệu
quả chưa cao. [ 24]



14

1.1.2. Nội dung cơ bản của Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số
vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”
Nghị quyết xác định mục tiêu: Phải tạo được sự chuyển biến rõ rệt, khắc
phục được những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, nhằm xây
dựng Đảng ta thật sự là đảng cách mạng chân chính, ngày càng trong sạch, vững
mạnh, khơng ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng
cố niềm tin trong Đảng và nhân dân, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
thực hiện thắng lợi chủ trương, nghị quyết của Đảng.
Về phương châm: Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, khách
quan, không nể nang, né tránh. Các giải pháp phải bảo đảm đồng bộ, có trọng
tâm, trọng điểm, khả thi, kết hợp "chống và xây", "xây và chống", nói đi đơi với
làm, tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc, trì trệ nhất. Chỉ đạo, tổ chức
thực hiện với trách nhiệm và quyết tâm chính trị cao trong tồn Đảng. Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy đảng, cán bộ chủ chốt,
nhất là cấp trung ương, người đứng đầu làm trước và phải thật sự gương mẫu để
cho các cấp noi theo. Phải làm kiên quyết, kiên trì, xác định rõ lộ trình thực hiện,
thời gian hoàn thành, làm từng bước vững chắc, thường xuyên kiểm tra, giám sát
chặt chẽ. Làm tốt nhiệm vụ xây dựng Đảng cũng chính là để thúc đẩy thực hiện
nhiệm vụ chính trị. Phải bình tĩnh, tỉnh táo, khơng nóng vội, cực đoan; đồng thời
khơng để rơi vào trì trệ, hình thức, khơng chuyển biến được tình hình; giữ đúng
ngun tắc, không để các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội lợi dụng, kích
động, xuyên tạc, đả kích gây rối nội bộ.
Cùng với việc tiếp tục thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, các
quy định đã có về xây dựng Đảng, cần tập trung thực hiện tốt các nhóm giải
pháp sau đây:
(1) Nhóm giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong,
gương mẫu của cấp trên
Một là, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương tập trung

kiểm điểm, đánh giá làm rõ tại sao những hạn chế, khuyết điểm đã chỉ ra nhiều


15

năm nhưng chậm được khắc phục, có mặt cịn yếu kém, phức tạp thêm; làm rõ
nguyên nhân trở ngại trong việc lãnh đạo thực hiện các nghị quyết của Trung
ương về xây dựng Đảng.
Hai là, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp
hành Trung ương tiến hành kiểm điểm, đánh giá liên hệ bản thân về kết quả thực
hiện nhiệm vụ được giao liên quan đến một số vấn đề cấp bách nêu trong Nghị
quyết này, đề ra biện pháp khắc phục. Tập trung làm rõ trách nhiệm cá nhân,
gương mẫu thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách, tự phê bình và phê bình, nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức, lối
sống.
Ba là, các đồng chí ủy viên ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực
thuộc Trung ương, lãnh đạo các ban của Trung ương Đảng, ban thường vụ các
tỉnh ủy, thành ủy và cấp ủy các cấp nghiêm túc kiểm điểm, tự phê bình và phê
bình, nêu gương bằng hành động thực tế. Trong quá trình kiểm điểm cần liên hệ,
gắn với xem x ét việc thực hiện các quy chế, quy định; việc giải quyết những
vấn đề về tổ chức, cán bộ; về giải quyết những vấn đề bức xúc của ngành, cơ
quan hoặc địa phương.
(2) Nhóm giải pháp về tổ chức, cán bộ và sinh hoạt đảng
Một là, mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý kiểm
điểm, liên hệ theo chức trách, nhiệm vụ được giao, tự phê bình và phê bình
thẳng thắn, dân chủ, nghiêm túc, chân thành, gắn với thực hiện Quy định về
những điều đảng viên không được làm, theo cương vị công tác. Làm tốt việc
kiểm điểm để có căn cứ xem xét, sàng lọc đội ngũ cán bộ của cả hệ thống chính
trị và chuẩn bị quy hoạch cấp ủy, các chức danh chủ chốt các cấp nhiệm kỳ tới.
Hai là, phát huy dân chủ thật sự trong Đảng, thực hiện nghiêm túc Quy

chế chất vấn trong Đảng, nhất là chất vấn tại các kỳ họp Ban Chấp hành Trung
ương và cấp ủy các cấp. Đổi mới cách lấy phiếu tín nhiệm để đánh giá, nhận xét
cán bộ theo hướng mở rộng đối tượng tham gia. Những người không đủ năng


16

lực, khơng hồn thành nhiệm vụ, có tín nhiệm thấp cần được sắp xếp phù hợp,
có cơ chế kịp thời thay thế không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác.
Ba là, tiếp tục thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh cán bộ chủ
chốt ở cấp tỉnh, cấp huyện không phải là người địa phương. Thực hiện nghiêm
việc kê khai tài sản theo quy định của Đảng và Nhà nước. Kê khai tài sản phải
trung thực và được công khai ở nơi công tác và nơi cư trú.
Bốn là, thí điểm giao quyền cho bí thư cấp ủy lựa chọn, giới thiệu để bầu
cử ủy viên thường vụ cấp ủy; cấp trưởng có trách nhiệm lựa chọn, giới thiệu để
bầu cử, bổ nhiệm cấp phó; thí điểm chế độ tiến cử, chế độ tập sự lãnh đạo quản
lý; thực hiện q uy trình giới thiệu nhân sự theo hướng những người được dự kiến
đề bạt, bổ nhiệm phải trình bày đề án hoặc chương trình hành động trước khi cấp
có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Năm là, chấn chỉnh tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, đảng bộ; thực hiện
nghiêm nguyên tắc tự phê bình và phê bình.
Sáu là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều
tra, truy tố, xét xử để nâng cao hiệu quả cơng tác phịng, chống tham nhũng,
lãng phí. Sớm tổng kết tồn diện cơng tác đấu tranh phịng, chống tham nhũng,
lãng phí, thực hành tiết kiệm; bổ sung, sửa đổi Luật Phịng, chống tham nhũng.
Kiện tồn và tăng cường trách nhiệm, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan
phòng, chống tham nhũng. Xét xử nghiêm những vụ án tham nhũng, trước hết là
những vụ nghiêm trọng, phức tạp, được nhân dân quan tâm.
Bảy là, định kỳ tổ chức để nhân dân góp ý kiến xây dựng Đảng thơng qua

Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội.
(3) Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách
Một là, khẩn trương rà soát, loại bỏ các cơ chế, chính sách đã lạc hậu, xây
dựng, ban hành đồng bộ các chính sách để đổi mới mạnh mẽ cơng tác cán bộ.


17

Trọng tâm là đánh giá cán bộ, xây dựng tiêu chuẩn cán bộ theo chức danh, tiêu
chí đánh giá cán bộ làm cơ sở cho việc quy hoạch, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng,
bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ; quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của
người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng và cơ quan, đơn vị. Ban hành quy chế để
hằng năm Ban Chấp hành Trung ương góp ý kiến, thể hiện sự tín nhiệm đối với
tập thể và từng thành viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư; ban chấp hành đảng bộ các
cấp góp ý kiến, thể hiện sự tín nhiệm đối với tập thể và từng thành viên ban
thường vụ cấp ủy cấp mình.
Hai là, rà sốt cơ chế, chính sách và ban hành văn bản quy phạm pháp
luật để quản lý, kiểm soát chặt chẽ vốn và tài sản nhà nước.
Ba là, tích cực thực hiện cải cách hành chính nhà nước và cải cách hành
chính trong Đảng. Rà sốt, loại bỏ những cơ chế, chính sách khơng cịn phù hợp,
cản trở việc thực thi công vụ của cán bộ, công chức; sửa đổi, bổ sung hoặc ban
hành mới các quy định của Đảng và Nhà nước theo hướng đề cao hơn trách
nhiệm và quyền hạn của người đứng đầu trong mối quan hệ giữa tập thể và cá
nhân, vừa phải tôn trọng nguyên tắc tập thể, vừa phải phát huy vai trị cá nhân
người đứng đầu; khuyến khích, bảo vệ người dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng.
Bốn là, đẩy nhanh việc cải cách, thực hiện sớm chế độ tiền lương, nhà ở,
chống bình quân, cào bằng; đồng thời chống đặc quyền, đặc lợi; gắn với tinh
giảm biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức.
Năm là, trong năm 2012 ban hành quy chế giám sát (trực tiếp và gián tiếp)

của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và chính quyền các cấp;
trong đó có cơ chế giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã
hội, việc tổ chức lấy ý kiến đóng góp của các chuyên gia, nhà khoa học; cơ chế
để Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý
xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.


18

(4) Nhóm giải pháp về cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng
Một là, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị 03-CT/TW, ngày 14-5-2011 của Bộ Chính trị;
tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc làm theo gương Bác một cách thiết thực, hiệu
quả.
Hai là, đổi mới cơng tác tun truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo
đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên gắn với việc kiểm điểm, đánh giá và biện
pháp giải quyết vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng của các cấp theo
tinh thần Nghị quyết này, tạo niềm tin trong Đảng và nhân dân.
Ba là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Đưa vào
nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên,
nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp trung ương.
Bốn là, chấn chỉnh hoạt động thông tin, tuyên truyền; quản lý có hiệu quả
hoạt động báo chí theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước. Chú trọng làm
tốt hơn việc nêu gương những người tốt, việc tốt; lấy nhân tố tích cực để đẩy lùi
tiêu cực; đồng thời phê phán, đấu tranh với những biểu hiện sa sút về tư tưởng
chính trị, vơ trách nhiệm, vụ lợi cá nhân, vi phạm những chuẩn mực đạo đức, lối
sống... Tập trung chấn chỉnh, quản lý thông tin trên mạng Internet, các mạng xã
hội và blog cá nhân.
Năm là, cán bộ chủ chốt và cán bộ dân cử các cấp phải thường xuyên tiếp
xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân, chủ động nắm bắt tâm tư, đánh giá, dự báo

diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và có biện pháp giải quyết kịp thời.
Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hịa
bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phịng ngừa, đấu tranh, phê phán
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng. Giữ gìn sự
đồn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. [24].
1.2. Sự cần thiết của việc thực hiện Nghị quyết Trung ƣơng 4 (khóa
XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”


19

1.2.1. Về phương diện lý luận
1.2.1.1. Chủ nghĩa Mác-Lênin khảng định vai trị, vị trí của Đảng Cộng
sản là đội tiền phong của giai cấp công nhân
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất hiện một cách khách quan,
song để biến khả năng khách quan đó thành hiện thực phải thông qua những
nhân tố chủ quan. Trong những nhân tố chủ quan ấy, việc thành lập ra Đảng
Cộng sản trung thành với sự nghiệp, lợi ích của giai cấp công nhân là yếu tố
quyết định nhất đảm bảo cho giai cấp cơng nhân có thể hồn thành sứ mệnh lịch
sử của mình.
Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học đã khẳng định rằng, thông
qua cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, giai cấp công nhân phát triển từ trình
độ tự phát lên trình độ tự giác, chuyển từ giai cấp “tự nó” thành giai cấp “vì nó”.
Q trình đó tất yếu phải diễn ra ở mọi phong trào cơng nhân. Thế nhưng q
trình đó diễn ra nhanh hay chậm, thuận lợi hay khó khăn thì điều đó phụ thuộc
vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin diễn ra như thế nào, chủ nghĩa đó có
chiến thắng được các trào lưu xã hội- dân chủ và cơ hội chủ nghĩa trong phong
trào công nhân hay khơng. Nếu phong trào chỉ dừng lại ở trình độ “tự nó”, thì
phong trào cơng nhân mới mang ý nghĩa cơng liên chủ nghĩa mà thơi. Phải có
chủ nghĩa Mác soi sáng giai cấp cơng nhân mới đạt được trình độ nhận thức lý

luận về vai trò lịch sử của mình. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào phong
trào cơng nhân dẫn đến sự hình thành chính đảng của giai cấp công nhân.
V.I.Lênin chỉ ra rằng, Đảng là sự kết hợp phong trào công nhân với chủ nghĩa xã
hội khoa học. Nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp ấy là sản phẩm của lịch sử lại
được thực hiện bằng những con đường đặc biệt, tùy theo điều kiện không gian
và thời gian.
Chủ nghĩa Mác đã đi đến khẳng định, chỉ có Đảng Cộng sản lãnh đạo, giai
cấp cơng nhân mới chuyển từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác với tư


20

cách là một giai cấp tự giác và thực sự cách mạng. C.Mác đã nhấn mạnh rằng,
trong cuộc đấu tranh của mình chống lại quyền lực liên hiệp của giai cấp hữu
sản, chỉ khi nào giai cấp vô sản tự mình tổ chức được thành một chính đảng độc
lập của mình chống lại quyền lực liên hiệp của giai cấp hữu sản lập ra mới có
thể hành động với tư cách là một giai cấp được.
Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ
rõ, rằng khác với đảng công nhân khác, trong cuộc đấu tranh của những người
vô sản thuộc các dân tộc khác nhau, những người cộng sản luôn luôn đặt lên
hàng đầu và bảo vệ lợi ích chung của phong trào vơ sản thế giới mà không phụ
thuộc vào dân tộc. Các ông nhấn mạnh: “…về mặt thực tiễn, những người cộng
sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ
phận luôn thúc đẩy phong trào tiến lên; về mặt lý luận, họ hơn bộ phận cịn lại
của giai cấp vơ sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả
chung của phong trào vô sản” [26; 614- 615].
C.Mác và Ph.Ăngghen đòi hỏi về mặt lý luận Đảng Cộng sản phải được
vũ trang bằng lý luận tiên tiến, có trình độ giác ngộ cao; đồng thời, trong thực
tiễn, đảng phải là người kiên quyết nhất và biết lôi cuốn quần chúng cùng hành
động.

Từ việc xác định vai trò của Đảng trong phong trào cơng nhân, C.Mác và
Ph.Ăngghen địi hỏi Đảng Cộng sản phải được tổ chức chặt chẽ và có kỷ luật
nghiêm minh, bắt buộc đối với mọi đảng viên, “Vì rằng thành công của phong
trào công nhân mỗi nước chỉ có thể được bảo đảm bằng lực lượng đồn kết và tổ
chức”.
Dưới sự chỉ đạo của hai ông, Điều lệ của “Đồng minh những người cộng
sản” được khởi thảo. Điều lệ quy định: Đảng phải là một đội ngũ có tổ chức tập
trung chặt chẽ; các cơ quan lãnh đạo của Đảng phải được bầu cử một cách dân
chủ và họ có thể bị bãi miễn bất kỳ lúc nào nếu họ khơng hồn thành được
nhiệm vụ của tổ chức trao cho; Đảng phải là một khối thống nhất về chính trị, tư


21

tưởng và tổ chức. Chỉ có thể kết hợp chặt chẽ sự thống nhất về tư tưởng với sự
thống nhất về tổ chức, dựa trên nền tảng vững chắc của chủ nghĩa xã hội khoa
học mới làm cho Đảng trở thành một lực lượng chính trị có khả năng thu hút
được đơng đảo quần chúng nhân dân theo mình trong cuộc đấu tranh chống lại
giai cấp tư sản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Các văn kiện của “Đồng minh những người cộng sản”, của Quốc tế I cũng
như trong hoạt động thực tiễn của các tổ chức đó đã nói lên rằng, tập trung dân
chủ là cơ sở xây dựng tổ chức, mặc dù lúc đó chưa có thuật ngữ này. Tất cả các
thành viên của “Đồng minh” đều tham gia bầu cử các cơ quan lãnh đạo, tham
gia ý kiến vào dự thảo và thông qua Cương lĩnh, Điều lệ. C.Mác và Ph.Ăngghen
đã không ngừng đấu tranh để xây dựng và củng cố sự thống nhất về chính trị, tư
tưởng và tổ chức đội ngũ đảng. Hai ông đã đấu tranh rất kiên quyết chống lại
những phần tử cơ hội và những người vi phạm kỷ luật của Đảng và chủ trương
phải tẩy trừ những phần tử cơ hội ra khỏi Đảng. Trên thực tế, hai ông đã đấu
tranh không khoan nhượng chống những quan điểm cơ hội, vô chính phủ của
Bacunin và đã khia trừ Bacunin ra khỏi Quốc tế I.

Những tư tưởng thiên tài của C.Mác và Ph.Ăngghen về Đảng Cộng sản đã
có ảnh hưởng to lớn, trực tiếp đến sự phát triển của toàn bộ phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế. Quốc tế I (1864- 1872) và Quốc tế II (1889- 1914) trong
thời kỳ đầu hoạt động của mình (khi Ph.Ăngghen đang cịn sống) đã góp phần to
lớn vào việc phát triển phong trào cách mạng và việc ra đời hàng hoạt đảng cộng
sản trên thế giới.
Trên cơ sở những quan điểm có tính chất đặt nền móng về Đảng Cộng sản
của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã vận dụng, kế thừa và sáng tạo ra học
thuyết về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là thời kỳ đánh dấu một bước ngoặt quan
trọng của phong trào công nhân quốc tế. Lúc này CNTB đã bước vào giai đoạn
cao, giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Giai cấp tư sản đã trở thành lực lượng phản


22

động, cản trở thành lực lượng phản động, cản trở sự phát triển của xã hội. Tính
chất phản động của nó đã bao trùm lên nhiều lĩnh vực của xã hội tư bản. Dựa
vào những kết luận trong Bộ Tư bản của Mác, Lênin đã phân tích một cách sâu
sắc CNTB trong giai đoạn mới và chỉ ra rằng, chủ nghĩa đế quốc là đêm trước
của cách mạng vô sản; rằng, trên thực tế đã có những “điều kiện khách quan để
lật đổ chế độ tư bản”.
Đồng thời trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công
nhân cũng đã lớn mạnh không ngừng về số lượng và chất lượng, về chính trị và
tổ chức, ý thức giác ngộ được nâng cao. Những cuộc đấu tranh mạng mẽ ở nhiều
nước châu Âu đã chứng minh rằng, giai cấp cơng nhân đã hồn tồn có khả năng
đồn kết chung quanh mình những người bị áp bức và bóc lột để lật đổ chủ
nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới. Cách mạng vô sản đã trở thành một vấn đề
thực tiễn trước mắt. V.I.Lênin đưa ra khẩu hiệu như một lời hiệu triệu: “Vơ sản
tồn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”.

Những điều kiện lịch sử mới địi hỏi giai cấp cơng nhân phải có đường lối
chiến lược, sách lược mới; địi hỏi Đảng phải là một đội tiên phong chính trị có
khả năng lãnh đạo cuộc đấu tranh mới. Trong khi đó, các lãnh tụ cơ hội của
Quốc tế II đã xét lại chủ nghĩa Mác, biến các đảng Dân chủ - Xã hội thành các
đảng cải lương, thực hiện chính sách đầu hàng giai cấp tư sản. V.I.Lênin đá đấu
tranh không khoan nhượng đối với các quan điểm cơ hội, xét lại của họ và phát
triển sáng tạo những luận điểm của C.Mác và Ph.Angghen về Đảng Cộng sản,
xây nên học thuyết về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
1.2.1.2. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò tiên phong của
Đảng Cộng sản Việt Nam
Là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xây dựng
và rèn luyện Đảng Cộng sản thành một Đảng cách mạng chân chính, bộ tham
mưu sáng suốt và kiên cường của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, để
lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước và đưa cả nước đi lên CNXH. Trong những di sản tư tưởng mà


23

Người để lại, những luận điểm của Người về Đảng Cộng sản, về xây dựng và
chỉnh đốn đảng, đặc biệt trong điều kiện đảng lãnh đạo chính quyền là một phần
quan trọng. Quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người nhằm chỉnh đốn
và đổi mới Đảng, làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là
lực lượng chính trị lãnh đạo tồn xã hội, là một trong những nhiệm vụ chủ yếu
của toàn Đảng, toàn dân ta. Đây thực sự là vấn đề then chốt đảm bảo thắng lợi
cho công cuộc đổi mới đang được triển khai rộng khắp trên cả nước hiện nay.
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin cũng như truyền thống
của dân tộc, Hồ Chí Minh đã khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân. Nhưng quần chúng nhân dân phải được giác ngộ, được tổ chức,
được lãnh đạo theo một đường lối đúng đắn thì mới trở thành lực lượng to lớn,

như nhiều chiếc đũa bó thành một bó, chứ khơng phải “mỗi chiếc một nơi”, như
con thuyền phải có người cầm lái vững vàng theo một phương hướng đúng đắn
thì thuyền với vượt qua được gió to sóng cả để đi đến bờ đến bến. Từ đó, Người
đặt vấn đề: “Cách mạng trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách
mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc
bị áp bức và vơ sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mạng mới thành cơng,
cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy” [14; t.2; 267- 268].
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, ở Việt Nam đã xuất hiện
nhiều phong trào yêu nước, nhiều tổ chức chính trị đấu tranh chống thực dân
Pháp: Văn Thân, Cần Vương, Nghĩa quân Yên Thế, Đông Du, Đông Kinh Nghĩa
Thục, Việt Nam Quang phục hội, Tâm tâm xã, Việt Nam quốc dân Đảng… Các
phong trào, các tổ chức ấy đã để lại nhiều trang sử vẻ vang, nhiều tấm gương
oanh liệt thôi thúc tinh thần đấu tranh của nhân dân cả nước. Nhưng vì bị hạn
chế trong khn khổ của ý thức phong kiến hay tư sản, tiểu tư sản mà thời đại đã
vượt qua, tất cả đã không đưa ra được một sự phân tích đúng đắn về kinh tế - xã
hội, về giai cấp, đặc biệt là về giai cấp công nhân và giai cấp nông dân trong
cách mạng Việt Nam, về mỗi quan hệ của cách mạng Việt Nam với cách mạng
thế giới… Do đó đã khơng thể đề ra được đường lối và phương hướng cách


24

mạng đúng đắn, làm cho cách mạng vẫn như đi trong đêm tối mà chưa biết
đường ra, không tập hợp và phát huy được lực lượng to lớn của dân tộc, không
gắn được cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, khiến cho mọi cuộc đấu
tranh đều bị thất bại.
Trực tiếp tham gia phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân
tộc, Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lênin,
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin phân tích đúng đắn tình hình kinh tế xã hội và giai cấp ở Việt Nam, thấy rõ được vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai
cấp cơng nhân Việt Nam, từ đó rút ra những kết luận rất mới mẻ, đặc biệt là mỗi

quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong cách mạng Việt Nam. Đây chính là cơ sở
tư tưởng và lý luận để đi tới xác định được đường lối và phương pháp cách
mạng đúng đắn.
Như Hồ Chí Minh đã khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng
của giai cấp công nhân Việt Nam, là đội tiên phong của giai cấp cơng nhân, có
khả năng đồn kết, “tập hợp”, “lôi kéo” các tầng lớp nhân dân khác đứng lên
làm cách mạng. Đây “là đội tiền phong, là bộ phận tham mưu của giai cấp vô
sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc”. Hơn nữa nó cịn phải là “đội tiên
phong dũng cảm và đội tham mưu sáng suốt”, để xứng đáng với vai trò lãnh đạo
sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ lịch sử mới. Bao giờ Đảng cũng “tận tâm tận
lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân”, “trung thành tuyệt đối với lợi ích của giai
cấp, của nhân dân, của dân tộc”, “ngồi lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của
dân tộc, Đảng khơng có lợi ích gì khác”. Đó là độc lập cho dân tộc, tự do cho
nhân dân, ấm no hạnh phúc cho mỗi con người, xây dựng đất nước giàu mạnh đi
lên CNXH, sống hịa bình hữu nghị với tất cả các dân tộc khác.
Từ việc khảng định vai trò to lớn của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng
của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln luôn coi trọng công tác xây dựng, chỉnh
đốn và tự đổi mới Đảng. Người coi đây như là yếu tố sống còn và quyết định
đến sứ mệnh to lớn của Đảng.


25

Để xứng đáng là một Đảng cách mạng chân chính lãnh đạo sự nghiệp
chách mạng mạng to lớn của giai cấp và dân tộc, một Đảng “vừa là đạo đức, vừa
là văn minh”, một Đảng tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và
thời đại, Đảng phải thường xuyên chăm lo đến việc chỉnh đốn và tự đổi mới bản
thân mình. Chỉnh đốn và đổi mới Đảng là làm cho Đảng thực sự trong sạch vững
mạnh cả về ba mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước những yêu cầu của

nhiệm vụ cách mạng.
Nói chuyện với Hội nghị bồi dưỡng chỉnh huấn đầu năm 1965, Hồ Chí
Minh đã nhận định, bên cạnh số đông đảng viên xứng đáng với danh hiệu của
mình thì vẫn có một số “thấp kém về tinh thần và đạo đức cách mạng… Họ
hững hờ như những người khơng có lý tưởng, đến đâu hay đến đó, qua tháng
qua ngày… Họ ít gắn bó với tổ chức, khơng tin ở lực lượng và trí tuệ của tập
thể. Họ sống và làm việc một cách riêng rẽ, khơng đồn kết và hợp tác với người
khác. Hễ có đơi chút hiểu biết, đơi chút thành cơng thì tự cao tự đại, vênh vang
kiêu ngạo, tự cho mình tài giỏi hơn người. Ở cương vị phụ trách thì tự cho mình
có quyền hơn hết thảy, định đoạt mọi việc; ở ngành nào, địa phương nào thì coi
đó như một giang sơn riêng, khơng biết đến lợi ích tồn cục. Họ coi thường
những quyết định của tổ chức, họ là những “ông quan liêu”, chỉ biết dùng mệnh
lệnh đối với đồng chí và nhân dân…số người đó coi Đảng như một cái cầu thang
để thăng quan phát tài. Họ không quan tâm đến đời sống của nhân dân mà chỉ lo
nghĩ đến lợi ích của riêng mình. Họ qun rằng mỗi đồng tiền bát gạo đều là mồ
hôi nước mắt của nhân dân, do đó mà sinh ra phơ trương, lãng phí. Họ cho mình
có quyền sống xa hoa hưởng lạc, từ đó mà đi đến tham ơ trụy lạc, thậm chí sa
vào tội lỗi”. Phải chỉnh huấn để tẩy rửa tất cả những lỗi lầm, sai lầm ấy.
Đối với toàn Đảng, Người cũng chỉ rõ là Đảng sống trong xã hội, mỗi cán
bộ, đảng viên đều chịu ảnh hưởng của xã hội, cả cái tốt và cái xấu, cái hay và cái
dở. Chỉ có thể phát huy được cái tốt, cái hay, lọc bỏ được cái xấu, cái dở bằng


×