Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Thương mại điện tử trên mạng xã hội tại Việt Nam: Một số vấn đề pháp lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.21 MB, 48 trang )

PHỊNG THƯƠNG MẠI
VÀ CƠNG NGHIỆP VIÊT NAM

01

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRÊN MẠNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRÊN MẠNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM

Hà Nội, tháng 3/2021



BÁO CÁO NGHIÊN CỨU

THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRÊN MẠNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ

Hà Nội, tháng 3/2021


02

LỜI NÓI ĐẦU

LỜI NÓI ĐẦU

Hoạt động thương mại điện tử (TMĐT) tại Việt Nam hiện đang trong giai đoạn bùng
nổ với tăng trưởng hàng năm ở mức rất cao. Ngoài các website và sàn giao dịch


TMĐT thì hoạt động giao dịch, mua bán hàng hố, dịch vụ thơng qua phương tiện là
mạng xã hội hiện cũng đang thu hút số lượng rất lớn các cá nhân, doanh nghiệp.
Xu hướng sử dụng mạng xã hội làm kênh tiếp thị, phân phối đang có chiều hướng
gia tăng trong thời gian trở lại đây.
Về mặt pháp lý, các khuôn khổ cho hoạt động TMĐT, hoạt động của mạng xã hội
đã được xây dựng chủ yếu từ năm 2013. Tuy nhiên, do các quy định này được xây
dựng trong giai đoạn đầu của TMĐT, rất nhiều vấn đề chưa được đề cập hoặc được
quy định rất chung chung, chỉ mang tính nguyên tắc nên gây khó khăn trong q
trình áp dụng. Hơn nữa, do thực tiễn hoạt động TMĐT trên internet phát triển quá
nhanh nên nhiều quy định đã trở nên lạc hậu. Chính vì vậy, pháp luật về quản lý
mạng xã hội và thương mại điện tử đang được rà soát và dự kiến sửa đổi trong thời
gian tới.
Báo cáo này được xây dựng bởi các chuyên gia của Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam tập trung vào các vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động có yếu
tố TMĐT thơng qua công cụ mạng xã hội tại Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu
chủ yếu là rà soát quy định pháp luật và phỏng vấn sâu các đối tượng có liên quan.
Nghiên cứu cho thấy hoạt động có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội khá đặc thù và
khơng hồn tồn giống với bất kỳ một hình thức TMĐT nào, bao gồm cả sàn thương
mại điện tử. Một trong những điểm khác biệt nổi bật giữa mạng xã hội và sàn TMĐT
là cho đến nay các mạng xã hội chưa có chức năng đặt hàng trực tuyến. Người
mua và người bán vẫn phải liên hệ trực tiếp với nhau để hoàn thành giao dịch
thương mại. Trong khi đó các sàn TMĐT có thể có chức năng đặt hàng trực tuyến
và cho phép giao dịch TMĐT được hồn tất trên mơi trường mạng từ khâu đặt hàng
cho đến khâu vận chuyển và giao hàng. Một số mạng xã hội có bổ sung chức năng
hỗ trợ hoạt động có yếu tố TMĐT (như Marketplace của Facebook hay Shop của
Zalo) nhưng chức năng này mới chỉ dừng lại ở khâu giới thiệu sản phẩm và cung
cấp thơng tin, chưa có chức năng đặt hàng trực tuyến. Thực tiễn này đòi hỏi pháp
luật về TMĐT cũng cần có những quy định phù hợp để quản lý hiệu quả cũng như
tạo điều kiện cho các hoạt động TMĐT phát triển. Việc quản lý hoạt động có yếu tố


BÁO CÁO NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRÊN MẠNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM : MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ


LỜI NĨI ĐẦU

03

TMĐT trên mạng xã hội cần có những khác biệt với các loại hình TMĐT khác để
phù hợp với bản chất của hoạt động này và có tính khả thi.
Dựa trên những nghiên cứu và phân tích về thực tiễn hoạt động và quản lý hoạt
động có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội, báo cáo đã đề xuất một số chính sách
quản lý đối với hoạt động này. Một số kiến nghị chính bao gồm:
1. Các quy định liên quan đến hoạt động có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội
cần dựa trên cơ sở pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và quảng cáo.
Theo đó, các quy định nên tập trung vào nghĩa vụ của người sử dụng khi đăng
thông tin mua bán hàng hoá, dịch vụ trên mạng xã hội, thay vì tập trung vào các
nghĩa vụ của mạng xã hội (tham khảo mơ hình quản lý mạng xã hội của cộng
đồng châu Âu).
2. Cần áp dụng cơ chế quản lý riêng và phù hợp đối với từng loại hoạt động
có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội, cụ thể là:
>> i. Đối với những thông tin thương mại được đăng tải trên mạng xã hội
thuần túy khơng có chức năng hỗ trợ thương mại hay đặt hàng trực tuyến
thì nên được quản lý theo các quy định pháp luật về quản lý, cung cấp và
sử dụng thông tin trên mạng (Nghị định 72/2013/NĐ-CP).
>> ii. Đối với các thông tin thương mại được đăng tải trên các mạng xã hội
có chức năng hỗ trợ thương mại (như Marketplace của Facebook hay Zalo
Shop, v.v.) nhưng khơng có chức năng đặt hàng trực tuyến thì nên được
quản lý theo tiêu chuẩn thương mại, xác thực người dùng ở mức độ thấp
theo pháp luật về TMĐT.
>> iii. Đối với các hoạt động có yếu tố TMĐT trên các mạng xã hội có chức

năng đặt hàng trực tuyến thì nên quản lý tương tự như sàn giao dịch TMĐT
có chức năng đặt hàng trực tuyến.
3. Vấn đề quản lý thuế của các cá nhân, tổ chức bán hàng trên các nền tảng
thương mại điện tử (bao gồm cả sàn giao dịch TMĐT và mạng xã hội) cần có cơ
chế rõ ràng và linh hoạt để các chủ thể có liên quan có thể trực tiếp hoặc ủy
quyền cho một bên thứ ba (như đại lý thuế, các công ty dịch vụ về thuế, kiểm
toán, pháp lý, v.v.) để kê khai và nộp thuế.
4. Đối với các hoạt động có yếu tố TMĐT xuyên biên giới, các cơ quan quản lý
cần nắm vững cơ chế hoạt động của các nền tảng mạng xã hội xuyên biên giới để

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRÊN MẠNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM : MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ


04

LỜI NÓI ĐẦU

xây dựng các quy định quản lý hoạt động của các nền tảng này một cách hiệu
quả, hợp lý và khả thi. Ví dụ, thay vì đặt ra những nghĩa vụ mang tính hình thức
như đặt văn phịng đại diện hay chỉ định đại diện pháp lý tại Việt Nam, nên cân
nhắc những quy định thực chất hơn như u cầu các thương nhân nước ngồi
thơng báo hoạt động (với đầu mối liên lạc) để các cơ quan quản lý gửi yêu cầu
hỗ trợ xác minh và xử lý hành vi vi phạm pháp luật theo trình tự phù hợp.
Chúng tôi hy vọng báo cáo này cung cấp một bức tranh tổng thể về hoạt động
có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội và những kiến nghị chính sách phù hợp cho
việc quản lý những hoạt động này.

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRÊN MẠNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM : MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ



LỜI NÓI ĐẦU

05

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRÊN MẠNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU

2

01. GIỚI THIỆU

8

1. Bối cảnh
2. Mục đích nghiên cứu
3. Phương pháp nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
02. THỰC TIỄN VÀ XU HƯỚNG CỦA HOẠT ĐỘNG CÓ YẾU TỐ TMĐT TRÊN MẠNG XÃ HỘI
TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY

8
9
9
10

11


1. Tổng quan về thị trường TMĐT
2. Mạng xã hội và hoạt động có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội

11
14

3. Xu hướng phát triển của hoạt động có yếu tố TMĐT trên các mạng xã hội

17

03. CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CÓ YẾU TỐ TMĐT TRÊN MẠNG XÃ HỘI

20

1. Phân biệt hoạt động có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội và sàn giao dịch TMĐT 20
1.1. Định nghĩa mạng xã hội và sàn giao dịch TMĐT
21
1.2. Phân biệt về dữ liệu và thông tin đăng tải
22
1.3. Phân biệt theo chức năng đặt hàng trực tuyến
23
1.4. Phân biệt về chức năng hỗ trợ thương mại
26
1.5. Phân biệt chức năng giới thiệu thương nhân và chức năng mua bán
sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ
28
2. Nghĩa vụ kiểm sốt thơng tin đăng tải
30
2.1. Đối với các thơng tin đăng tải bình thường của người dùng Tiêu chuẩn

cộng đồng
30
2.2. Đối với các thông tin sử dụng chức năng chuyên biệt hỗ trợ thương mại
trên các mạng xã hội – Tiêu chuẩn thương mại
32
3. Kiểm tra, giám sát nội dung thương mại trên mạng xã hội
32
4. Thông tin khai báo và xác thực người dùng thương mại
34
5. Thực hiện yêu cầu của cơ quan nhà nước
35
6. Quản lý thuế
36
7. Thương mại điện tử xuyên biên giới
38
7.1. TMĐT trên mạng xã hội xuyên biên giới tại Việt Nam
38
7.2. Quản lý hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu giao dịch qua TMĐT
40
8. Người nổi tiếng bán hàng
IV. KIẾN NGHỊ

41
43


07

01


______________

GIỚI THIỆU
1. Bối cảnh

8

2. Mục đích nghiên cứu

9

3. Phương pháp nghiên cứu

9

4. Phạm vi nghiên cứu

10


08

GIỚI THIỆU

GIỚI THIỆU

1. Bối cảnh
Trong những năm gần đây, mơ hình kinh doanh trên tồn cầu tiếp tục thay đổi
đáng kể với sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của TMĐT. Mơ hình kinh doanh này
đã có những đóng góp lớn cho sự tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh thế giới

đang bước vào cuộc cách mạng 4.0.
Theo các phân tích của GlobalData’s E-Commerce Analytics, Việt Nam được
đánh giá là một trong những thị trường TMĐT phát triển nhanh nhất ở Đông
Nam Á với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm khoảng 18% và được dự báo
quy mơ thị trường có khả năng lên tới 26 tỷ USD vào năm 2024. Sự tăng trưởng
bứt phá của TMĐT đã đưa Việt Nam trở thành một trong những thị trường tiềm
năng nhất khu vực ASEAN. Đây là bước phát triển tất yếu, phù hợp với xu thế
của thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội, tiềm năng to lớn đó, TMĐT ở
nước ta cũng gặp khơng ít thách thức, khó khăn.
Ngày 15/05/2020, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xn Phúc đã ban hành Quyết
định 645/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT quốc gia giai
đoạn 2021 - 2025. Trong đó, Chính phủ đặt ra mục tiêu phát triển quy mô thị
trường TMĐT đến năm 2025 như sau:
55% dân số tham gia mua sắm trực tuyến, với giá trị mua hàng hóa và
dịch vụ trực tuyến đạt trung bình 600 USD/người/năm;
:

:

Doanh số TMĐT B2C (tính cho cả hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng trực
tuyến) tăng 25%/năm, đạt 35 tỷ USD, chiếm 10% so với tổng mức bán lẻ
hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước.
Nhằm góp phần triển khai thành cơng Kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT quốc
gia giai đoạn 2021 – 2025, một trong những giải pháp quan trọng là mở rộng
và đa dạng hóa các kênh TMĐT. Từ năm 2016 trở lại đây, mạng xã hội đã trở
thành một kênh hỗ trợ TMĐT mới và hiệu quả với chi phí thấp, được các doanh
nghiệp nhỏ và hộ kinh doanh cá thể đặc biệt quan tâm. Hoạt động có yếu tố
TMĐT thơng qua mạng xã hội đang ngày càng trở nên phổ biến, thậm chí các
doanh nghiệp lớn cũng có nhu cầu mở rộng kênh phân phối các sản phẩm, dịch
vụ qua mạng xã hội.

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRÊN MẠNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM : MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ


GIỚI THIỆU

09

Theo khảo sát của Hiệp hội TMĐT Việt Nam (VECOM), trong năm 2019, 39%
doanh nghiệp cho biết có bán hàng sử dụng mạng xã hội làm công cụ hỗ trợ.
Tỷ lệ này thấp hơn không đáng kể so với tỷ lệ 42% doanh nghiệp bán hàng trên
website của chính mình, nhưng lại cao hơn đáng kể so với tỷ lệ 17% doanh
nghiệp bán hàng trên các sàn giao dịch TMĐT. Thêm vào đó, tỷ lệ doanh nghiệp
bán hàng thơng qua cơng cụ mạng xã hội đang có xu hướng tăng (tăng 3% so
với năm 2018), trong khi đó tỷ lệ doanh nghiệp bán hàng trên website của chính
mình lại có xu hướng giảm (giảm 2% so với năm 2018).
Thực tiễn này đòi hỏi các cơ quan quản lý cần có những chính sách phù hợp
khơng chỉ để quản lý hiệu quả mà còn thúc đẩy và tạo điều kiện cho sự phát
triển của các hoạt động có yếu tố TMĐT thông qua công cụ mạng xã hội. Sự
phát triển của kênh TMĐT này sẽ khơng chỉ góp phần phát triển hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp vừa, nhỏ và các hộ kinh doanh cá thể, mà cịn góp
phần vào sự phát triển của thị trường TMĐT Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam tiến hành một
nghiên cứu về hoạt động có yếu tố TMĐT thông qua công cụ mạng xã hội tại
Việt Nam nhằm cung cấp những thông tin thực tiễn và khuyến nghị về các cơ
chế quản lý phù hợp cho các hoạt động này.

2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu tập trung vào phương thức hoạt động có yếu tố TMĐT trên mạng
xã hội, so sánh với sàn giao dịch TMĐT, qua đó, đề xuất những cơ chế quản lý
cụ thể, hiệu quả và phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển của các hoạt động

TMĐT này.

3. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng bao gồm:
:

Nghiên cứu tổng quan: Dựa trên những nghiên cứu, báo cáo sẵn có từ
các nguồn trong nước và quốc tế, nhóm nghiên cứu đã tìm hiểu về hoạt
động có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội và các loại hình TMĐT khác, các
kinh nghiệm quốc tế trong việc quản lý hoạt động có yếu tố TMĐT trên
mạng xã hội trong mối tương quan với phương thức quản lý các loại hình
TMĐT khác như sàn giao dịch TMĐT.
:

Khảo sát hoặc phỏng vấn: Nhóm nghiên cứu đã tiến hành 25 cuộc phỏng
vấn sâu với các đối tượng gồm các mạng xã hội, sàn giao dịch TMĐT, các bên
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRÊN MẠNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM : MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ


10

GIỚI THIỆU

cung cấp dịch vụ thanh toán, vận chuyển, các thương nhân đang bán nhiều
loại hàng hoá, dịch vụ trên mạng xã hội và cả những người mua hàng nhằm tìm
hiểu:
- Phương thức hoạt động của hoạt động có yếu tố TMĐT qua các công cụ
của mạng xã hội;
- Những vướng mắc, khó khăn trong q trình hoạt động;
- Những khuyến nghị về cơ chế quản lý.

Hội thảo lấy ý kiến chuyên gia: Nhóm nghiên cứu đã tổ chức một buổi
hội thảo để lấy ý kiến của các chuyên gia về TMĐT nhằm trao đổi về những
nội dung chính và phát hiện từ hoạt động nghiên cứu, khảo sát nêu trên,
qua đó hồn thiện báo cáo nghiên cứu trước khi công bố.
:

4. Phạm vi nghiên cứu
Báo cáo tập trung vào phản ánh hoạt động có yếu tố TMĐT thơng qua các
cơng cụ của mạng xã hội. Việc phân tích hoạt động TMĐT trên các website,
ứng dụng, sàn giao dịch TMĐT nhằm mục đích so sánh. Trong các loại hình
TMĐT, báo cáo chỉ tập trung vào các loại hình Business to Customer (B2C) và
Customer to Customer (C2C). Do các hoạt động có yếu tố TMĐT trên mạng
xã hội chủ yếu gồm hai loại hình này, cịn các loại hình Customer to Business
(C2B) và Business to Business (B2B) chiếm tỷ lệ rất nhỏ trên mạng xã hội nên
sẽ không được phân tích.
Các loại hàng hố, dịch vụ được đề cập trong nghiên cứu này không bao gồm
các dịch vụ nội dung số (online content) như nhạc, phim, video, sách báo, radio
dạng số. Nghiên cứu sẽ đề cập đến thương mại theo tồn bộ q trình từ giới
thiệu sản phẩm, tìm kiếm người mua, người bán, giao dịch, thanh toán, giao
hàng, cung ứng dịch vụ, chăm sóc khách hàng và giải quyết tranh chấp.
Các mạng xã hội ở đây được hiểu là các nền tảng cho phép người dùng đăng tải
và chia sẻ thông tin với người dùng khác.

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRÊN MẠNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM : MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ


GIỚI THIỆU

011


02
______________

THỰC TIỄN VÀ XU HƯỚNG CỦA HOẠT
ĐỘNG CÓ YẾU TỐ TMĐT TRÊN MẠNG
XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Tổng quan về thị trường TMĐT

11

2. Mạng xã hội và hoạt động có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội

14

3. Xu hướng phát triển của hoạt động có yếu tố TMĐT trên các mạng xã hội

17

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRÊN MẠNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM : MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ


12

THỰC TIỄN VÀ XU HƯỚNG

của hoạt động có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội tại Việt Nam hiện nay

THỰC TIỄN VÀ XU HƯỚNG CỦA HOẠT
ĐỘNG CÓ YẾU TỐ TMĐT TRÊN MẠNG
XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY




1. Tổng quan về thị trường TMĐT

Thị trường TMĐT ở Việt Nam đang ở trong giai đoạn phát triển nhanh. Tốc độ
tăng trưởng của TMĐT trong giai đoạn 2013 – 2019 luôn ở mức cao, trên 20%/
năm. Nhờ vậy, từ xuất phát điểm thấp 2,2 tỷ USD vào năm 2013, quy mô thị
trường TMĐT lên đến khoảng 10,08 tỷ USD vào năm 2019.
Hình 1: Quy mô thị trường TMĐT B2C tại Việt Nam giai đoạn 2013 - 2019

12

40%
37%
30%
8.06

8

23%

0

25% 25%

24%

20%


5

15%

4.07

4
2.2

35%
30%

6.2

6

2

10.08

35%

10

2.97

10%
5%

2013


2014

2015

2016

2017

2018

2019

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRÊN MẠNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM : MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ

0%

Doanh thu B2C (tỷ đô)
Tỷ lệ tăng trưởng


THỰC TIỄN VÀ XU HƯỚNG

của hoạt động có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội tại Việt Nam hiện nay

13

Bảng 1: Số liệu về TMĐT B2C tại Việt Nam giai đoạn 2013 - 2019

2013


2014

2015

2016

2017

2018

2019

Ước tính số
người tham gia
mua sắm trực
tuyến (triệu
người)

18,47

20,52

30,3

32,7

33,6

39,9


44,8

Ước tính giá trị
mua sắm trực
tuyến của một
người (USD)

120

145

160

170

186

202

225

Tỷ trọng doanh
thu TMĐT B2C
so với tổng mức
bán lẻ hàng
hóa và doanh
thu dịch vụ tiêu
dùng cả nước


N/A

2,12%

2,8%

3%

3,6%

4,2%

4,9%

Tỷ lệ người dân
sử dụng Internet

36%

39%

54%

54,2%

58,1%

60%

66%


Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo TMĐT các năm 2013, 2014 và Sách trắng TMĐT
các năm 2015 - 2019 của Cục TMĐT và Kinh tế số, Bộ Công Thương
(trước đây là Cục TMĐT và Công nghệ thông tin).

Thị trường TMĐT ở Việt Nam được dự đoán vẫn sẽ tiếp tục tăng trưởng với tốc độ
cao trong thời gian tới. Theo Báo cáo e-Conomy SEA 2019 của Google và Temasek,
tốc độ tăng trưởng hàng năm kép (Compound Average Growth Rate – CAGR) của
giai đoạn 2015 – 2025 là 49%, và quy mô thị trường dự kiến đạt 23 tỷ USD vào năm
2025. Khi đó, Việt Nam sẽ trở thành nước có quy mô TMĐT lớn thứ hai Đông Nam
Á, sau Indonesia (82 tỷ USD).

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRÊN MẠNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM : MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ


14

THỰC TIỄN VÀ XU HƯỚNG

của hoạt động có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội tại Việt Nam hiện nay

Không chỉ tăng trưởng nhanh về quy mô, TMĐT phát triển đa dạng trên nhiều
mặt. Về hình thức, TMĐT cung cấp các hình thức bán hàng rất đa dạng, bao
gồm một, một số hoặc tất cả các hoạt động thương mại (từ quảng cáo, tìm kiếm
khách hàng, chăm sóc khách hàng đến giao dịch, thanh toán, giải quyết tranh
chấp, v.v.). Một số hình thức tương đối đơn giản, sơ khai như các trang rao vặt
trên các diễn đàn; các nhóm có hoạt động giới thiệu hàng hố, trao đổi thơng tin
mua bán trên mạng xã hội. Ngoài ra, các nền tảng TMĐT mang đến nhiều tiện ích
như trải nghiệm đa nền tảng (website, ứng dụng trên di động); các phương thức
thanh tốn đa dạng (tiền mặt, ví điện tử, tài khoản di động, thẻ thanh toán, v.v.).

Về kênh bán và giới thiệu hàng hóa, sản phẩm, hiện có 3 kênh TMĐT chủ yếu được
sử dụng là diễn đàn (forum), mạng xã hội; sàn giao dịch TMĐT và các website
bán hàng. Theo thống kê của Cục TMĐT và Kinh tế số, tính cộng dồn đến hết năm
2019, cả nước có 29.370 website bán hàng và 999 sàn giao dịch TMĐT. Trong đó,
4 sàn giao dịch TMĐT hàng đầu hiện nay là Shopee, Lazada, Tiki và Sendo. Bản
đồ TMĐT Việt Nam của Iprice cho thấy rằng lượng truy cập web mỗi tháng của 4
sàn giao dịch TMĐT hàng đầu rất cao, như Shopee gần 52,5 triệu, Tiki khoảng 21
triệu lượt 1, v.v. và vượt xa các sàn giao dịch TMĐT khác.
Về mặt hàng, các loại hàng hóa và dịch vụ được giới thiệu và cung cấp trên
nền tảng TMĐT rất đa dạng, từ các mặt hàng thơng thường như sách báo, văn
phịng phẩm, thời trang, phụ kiện đến các mặt hàng được kiểm sốt về chất
lượng như ơ tơ, xe máy, thuốc, thực phẩm chức năng… Tuy nhiên, theo báo cáo
của Cục TMĐT và Kinh tế số, giá trị hàng hóa, dịch vụ được trao đổi trên các
nền tảng TMĐT khá nhỏ khi khoảng 70,4% hàng hóa, dịch vụ có giá trị dưới 1
triệu đồng.


2. Mạng xã hội và hoạt động có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội

Mạng xã hội đang ngày càng trở nên phổ biến được nhiều người Việt Nam sử
dụng. Theo Báo cáo Digital2020 for Vietnam của We are social và Hootsuite,
lượng người dùng mạng xã hội thường xuyên (active social media user) ở Việt
Nam tính đến tháng 01/2020 là 65 triệu người, chiếm 67% tổng dân số. Số lượng
này tăng thêm 5,7 triệu người dùng (tức 9,6%) so với thời điểm tháng 01/2019.
Không những thế, người dùng mạng xã hội cũng hoạt động khá tích cực. Theo

1 />
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRÊN MẠNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM : MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ



THỰC TIỄN VÀ XU HƯỚNG

của hoạt động có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội tại Việt Nam hiện nay

15

đó, thời gian trung bình một người dùng ở Việt Nam sử dụng mạng xã hội là 2
giờ 22 phút. 89% người sử dụng internet có tham gia hoặc đóng góp vào mạng
xã hội trong thời gian một tháng gần nhất.
Các nền tảng mạng xã hội hàng đầu ở Việt Nam là Facebook, Youtube, Zalo,
với số người dùng internet sử dụng tương ứng là 98%, 89% và 74%. Ngoài ra,
Instagram, Tiktok, Pinterest cũng đang thu hút nhiều người sử dụng, đặc biệt
phổ biến hơn với thế hệ Z (nhóm sinh từ khoảng 1997 - 2010).2 Mạng xã hội
cũng đóng vai trị khá quan trọng với công việc khi 58% người dùng internet
cho biết họ sử dụng cho mục đích cơng việc.
Bên cạnh các mạng xã hội xuyên biên giới phổ biến, ở Việt Nam cịn có rất nhiều
các mạng xã hội nhỏ ở trong nước, chủ yếu dưới dạng các diễn đàn (forum) như
Otofun, Tinh tế, Web trẻ thơ, Làm cha mẹ, v.v. Gần đây, một số mạng xã hội mới
được ra đời như Hahalolo, Gapo, Lotus, v.v. Tuy nhiên, điểm chung là các diễn
đàn, mạng xã hội trong nước còn khá nhỏ và ít người dùng hơn rất nhiều so với
các mạng xã hội xuyên biên giới (trừ Zalo).
Với số lượng người dùng đông đảo, khả năng tương tác và chia sẻ thông tin cao như
vậy, mạng xã hội đang đóng một vai trị quan trọng với hoạt động có yếu tố TMĐT:
Thứ nhất, mạng xã hội đóng vai trị như một kênh tiếp thị trực tuyến phổ biến
và hiệu quả. Theo khảo sát của Q&Me Vietnam Market Research, trong số các
phương thức tiếp thị số, tiếp thị trên mạng xã hội là phổ biến nhất, với 84%
người được khảo sát hiện đang sử dụng phương pháp này, vượt xa so với các
phương thức khác.
Mạng xã hội được coi là kênh tiếp thị phù hợp với tất cả doanh nghiệp, bất kể
quy mô. Cũng theo khảo sát trên, 94% doanh nghiệp vừa và lớn cho biết có sử

dụng tiếp thị trên mạng xã hội, và 79% doanh nghiệp nhỏ cho biết họ sử dụng
hình thức này thường xuyên. Đây được coi là điểm khác biệt giữa tiếp thị trên
mạng xã hội với các hình thức tiếp thị số khác, khi phần lớn các hình thức cịn
lại chủ yếu dành cho các doanh nghiệp vừa và lớn.
Vì vậy, chi tiêu dành cho tiếp thị trên mạng xã hội được dự đoán sẽ tăng trưởng
cao. Theo Statista, mức chi tiêu dự kiến sẽ tăng lên hơn gấp đôi, từ mức 36
triệu đô năm 2017 lên 76 triệu đô năm 2024.

2

/>
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRÊN MẠNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM : MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ


16

THỰC TIỄN VÀ XU HƯỚNG

của hoạt động có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội tại Việt Nam hiện nay

Hình 2: Mức độ sử dụng của các phương thức tiếp thị số

Digital marketing in use
Quảng cáo qua mạng xã hội
Quảng cáo qua cơng cụ tìm kiếm (SEM)
Quảng cáo qua người nổi tiếng

2% 10% 4%

7%


35%

11%

Quảng cáo qua video trực tuyến

4%

Quảng cáo qua màn hình lớn

7%
7%

0%
Khơng biết

84%

12%

45%

21%

38%

32%

20%


Biết đến nhưng chưa sử dụng

46%

18%

39%

17%

40%

23%

44%

60%

80%

Đã từng sử dụng

100%

120%

Đang sử dụng

Nguồn: The digital marketing landscape in Vietnam, Q&Me Vietnam Market Research


Thứ hai, mạng xã hội cũng là nơi diễn ra mạnh mẽ hoạt động hỗ trợ TMĐT. Theo
khảo sát của VECOM năm 2019, khoảng 39% doanh nghiệp được khảo sát cho
biết có tham gia kinh doanh trên diễn đàn, mạng xã hội.3 Về phía người tiêu
dùng, báo cáo của Cục TMĐT và Kinh tế số, khoảng 57% người được khảo sát
cho biết họ có thực hiện mua sắm qua diễn đàn, mạng xã hội 4.
TMĐT trên mạng xã hội rất đa dạng và phong phú. Về hình thức, hoạt động này
có thể diễn ra trên mục rao vặt của các diễn đàn, trên trang cá nhân hoặc các
hội nhóm trên mạng xã hội, hoặc chuyên nghiệp hơn là các tài khoản với mục
đích kinh doanh như các trang (fanpage). Về người bán, đối tượng bán hàng hay
giới thiệu sản phẩm trên mạng xã hội có thể là doanh nghiệp hoặc cá nhân kinh
doanh, nhưng cũng có thể là cá nhân nhỏ lẻ khơng có mục đích kinh doanh,
chẳng hạn như trao đổi hàng hóa cũ hoặc hàng hóa người bán khơng có nhu
cầu sử dụng nữa.
Về hàng hóa, hàng hóa trên mạng xã hội rất đa dạng về chủng loại, trong đó có
cả các mặt hàng chịu sự kiểm soát cao về tiêu chuẩn chất lượng như thuốc, mỹ
phẩm, thực phẩm chức năng, v.v.; các mặt hàng chịu hạn chế thương mại như

3
4

Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam, Báo cáo Chỉ số Thương mại điện tử Việt Nam 2020
Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số, Sách trắng Thương mại điện tử Việt Nam 2020

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRÊN MẠNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM : MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ


THỰC TIỄN VÀ XU HƯỚNG

của hoạt động có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội tại Việt Nam hiện nay


17

rượu bia. Về dịch vụ, nhiều loại dịch vụ truyền thống cũng được trao đổi trên
mạng xã hội như tư vấn các dịch vụ chăm sóc sắc đẹp; dịch vụ lưu trú; dịch vụ
giao đồ ăn, ẩm thực; tư vấn du học, đào tạo, môi giới việc làm, v.v.
Thứ ba, mạng xã hội cũng có tác động hỗ trợ các nền tảng TMĐT khác. Chẳng
hạn, theo báo cáo của YouNet Media và Iprice Group về thị trường TMĐT 2019,
các sàn giao dịch TMĐT có sự phụ thuộc nhất định vào mạng xã hội khi hiệu
quả truyền thông trên mạng xã hội ảnh hưởng đến lượng truy cập và khả năng
cạnh tranh của các sàn. Lý do được báo cáo đưa ra là mạng xã hội có vai trị
tác động đến mọi giai đoạn trong hành vi mua hàng của khách hàng, đồng thời
mạng xã hội cũng là kênh truyền thông quan trọng giới thiệu sản phẩm với
khách hàng và kết nối giữa các khách hàng với nhau.
3. Xu hướng phát triển của hoạt động có yếu tố TMĐT trên các mạng xã hội
Như đã đề cập ở trên, hoạt động có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội, hay cịn gọi
là thương mại xã hội (social commerce) đang chứng kiến sự phát triển nhanh
chóng và mạnh mẽ.
Về phía doanh nghiệp, khảo sát của VECOM cho thấy năm 2019, tỷ lệ doanh
nghiệp có tham gia kinh doanh trên mạng xã hội đạt tỷ lệ 39%, cao hơn đáng kể
so với kinh doanh trên sàn giao dịch TMĐT (17%) và gần tương đương với tỷ lệ
kinh doanh trên website (42%).5 Đáng chú ý, tỷ lệ này có xu hướng tăng qua các
năm và cao hơn đáng kể so với năm 2015 (28%). Hiệu quả kinh doanh qua mạng
xã hội cũng được doanh nghiệp đánh giá cao (40% cho biết hiệu quả cao), lớn
hơn rất nhiều so với các hình thức kinh doanh trực tuyến khác.
Hình 3: Đánh giá hiệu quả của việc bán hàng qua các công cụ trực tuyến
Qua mạng xã hội

15%


Qua website của doanh nghiệp

19%

Qua ứng dụng di động

45%

40%

55%

24%

26%

56%

Thấp
Trung bình

20%

Cao
Qua sàn giao dịch TMĐT

30%

0%


20%

51%

40%

19%

60%

80%

100%

Nguồn: Báo cáo Chỉ số TMĐT 2020, VECOM
5

Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam, Báo cáo Chỉ số Thương mại điện tử Việt Nam 2020

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRÊN MẠNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM : MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ


18

THỰC TIỄN VÀ XU HƯỚNG

của hoạt động có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội tại Việt Nam hiện nay

Về phía người tiêu dùng, theo báo cáo của Cục TMĐT và Kinh tế số, khoảng 57%
người được khảo sát cho biết họ có thực hiện mua sắm qua diễn đàn, mạng xã

hội 6, tương đương tỷ lệ mua sắm trên sàn giao dịch TMĐT và cao hơn tỷ lệ mua
hàng trên website (52%). Đặc biệt, tỷ lệ này tăng mạnh so với năm 2018 (36%).
Các số liệu khác cũng thể hiện tiềm năng tăng trưởng của thương mại xã hội.
Doanh thu thương mại xã hội toàn cầu đạt 22 tỷ USD vào năm 2019 và được dự
đoán tăng trưởng hơn 200% trong vòng 5 năm tới, lên mức 67 tỷ USD vào năm
2023.7 Theo các khảo sát với người tiêu dùng về thói quen mua sắm, 70% người
mua cho biết họ tìm kiếm mặt hàng trên Facebook hoặc Instagram; 30% cho
biết sẽ mua trực tiếp từ Pinterest, Facebook, Twitter, Instagram hoặc Snapchat8.
Trong những năm gần đây, các nền tảng mạng xã hội đã và đang cung cấp thêm
nhiều tiện ích cho người mua và người bán tìm đến và kết nối với nhau trên
nền tảng. Chẳng hạn, năm 2016, Facebook thử nghiệm tính năng gian hàng giới
thiệu sản phẩm Marketplace. Tính năng này cho phép người bán đăng tải các
loại hàng hóa lên một khu vực tập trung Marketplace. Mặt hàng sẽ được hiển
thị với các nội dung gồm tên mặt hàng, giá, thông tin người bán, chi tiết hoặc
mô tả về hàng hóa. Người bán và người mua có thể trao đổi các thông tin cần
thiết khác Marketplace thông qua các phương thức liên lạc (gọi điện hay nhắn
tin) khác nhau. Người dùng có thể tìm kiếm mặt hàng muốn mua thông qua bộ
lọc theo địa điểm, giá, và loại hàng (hàng điện tử, gia dụng, quần áo). Dù vậy,
Marketplace khơng hỗ trợ tính năng đặt hàng trực tuyến, giao vận hay thanh tốn.
Tương tự, Zalo cũng có tính năng Zalo Shop. Tính năng này cho phép nguời bán
thiết lập một cửa hàng với khả năng trưng bày nhiều mặt hàng. Các thông tin
được hiển thị cũng tương đối đầy đủ, gồm tên mặt hàng, giá cả, thông tin người
bán, mơ tả hàng hóa và chính sách giao vận của người bán. Việc trao đổi thông
tin sẽ được thực hiện trên chức năng ‘chat’ của Zalo. Zalo Shop cũng khơng hỗ
trợ tính năng đặt hàng trực tuyến.
Điểm chung của các mạng xã hội khi phát triển TMĐT tại thời điểm này là cung
cấp các tính năng đăng sản phẩm với thông tin chi tiết (giá cả, mô tả sản phẩm
và các thông tin khác).
khác) Đồng thời, mạng xã hội cũng cung cấp các tiện ích mua
sắm với người dùng như tìm kiếm sản phẩm, trao đổi thơng tin và thực hiện giao

dịch với người bán ngay trên nền tảng. Tuy vậy, các mạng xã hội chưa cung cấp
các dịch vụ khác như đặt hàng trực tuyến, thanh toán, giao vận.
Như vậy, có thể thấy, một số mạng xã hội đang có xu hướng cung cấp một số
tính năng hỗ trợ hoạt động TMĐT cho người dùng trên nền tảng của mình.
6

Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số, Sách trắng Thương mại điện tử Việt Nam 2020

7 />
hoa-lam-mot/-thuong-mai-xa-hoi-dang-phat-trien-voi-toc-do-nhanh
8ine/social-media-marketing/32-stunning-social-commerce-statistics-for-2020/

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRÊN MẠNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM : MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ


THỰC TIỄN VÀ XU HƯỚNG

của hoạt động có yếu tố tmđt trên mạng xã hội tại việt nam hiện nay

19

03
______________

CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
CÓ YẾU TỐ TMĐT TRÊN MẠNG XÃ HỘI
1. Phân biệt hoạt động có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội và sàn giao dịch TMĐT 20
1.1. Định nghĩa mạng xã hội và sàn giao dịch TMĐT
1.2. Phân biệt về dữ liệu và thông tin đăng tải
1.3. Phân biệt theo chức năng đặt hàng trực tuyến

1.4. Phân biệt về chức năng hỗ trợ thương mại
1.5. Phân biệt chức năng giới thiệu thương nhân và chức năng mua bán
sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ
2. Nghĩa vụ kiểm sốt thơng tin đăng tải

21
22
23
26
28
30

2.1. Đối với các thơng tin đăng tải bình thường của người dùng Tiêu chuẩn
cộng đồng
30
2.2. Đối với các thông tin sử dụng chức năng chuyên biệt hỗ trợ thương mại
trên các mạng xã hội – Tiêu chuẩn thương mại
32
3. Kiểm tra, giám sát nội dung thương mại trên mạng xã hội

32

4. Thông tin khai báo và xác thực người dùng thương mại

34

5. Thực hiện yêu cầu của cơ quan nhà nước

35


6. Quản lý thuế

36

7. Thương mại điện tử xuyên biên giới

38

7.1. TMĐT trên mạng xã hội xuyên biên giới tại Việt Nam

38

7.2. Quản lý hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu giao dịch qua TMĐT40
8. Người nổi tiếng bán hàng

41

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRÊN MẠNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM : MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ


20

CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ

Đối với hoạt động có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội

CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
CÓ YẾU TỐ TMĐT TRÊN MẠNG XÃ HỘI

Sự phát triển của hoạt động có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội đã cung cấp một

kênh phân phối hàng hoá, dịch vụ quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam hiện
nay. Với lợi thế chi phí gia nhập thị trường thấp, thuận tiện, giảm chi phí tìm
kiếm, giao dịch đã thu hút nhiều người bán và người mua.
Tuy nhiên, với sự phát triển rất nhanh của hoạt động TMĐT, đặc biệt là các hoạt
động hỗ trợ TMĐT trên nền tảng mạng xã hội, cũng nảy sinh nhiều vấn đề pháp
lý đáng quan tâm. Một số vấn đề được đặt ra như chất lượng hàng hóa, dịch
vụ, hàng giả hàng nhái, nội dung đăng tải không đúng hoặc gây nhầm lẫn, giải
quyết khiếu nại, tranh chấp và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, phát hiện và
xử lý tội phạm như lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, v.v. Ngoài ra, một số quy định
khác trong các lĩnh vực như thuế, hải quan cũng cần được thực thi sao cho phù
hợp với hình thức kinh doanh mới này. Các quy định pháp luật chủ đạo quản lý
hoạt động TMĐT và mạng xã hội đã được ban hành từ năm 2013, tại các Nghị
định 72/2013/NĐ-CP và Nghị định 52/2013/NĐ-CP. Hiện nay, các văn bản này
đang trong q trình rà sốt, điều chỉnh. Đây là cơ hội rất tốt để nghiên cứu, đề
xuất khung pháp lý phù hợp đối với hoạt động có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội
của Việt Nam.





1. Phân biệt hoạt động có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội và sàn
giao dịch TMĐT

Hoạt động có yếu tố TMĐT theo các cấp độ khác nhau diễn ra cả ở mạng xã hội
cũng như trên sàn giao dịch TMĐT và có nhiều đặc điểm riêng biệt. Tuy nhiên,
các quy định pháp luật hiện đang có xu hướng áp dụng chung biện pháp quản
lý đối với hai hình thức TMĐT này mà chưa tính đến những khác biệt cơ bản
giữa chúng. Hơn nữa, rất nhiều quy định được đặt ra chỉ phù hợp với mơ hình
hoạt động của các sàn giao dịch TMĐT lớn có chức năng đặt hàng trực tuyến,

hỗ trợ giao nhận và thanh toán. Nhiều quy định khơng thực sự phù hợp với hoạt
động có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội.

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRÊN MẠNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM : MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ


CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ

Đối với hoạt động có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội

21

Điều 6 của Thông tư 47/2014/TT-BCT về quản lý website TMĐT hiện đang sử
dụng tiêu chí về chức năng của nền tảng để xác định khi nào một mạng xã hội
phải thực hiện các nghĩa vụ của một sàn giao dịch TMĐT. Cụ thể như sau: Sàn
giao dịch TMĐT là các website có một trong các chức năng sau: (1) cho phép
người tham gia được mở các gian hàng trên đó để trưng bày, giới thiệu hàng
hóa hoặc dịch vụ; (2) cho phép người tham gia được lập các website nhánh để
trưng bày, giới thiệu hàng hóa hoặc dịch vụ; (3) có chuyên mục mua bán trên đó
cho phép người tham gia đăng tin mua bán hàng hóa và dịch vụ; Mạng xã hội
có một trong các hình thức hoạt động trên được coi như sàn giao dịch TMĐT và
phải thực hiện các nghĩa vụ tương ứng.
Qua khảo sát ý kiến của các doanh nghiệp tham gia phỏng vấn, phương pháp
phân loại này chưa thực sự phù hợp, bao quát quá nhiều trường hợp các website
hoặc mạng xã hội không thực sự là các sàn giao dịch TMĐT.
1.1. Định nghĩa mạng xã hội và sàn giao dịch TMĐT
Khái niệm mạng xã hội hiện được quy định tại Điều 3.22 của Nghị định 72/2013/
NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng.
Theo đó, “Mạng xã hội (social network) là hệ thống thông tin cung cấp cho cộng
đồng người sử dụng mạng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm,

chia sẻ và trao đổi thơng tin với nhau, bao gồm dịch vụ tạo trang thông tin điện
tử cá nhân, diễn đàn (forum), trò chuyện (chat) trực tuyến, chia sẻ âm thanh,
hình ảnh và các hình thức dịch vụ tương tự khác.” Như vậy, khái niệm mạng xã
hội rất rộng nhưng với đặc trưng cơ bản là cho phép cộng đồng người sử dụng
đăng tải thông tin và trao đổi với nhau. Nói cách khác, việc đăng tải thông tin
không chỉ do các quản trị viên của mạng xã hội đưa lên mà chủ yếu là do người
dùng. Các thông tin này cũng được hiển thị với các người dùng khác chứ không
chỉ dành cho quản trị viên của mạng xã hội đó.
Xuất phát từ đặc điểm này cùng với sự phổ cập người dùng và số lượng khổng
lồ thông tin đăng tải, các mạng xã hội đều cho phép người dùng tự do đăng tải
thông tin.
Khái niệm hoạt động TMĐT được quy định tại Điều 3.1 của Nghị định 52/2013/
NĐ-CP về TMĐT. Theo đó, hoạt động TMĐT là việc tiến hành một phần hoặc tồn
bộ quy trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử có kết nối với
mạng Internet, mạng viễn thơng di động hoặc các mạng mở khác. Như vậy, có
thể hiểu hoạt động có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội là việc tiến hành một phần
hoặc tồn bộ quy trình của hoạt động thương mại trên nền tảng mạng xã hội.

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRÊN MẠNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM : MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ


22

CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ

Đối với hoạt động có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội

Nghị định 52 phân loại hai hình thức TMĐT phổ biến là (1) website TMĐT bán
hàng và (2) sàn giao dịch TMĐT. Theo đó, Website TMĐT là trang thông tin điện
tử được thiết lập để phục vụ một phần hoặc tồn bộ quy trình của hoạt động

mua bán hàng hóa hay cung ứng dịch vụ, từ trưng bày giới thiệu hàng hóa,
dịch vụ đến giao kết hợp đồng, cung ứng dịch vụ, thanh toán và dịch vụ sau
bán hàng. Đây có thể coi là trường hợp thương nhân tự lập website và bán hàng
hoá, dịch vụ của chính mình. Cịn Sàn giao dịch TMĐT là website TMĐT cho
phép các thương nhân, tổ chức, cá nhân khơng phải chủ sở hữu website có thể
tiến hành một phần hoặc tồn bộ quy trình mua bán hàng hóa, dịch vụ trên đó.
Đây là trường hợp thương nhân lập sàn giao dịch TMĐT và cho phép người dùng
khác đăng tải thơng tin và mua bán hàng hố, dịch vụ trên đó.
Như vậy, mặc dù khi so sánh khái niệm mạng xã hội và sàn giao dịch TMĐT
nêu trên, theo cách đơn giản nhất, có thể thấy rằng việc cho phép người dùng
(khơng phải quản trị viên) có thể đăng tải và chia sẻ thông tin với người dùng
khác là một điểm giống nhau cơ bản giữa các nền tảng, tuy nhiên xét về mục
tiêu và mức độ thì hoạt động có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội có nhiều khác
biệt với hoạt động TMĐT trên sàn giao dịch TMĐT.
Hơn nữa, do hình thức của các sàn giao dịch TMĐT và mạng xã hội hết sức đa
dạng, có những trường hợp có thể tách biệt rõ ràng, nhưng đa số trường hợp có
sự giao thoa nhất định. Đối với các trường hợp tách biệt thì việc xác định nghĩa
vụ của các chủ thể theo từng chế định pháp luật tương đối đơn giản, nhưng
nhiều trường hợp có sự giao thoa thì việc xác định nghĩa vụ theo chế định này
hay chế định kia là không hề đơn giản.
1.2. Phân biệt về dữ liệu và thông tin đăng tải
Dữ liệu và thơng tin đăng tải chính của các sàn giao dịch TMĐT là cơ sở dữ liệu
về sản phẩm, hàng hố, dịch vụ. Trong cơ sở dữ liệu đó, ln có các trường
dữ liệu đặc trưng như tên sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ; giá cả; khối lượng, số
lượng, đơn vị; ngồi ra cịn có thể có thêm các trường dữ liệu khác như mô tả
sản phẩm, thông số kỹ thuật, hình ảnh, v.v. Trong khi đó, dữ liệu và thông tin
đăng tải của các mạng xã hội lại thường là tiêu đề, nội dung dưới dạng chữ viết
(text), hình ảnh, video, v.v.
Các mạng xã hội khơng có các trường dữ liệu đặc trưng như tên sản phẩm,
hàng hoá, dịch vụ; giá cả; khối lượng, số lượng, đơn vị. Trong nhiều trường hợp,

người dùng mạng xã hội có thể sử dụng các trường dữ liệu tiêu đề, nội dung,
hình ảnh, video để đăng tải các thông tin về tên sản phẩm, giá cả, số lượng

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRÊN MẠNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM : MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ


CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ

Đối với hoạt động có yếu tố TMĐT trên mạng xã hội

23

nhưng hệ thống của mạng xã hội khơng hình thành trường dữ liệu riêng cho các
thơng tin này. Ví dụ, một cá nhân tận dụng chức năng đăng tải chủ đề thảo luận
trên diễn đàn sở thích về ơ tơ để bán phụ kiện ơ tơ. Dù nội dung của bài viết đó
có các thơng tin về sản phẩm, giá cả, số lượng hàng hoá, dịch vụ nhưng khơng
hình thành trường dữ liệu riêng cho các nội dung này.
Do khơng hình thành trường dữ liệu riêng về tên sản phẩm, giá cả, số lượng hàng
hoá nên nhà cung cấp dịch vụ mạng xã hội sẽ gặp khó khăn trong việc đáp ứng
các quy định về kiểm sốt các thơng tin đăng tải này. Ví dụ, nếu một cá nhân bán
thuốc lá trên sàn giao dịch TMĐT, và nhập từ khoá “thuốc lá” trong trường dữ
liệu tên sản phẩm, thì hệ thống thơng tin của sàn giao dịch có thể loại bỏ được
ngay. Tuy nhiên, nếu cá nhân đó đề cập đến các loại thuốc lá trên mạng xã hội
thì việc loại bỏ sẽ gặp khó khăn. Hệ thống thơng tin của mạng xã hội có thể phát
hiện được từ khố “thuốc lá” nhưng khơng thể biết được bài viết đó là nhằm bán
thuốc lá hay nhằm cổ vũ việc hạn chế hút thuốc lá.
Do đó, rất cần có sự phân biệt về dữ liệu và thông tin đăng tải giữa mạng xã hội
và sàn giao dịch TMĐT. Theo đó, nếu người dùng sử dụng các chức năng thông
thường của mạng xã hội để đăng tải thơng tin về mua bán hàng hố, dịch vụ thì
các nghĩa vụ nảy sinh như sau: (1) nghĩa vụ của người đăng thông tin với tư cách

là thông tin thương mại; (2) nghĩa vụ của mạng xã hội khi nhận được phản ánh
về nội dung thông tin thương mại được đăng tải; (3) mạng xã hội sẽ chỉ có nghĩa
vụ xử lý tự động đối với các thông tin này với tư cách thông tin thông thường,
chứ không phải với tư cách thông tin thương mại.
1.3. Phân biệt theo chức năng đặt hàng trực tuyến
Như đã trình bày, một số mạng xã hội tại Việt Nam hiện đã cung cấp chức năng
đăng tải thơng tin mua bán hàng hố, dịch vụ, nhưng chưa có chức năng đặt
hàng trực tuyến. Các chức năng như Marketplace của Facebook hay Shop của
Zalo trên các mạng xã hội hiện nay tại Việt Nam không cho phép các bên có thể
giao kết hợp đồng được ngay, mà vẫn phải liên lạc trực tiếp với nhau qua các
công cụ khác như chat, điện thoại, email, v.v.
Trên thế giới, một số mạng xã hội lớn đã từng thử nghiệm chức năng đặt hàng
trực tuyến như Twitter có nút mua hàng (‘buy’ button). Khi người mua hàng bấm
vào buy button thì tồn bộ các thơng tin giới thiệu về hàng hố, dịch vụ sẽ được
chuyển thành thơng tin trong đơn hàng để phục vụ cho việc giao kết hợp đồng
và các cơng đoạn tiếp theo như thanh tốn, vận chuyển.

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRÊN MẠNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM : MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ


×