Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Tài liệu Bệnh Lupus (Phần 4) docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.76 KB, 9 trang )

Bệnh Lupus
(Phần 4)

CHƯƠNG 16 : LUPUS DO THUỐC
Một số loại thuốc và chất hoá học có thể gây ra bệnh giống với lupus. Danh
sách các loại thuốc này rất dài nhưng loại thuốc gây ra lupus thì không nhiều. Người ta
chia ra làm 2 loại phản ứng thuốc.
Thứ nhất, một số loại thuốc có thể làm cho bệnh lupus có sẵn bùng phát trở lại,
chẳng hạn như thuốc nhóm sulfamide( một số kháng sinh sử dụng hiện nay như
Bactrim). Một số loại thuốc khác có thể gây nổi hồng ban da, đau khớp và những biểu
hiện khác như viêm màng phổi tràn dịch, trên thực tế giống với lupus hồng ban rải rác.
Những trường hợp này gọi là « lupus do thuốc » . Lupus này giảm và biến mất khi
ngưng thuốc. Hồng ban trong lupus do thuốc rất giống với hồng ban do bệnh lupus thật
sự. Đó là hồng ban dạng cánh bướm, có thể có rụng tóc. Mặt khác, lupus do thuốc
cũng có thể có triệu chứng như lupus hồng ban rải rác cổ điển với những triệu chứng
toàn thân khác như: đau khớp viêm màng phổi tràng dịch, nổi hạch, mệt mỏi, và suy
tổng trạng. Mặt dù có những triệu chứng giống nhau như vậy, nhưng lupus do thuốc
cũng có những triệu chứng khác với lupus kinh điển. Thứ nhất là, bệnh lupus do thuốc
rất hiếm khi gây ra tổn thương thận. Thứ hai là, kết quả xét nghiệm máu rất khác nhau.
Một cách khái quát, bệnh nhân bị lupus do thuốc chủ yếu tạo ra kháng thể kháng
histone, và hầu như hiếm khi có kháng thể kháng AND và kháng thể kháng ENA. Cuối
cùng, sự khác biệt quan trọng, là bệnh lupus do thuốc hồi phục hoàn toàn sau khi
ngưng thuốc. Ngày nay chúng ta hiểu rất rõ về cơ chế gây ra lupus do thuốc. Điều này
được nghiên cứu rất kỹ đối với hydralazine, một loại thuốc trị cao huyết áp. Có 3 điều
kiện cần để tạo ra bệnh lupus ở bệnh nhân dùng thuốc này. Thứ nhất là những bệnh
nhân này phải có chuyển hoá chậm đối với thuốc, nghĩa là cơ thể không thể thải thuốc
này ra ngoài một cách nhanh chóng. Thứ hai, phải là nữ giới thì mới dễ xuất hiện biến
chứng này, Thứ ba là, nguồn gốc yếu tố di truyền, nhất là có kháng nguyên HLA-DR4
, là một yếu tố chính. Lupus do hydralazine là một ví dụ điển hình cho bệnh gây ra do
tác nhân ngoại sinh, phát triển trên cơ địa di truyền có sẵn. Đặc biệt cần phải nhấn
mạnh thêm vai trò của kháng sinh minocycline, là loại kháng sinh dùng rộng rãi trong


điều trị mụn, hiện nay là nguyên nhân thường gặp nhất gây lupus do thuốc.
CHƯƠNG 17 : LỊCH SỬ BỆNH LUPUS
Bệnh lupus được phát hiện và mô tả từ ít nhất khoảng 700 năm nay.
Danh từ lupus xuất phát từ tên « loup » đọc trại ra thành lupus(lu-pút), theo
tiếng Pháp « loup » có nghĩa là chó sói, từ này đã được sử dụng cho nhiều bệnh da
khác nhau, nhất là khi so sánh với vết cắn của những con chó sói trên gương mặt của
chúng.
Bệnh này cũng đa dạng như những bệnh ung thư hay những bệnh da khác, vào
thời kỳ mà bệnh không thể chữa trị được, nó đã làm cho gương mặt bệnh nhân bị xấu
đi nên người ta mới có sự so sánh đầy đủ như vậy. Ngày nay, chúng ta biết rằng, bệnh
này được mô tả đầu tiên dưới tên chung « lupus », khác với bệnh lupus hệ thống mà
chúng tôi đề cập trong bài này.
Những nhà y học nổi tiếng như Rogerius ở thế kỷ thứ 13 và Paracelse đầu thế
kỷ thứ 16, đã cung cấp cho chúng ta những mô tả rất rỏ ràng về những tổn thương trên
mặt do bệnh lupus.
Vào đầu thế kỷ thứ 19, có một vài mô tả chính xác hơn giúp chúng ta hiểu rằng
những bệnh khác cũng có thể gây ra những tổn thương da « giống bệnh lupus», những
mô tả rõ nhất về bệnh lupus là mô tả của Cazenave vào năm 1851-1852, ông cho biết
có 3 loại luypus khác nhau, kể cả « lupus hồng ban ».
Khoảng cuối thế kỷ 19, Payne, một bác sĩ của bệnh viện St Thomas, Luân Đôn,
đã mô tả hiệu quả của thuốc chống sốt rét không chỉ có trong bệnh lupus da, mà còn có
hiệu quả trong những biểu hiện lâm sàng khác của bệnh lupus, kể cả bệnh sốt. Trong 3
bài báo xuất bản vào năm 1895 và 1903, William Osler đã chứng minh rằng các cơ
quan nội tạng cũng có thể bị ảnh hưởng bởi bệnh lupus chứ không chỉ có ở da, và bệnh
lupus có thể xuất hiện ở dạng toàn thân. Những mô tả này nhấn mạnh ảnh hưởng của
lupus trên các cơ quan như tim, thận, và các thanh mạc( màng phổi, màng tim). Ông
đã mô tả rất rõ các giai đoạn lui bệnh và giai đoạn bệnh bùng phát. Trong suốt những
năm 1930-1940, có nhiều nghiên cứu lâm sàng và giải phẫu bệnh, đa số nghiên cứu
này khẳng định rằng lupus dạng đĩa (hình chiếc đĩa) và lupus hệ thống là những dạng
riêng biệt.

Vào năm 1948, Hargraves, Richmond và Morton lần đầu tiên mô tả một xét
nghiệm sinh học cho bệnh lupus hồng ban rải rác. « Trong 2 năm trở lại đây, chúng ta
đã quan sát trong việc chuẩn bị tế bào tuỷ xương, là loại tế bào mà chúng ta gọi là « tế
bào LE », nó thường xuất hiện trong trường hợp lupus hồng ban cấp tính rải rác».
Thật ra, tế vào LE là một loại tế bào máu ( bạch cầu trung tính) xuất hiện trong
tuỷ xương, và trong máu bệnh nhân bị bệnh lupus, và tế bào này bị kháng thể kháng
nhân phá huỷ.
Từ mô tả đầu tiên này, các xét nghiệm khác dần dần thay thế việc tìm tế bào
LE. Chính vì vậy, ngày nay người ta dùng kháng thể kháng nhân để phát hiện bệnh
này. Các bác sĩ như Kunkel, Tan, Doniach và Holborrow đã có công đóng góp rất lớn
trong việc cải thiện các xét nghiệm chẩn đoán.
Năm 1966, nhiều nhóm nghiên cứu khám phá trong máu của người bị bệnh
lupus có chứa các kháng thể kháng lại chuỗi ADN. Quan trọng hơn, Pincus, Tan và
Christian chứng minh rằng việc định lượng kháng thể kháng ADN trong huyết thanh
bệnh nhân bị lupus là một công cụ giúp chẩn đoán bệnh cực kỳ đặc hiệu của bệnh
lupus và đặc biệt nhạy cảm với tiến triển của bệnh và với tác dụng của điều trị.
Cuối những năm 60 và đầu những năm 70, có nhiều kháng thể đặc hiệu đã được
các bác sĩ Tan, Reichlin và Sharp tìm thấy.Năm 1983, nhóm của tác giả này đã phát
hiện có sự hiện diện của kháng thể kháng phospholipides phối hợp với hội chứng lâm
sàng rất đặc biệt, rất khác với những biểu hiện viêm kinh điển trong bệnh lupus, đặc
trưng bởi huyết khối động mạch và tĩnh mạch cũng như sảy thai liên tiếp. Năm 1993,
tên gọi « hội chứng Hughes » đã được đề nghị để mô tả hội chứng kháng
phospholipide. Những tiến bộ khác đã diễn ra trong nửa sau thế kỷ 20, nhất là cẩn thận
khi sử dụng glucocorticoïdes, sử dụng các thuốc khác có khả năng gây ra ức chế miễn
dịch như azathioprine và cyclophosphamide.
Cuối cùng, những tiến bộ khác của y học gián tiếp góp phần vào điều trị bệnh
lupus. Vì vậy, từ những loại thuốc tốt nhất sẵn có để điều trị tăng huyết áp, để điều trị
suy thận, điều trị loét dạ dày tá tràng hay để điều trị loãng xương chỉ mới có vài tiến
bộ gần đây.
CHƯƠNG 18 : NGHIÊN CỨU TRONG BỆNH LUPUS

Nếu như bạn là người phụ trách chương trình nghiên cứu bệnh lupus, vậy bạn
bắt đầu bằng câu hỏi nào ? Có thể là bạn sẽ quan tâm về sự chiếm ưu thế của bệnh ở
nữ giới. Bệnh có tính di truyền không ? Tại sao lại có những bất thường trong hệ thống
miễn dịch như vậy ? Người ta có thể cải thiện điều trị như thế nào ?Tại sao một số
bệnh nhân lại bị thận, trong khi một số khác lại bị ở da và một số khác còn có hiện
tượng huyết khối ? Nghiên cứu đã mang lại nhiều lý do thoả mãn. Mặt dù là bệnh
hiếm, nhưng lupus đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, đây cũng là một dạng
của bệnh tự miễn. Có nhiều bài báo nói về bệnh lupus, nhất là có tờ báo quốc tế
chuyên viết về bệnh Lupus này.
Kết quả nghiên cứu còn nhiều bàn cải trong các hội nghị quốc tế và đã thu hút
nhiều nhà lâm sàng và nhà nghiên cứu. Những hội nghị này đòi hỏi phải có sự phối
hợp giữa nhà lâm sàng, bác sĩ miễn dịch học, bác sĩ nội khoa, chuyên khoa khớp,
chuyên khoa thận, chuyên sản khoa và nhóm hỗ trợ cho bệnh nhân. Các tóm tắt của
những hội nghị này được xuất bản thường xuyên(nhất là trong tạp chí « lupus »). Lâm
sàng có nhiều nghi ngờ về bệnh lupus là do ảnh hưởng của hormone. Chúng ta biết
rằng, estrogen có tác dụng rất mạnh trên đáp ứng miễn dịch, hiện nay có nhiều công
trình nghiên cứu về mối liên quan giữa hormone giới tính và các thụ thể của nó. Có thể
những nghiên cứu này mang đến cho chúng ta những thông tin về những bệnh khác mà
ở đó hormone giới tính giữ một vai trò quan trọng( chẳng hạn như ung thư vú). Ngày
này, hormone không được sử dụng trong đều trị bệnh lupus. Theo thời gian, có những
tiến bộ đáng kể về di truyền. Từ 20 năm qua, chúng ta tự giới hạn ở nhóm máu. Ngày
này, bản đồ gien của người đã được mô tả chi tiết, từ đó cho phép chúng ta nghiên cứu
tường tận các yếu tố di truyền tham gia vào bệnh, nhất là nhờ vào những thông tin thu
thập được trong gia đình, mà ở đó có nhiều thành viên mắc bệnh. Có một kiến thức tốt
về hoạt động của hệ thống miễn dịch sẽ cung cấp cho chúng ta những ý kiến mới về cơ
chế bệnh sinh của lupus, và các biện pháp điều trị mới. Ngày nay chúng ta biết rằng,
các tế bào lympho B của bệnh nhân lupus sản xuất ra quá nhiều kháng thể, nhất là
kháng thể kháng ADN, có tác dụng gây hại, đặc biệt là cầu thận. Chúng ta cũng biết
rằng các tế bào lympho B này được trợ giúp bởi tế bào lympho T (chúng thường kiểm
soát hoạt động của tế bào lypho B). Rõ ràng là có kiến thức vững về sự tương tác giữa

2 loại tế bào lympho này cho phép chúng ta hy vọng một ngày nào đó can thiệp một
cách đặc hiệu vào những tế bào trực tiếp sản xuất ra kháng thể. Sự phát hiện ra một số
biểu hiện lâm sàng của bệnh lupus do huyết khối và do viêm đã mở ra viễn cảnh sinh
lý bệnh rất sáng sủa. Có một kiến thức vững chắc về sự tương tác giữa kháng thể
kháng phospholipide, tiểu cầu và thành mạch đã tạo ra những tiến bộ đáng kể trong
điều trị. Một nghiên cứu có chất lượng đòi hỏi phải có sự hợp tác quốc tế, và dĩ nhiên
cần phải có nguồn tài chính mạnh. Kết lụân, việc nghiên cứu về bệnh lupus đang cực
kỳ sôi động. Thật ra không có loại thuốc nào là kỳ diệu, nhiều phương pháp điều trị
mới hiện nay cũng đang được xem xét.
CHƯƠNG 19 : LUPUS TRÊN THẾ GIỚI

×