Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tài liệu Quản lý các dự án vốn vì lợi thế cạnh tranh Đầu tư vào các dự án vốn doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.64 KB, 5 trang )

Quản lý các dự án vốn vì lợi thế cạnh tranh
Đầu tư vào các dự án vốn đang gia tăng. Việc thỏa thuận tốt sẽ giúp các công ty có
được một lợi thế ý nghĩa hơn so với các đối thủ cạnh tranh khác.

Bị thúc ép bởi nhu cầu toàn cầu đang gia tăng, các nhà cung cấp năng lượng và
những sản phẩm chuyên về năng lượng trên toàn thế giới đang ngày phải tăng
thêm các khoản đầu tư vào các trạm năng lượng, các nhà máy hóa chất, tích trữ
dầu lửa, cán thép và cả những dự án về vốn khác. Nhiều vị trí đảm trách ngày càng
lớn hơn và công nghệ cũng ngày càng một phức tạp hơn. Nhưng kết quả lại là sự
cạnh tranh khủng khiếp về các nguyên vật liệu cơ bản, thiết bị và cả nhân tài,
những thứ đã khiến cho tất cả các ngành kinh doanh cần phải chuyển ngay tài sản
thành những dự án vốn hàng tỷ đô la một cách thành công.
Việc quản lý có đủ kỹ năng và bỏ qua những nhà thầu cung cấp hàng hóa và dịch
vụ mà một dự án đòi hỏi luôn trở thành điều cốt yếu đối với việc tối đa hóa được
giá trị kinh tế của dự án đó. Lấy ví dụ như trong ngành năng lượng dầu và điện, tới
ba phần tư ngân sách chung là dành cho các nhà thầu cung cấp năng lượng, thu
mua, xây dựng và cả những dịch vụ quản lý dự án. Nhờ việc tăng thêm chi phí cho
những cơ hội bị bỏ lỡ hay bị cản trở mà môi trường cạnh tranh
gay gắt ngày nay
được đánh giá rất quan trọng trong những hợp đồng lớn.

Tuy nhiên, nhiều chủ doanh nghiệp vẫn đang phải vật lộn hết sức mình. Một số
công ty tiếp cận mọi dự án vốn hoàn toàn độc lập dựa vào tình hình kinh doanh
hay sự phá sản của riêng mình nhằm điều chỉnh mọi nỗ lực của những đội dự án
riêng rẽ bằng chiến lược vốn dài hạn của họ theo hợp đồng. Trong khi đó, những
công ty khác lại vội vàng tự trói mình vào các điều khoản, chọn những mẫu hợp
đồng không phù hợp, hoặc đánh giá sai các rủi ro, các tài nguyên của tổ chức cũng
như những kỹ năng mà các dự án vốn đòi hỏi phải có. Và chính những sai lầm đó
đã tạo ra những cơ hội bị bỏ lỡ, những cản trở quan trọng cũng như chi phí dành
cho chúng tiêu tốn tới hàng trăm triệu đô la.


Thế nhưng có một số ít các chủ doanh nghiệp vẫn làm chủ được tình hình hợp
đồng và đang thu được lợi ích từ chính những kế hoạch dự án tốt hơn, chi phí thấp
hơn và ít bị cản trở hơn – một nguồn lợi thế cạnh tranh đáng kể. Để đạt được hiệu
quả qua nhiều dự án thì những công ty này phải chuẩn hóa các hoạt động trong
công việc của mình cũng như điều chỉnh được các mẫu hợp đồng thức thời nhằm
theo kịp được tình trạng kinh tế của mỗi hợp đồng bằng chính sự kết hợp giữa
kinh nghiệm và các kỹ năng mà công ty có được. Những công ty này cũng phải
tìm kiếm các cách để thúc đẩy sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các nhà thầu hợp đồng
với hy vọng làm việc cùng họ và chỉ ra được những đánh giá rủi ro chi tiết hơn so
với các đối tác kém thành công của họ tiến hành. Cuối cùng, họ đầu tư vào nhân
tài và khuyến khích hợp tác theo phạm vi chức năng nhằm trợ giúp việc tối đa hóa
giá trị hiện tại ròng (Net Present Value - NPV) trong những dự án vốn của mình.

Một sự kiểm tra về những cách tiếp cận mà các công ty này nắm giữ đã mang lại
những bài học không chỉ dành cho các nhà cung cấp các sản phẩm chuyên về năng
lượng và năng lượng mà còn dành cho cả những ngành kinh doanh chuyên dụng
khác bao gồm như công nghệ cao, viễn thông và tự động hóa. Những bài học này
cũng liên quan tới các tổ chức thuộc cả công lẫn tư đang đảm trách các dự án cơ sở
hạ tầng lớn cũng như những nhà đầu tư đang tìm kiếm lợi nhuận từ chúng.

Một môi trường đang thay đổi

Trong khi sự tăng trưởng kinh tế trong thế giới đang phát triển cũng như việc gia
tăng nhu cầu về năng lượng và những sản phẩm chuyên sâu về năng lượng mới tạo
ra được những cơ hội lớn cho các ngành kinh doanh chuyên dụng thì những nguồn
lực này cũng đang ngày càng làm tăng thêm nhu cầu rất lớn về các nguyên liệu cốt
yếu, các dịch vụ và cả thiết bị. Và kết quả là ngày càng khó có được sự hỗ trợ hợp
đồng như trước đây. Trong một số trường hợp, vấn đề này có thể thay đổi được
tình trạng kinh tế của một dự án. Lấy ví dụ như ở vùng tây bắc Canađa, tiền lương
của những người làm việc cho các nhà thầu hợp đồng thường được tăng cao hẳn

lên ngay khi các công ty cạnh tranh tham gia phát triển những dự án trong lĩnh vực
khai thác dầu lửa, và cũng tương tự như thế trong ngành công nghiệp khai thác
than, những cản trở trong việc có được những chiếc xe tải, những mỏ than và cả
thiết bị khác phải buộc kéo dài (và theo như những mức giá thành phẩm được báo
cáo đưa ra thì vô cùng tốn kém) khiến cho độ trễ trong ngành mỏ đang dần mở
rộng ra trên toàn thế giới. Mà như vậy, các áp lực sẽ vẫn còn tiếp tục. Việc sử
dụng vốn toàn cầu đang được mong chờ vượt qua mức 71 nghìn tỷ đô la trong suốt
thời gian từ năm 2008 tới năm 2013 – như vậy tăng khoảng một phần ba so với
các mức từ năm 2002 tới năm 2007. Nhiều ngành kinh doanh chuyên dụng cũng
được nhận định sẽ tăng từ 50 đến 80 phần trăm.

Việc cạnh tranh ngày càng gay gắt có thể làm tăng chi phí do những quyết định tồi
đưa ra, và trong một số trường hợp thì càng làm cho tình hình trở nên xấu hơn.
Chẳng hạn như việc phải chịu áp lực để bảo đảm việc trợ giúp kỹ thuật hiếm gặp
cho một dự án cải tạo môi trường đòi hỏi một công ty năng lượng phải tự cam kết
với chính mình rằng cần phải hết sức nhanh chóng để đưa ra được một mẫu hợp
đồng với mức chi phí thấp nhất. Tuy nhiên, một khi bản hợp đồng đã được ký kết
thì chính người chủ lại thiếu thúc đẩy người đấu thầu hợp đồng đó và những chi
phí không rõ ràng bắt đầu phát sinh. Tồi tệ hơn nữa, đó là người chủ hợp đồng
nhận ra rằng bản hợp đồng đó đã không bao gồm những khoản phạt thích đáng cho
việc quá hạn thực hiện, trong khi người đấu thầu hợp đồng lại nhiều lần đẩy những
người tốt nhất thực hiện hợp đồng đó sang làm những dự án cho những đối thủ
cạnh tranh với người chủ hợp đồng này. Những nhân tố đã tạo nên những khoản
chi phí bổ sung lên tới hàng trăm triệu đô la và khiến cho hợp đồng bị trễ lại đến
gần cả năm trời.

Xa hơn nữa là việc gia tăng những khoản tiền vốn mà những người chủ hợp đồng
phải bỏ ra theo số lượng, phạm vi, quy mô và cả độ phức tạp theo các dự án cũng
cùng tăng lên. Lấy ví dụ, theo các vòng quay kinh tế trước đây thì những bổ sung
về khả năng được lên kế hoạch trong khi tiến hành lọc dầu chẳng hạn như xtiren

thường được tăng lên gấp đôi. Nhưng ngày nay, các trạm năng lượng dựa vào
những dàn khoan ở một số quốc gia lại tạo ra được sản lượng điện gấp ba lần so
với những nhà máy sản xuất truyền thống đã làm. Và theo ngành công nghiệp dầu
mỏ này thì một dự án xa bờ thông thường đòi hỏi những khoản phát sinh gần bờ
có thể từ 30 triệu tới 50 triệu euro vào những năm 1990, nhưng ngày nay, với một
dự án tương tự như vậy thì việc vận chuyển nước từ xa và mũi khoan phải sâu hơn
có thể tiêu tốn từ 600 triệu tới 900 triệu euro.

Thêm nữa, phạm vi và quy mô của những rủi ro mà các chủ doanh nghiệp phải
nhận thấy ngày nay cũng làm tăng thêm hoạt động tài chính của họ mỗi khi có một
vài tùy chọn sẵn có nhằm giảm bớt rủi ro. Trong những năm 1980 và 1990, số tiền
đầu tư thấp một cách tương đối đã đem đến cho các chủ doanh nghiệp động lực
thúc đẩy vượt qua được kỹ thuật, mua bán và cả những nhà thầu hợp đồng xây lắp,
vì vậy mà những người chủ doanh nghiệp đã có thể đàm phán được những hợp
đồng với giá tương đối ổn định. Ngày nay, những điều như vậy thật khó để áp
dụng được. Trên thực tế, hầu hết các nhà thầu hợp đồng không thể chịu đựng được
sức nặng của những rủi ro kết hợp với một số siêu dự án của thời đại mà không
đòi hỏi dựa vào khoản tiền bảo hiểm kếch sù để phòng bị cho những trường hợp
xấu nhất xảy ra.

Ngay khi các rủi ro nhân lên, nhiều chủ doanh nghiệp đã bị kéo căng ra theo một
số dự án. Trong những trường hợp khác, các kỹ năng quản lý dự án lại bị teo dần.
Hãy xem xét điều mới xảy ra với những nhà sản xuất năng lượng ở Châu Âu và
Bắc Mỹ, đặc biệt là năng lượng nguyên tử. Một số công ty năng lượng đã không
có những khoản đầu tư quan trọng trong gần hai thập kỷ chủ yếu do việc các vòng
quay xây dựng và lập kế hoạch quá dài. Ngay cả với một công ty năng lượng thì
sự khan hiếm về kinh nghiệm quản lý dự án có tổ chức có nghĩa rằng những người
lao động với những nền tảng điều hành tương xứng đã không được đưa vào trong
quy trình ngay từ đầu trong suốt thời gian thiết kế một nhà máy mới. Bởi vậy mà
đội dự án đã chọn những thông số kỹ thuật cho một thành phần quan trọng chủ yếu

để giảm bớt chi phí cũng như đảm bảo cho tốc độ cài đặt mà không nhận thấy rằng
những lợi ích này sẽ bị xóa bỏ qua một thời gian dài bởi chính hiệu quả điều hành
chậm hơn của nó.

Trong khi đó những nhân tố về văn hóa – đặc biệt là sự tập trung mạnh mẽ vào kỹ
thuật của nhiều chủ doanh nghiệp – đã hình thành nên một môi trường không đánh
giá được các kỹ năng thương mại cao mà chỉ thường bằng những kết quả kém chất
lượng. Lấy ví dụ ngay như một công ty về công nghiệp, các kỹ sư đã xác định
được các tham số cho một nhà máy mới tới mức chỉ tập trung vào nó mà một phần
cốt lõi của thiết bị có thể chỉ được mua từ hai hơn là năm mươi nhà cung cấp có
thể có khả năng với một phương pháp dễ nhận thấy hơn thì chính điều đó đã giới
hạn nghiêm trọng tính cạnh tranh của việc đấu thầu.

Ngay cả những câu chuyện cũng trở nên cũ rích nhưng một số công ty vẫn đang
phải tránh những khó khăn như vậy. Thế nên, một cuộc kiểm tra về những phương
pháp của họ đối với việc ký kết hợp đồng đã đưa lại các bài học cho tất cả những
người chủ doanh nghiệp.


×