Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 32 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>A. Phần I : ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài. Trong thời gian qua, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học đã được đề cập và thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, quản lý giáo dục, giáo viên trực tiếp giảng dạy. Nhìn chung đều khẳng định, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh là rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. Với quan điểm đó, trong những năm qua đã dấy lên một cuộc vận động đổi mới phương pháp dạy học trong hệ thống giáo dục nói chung và các trường phổ thông nói riêng. Đồng thời nhiều đợt tập huấn, hội thảo đổi mới phương pháp dạy học đã được tổ chức ở những cấp độ khác nhau, nhằm nâng cao năng lực sư phạm cho giáo viên. Từ đó đã có nhiều phương pháp mới đã được giáo viên ứng dụng trong việc dạy học và đã dấy lên một phong trào thi đua dạy học, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn trong đội ngũ giáo viên ở các trường học. Những hoạt động trên đã góp phần tích cực nâng cao chất lượng giáo dục trong thời gian qua. Với tình hình chung, đổi mới phương pháp giảng dạy của bộ môn Lịch sử cũng đã được sự quan tâm đúng mức. Nhiều phương pháp mới theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh đã được sử dụng, đặc biệt là ứng dụng CNTT trong dạy học. Cũng phải thấy rằng, việc nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Lịch sử là sự kết hợp hài hoà, nhuần nhuyễn của cả hệ thống phương pháp, mỗi phương pháp đều có vai trò nhất định riêng. Trong đó phương pháp khai thác kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử phục vụ cho giảng dạy, góp phần tích cực đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, bởi lẽ: Kênh hình trong sách giáo khoa không những minh hoạ, làm cơ sở cho việc tạo biểu tượng lịch sử mà còn là một nguồn cung cấp kiến thức cho học sinh, vì một số bài viết trong sách giáo khoa còn có nhiều nội dung để bỏ ngỏ, yêu cầu học sinh thông qua làm việc với tranh ảnh, lược đồ, sơ đồ... để tìm tòi, khám phá những kiến thức mới, cần thiết liên quan đến nội dung bài học. Ngoài ra việc khai thác tốt kênh hình sẽ tạo nên một không gian sinh động trong giờ học, giúp học sinh chủ động tiếp thu kiến thức và học sinh sẽ nhớ kĩ, hiểu sâu hơn những kiến thức đã học. Bên cạnh đó, còn góp phần phát triển kĩ năng quan sát, phân tích, nhận xét, đánh giá và tư duy ngôn ngữ cho học sinh... Tuy nhiên, làm thế nào để khai thác tốt, nhằm phát huy đúng vị trí, vai trò của kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử thì kĩ năng khai thác kênh hình của giáo viên đóng vai trò quyết định. Vì vậy nắm được những kĩ năng cơ bản để khai thác kênh hình sách giáo khoa phục vụ cho việc giảng dạy là sự cần thiết về chuyên môn của giáo viên nói chung và giáo viên Lịch sử nói riêng hiện nay. Để góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học Lịch sử nói riêng, bản thân tôi xin trình bày một số vấn đề về việc: Khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử để phát huy tính tích cực của học sinh. Với việc nghiên cứu đề tài này, giúp giáo viên tiến hành một giờ dạy học hiệu quả hơn, học sinh tích cực chủ động trong việc tiếp thu lĩnh hội kiến thức của bài học. Đây cũng là lí do tôi chọn đề tài này..
<span class='text_page_counter'>(2)</span> II. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài. Mục tiêu, nhiệm vụ mà đề tài này hướng đến chính là khơi dậy khả năng tư duy, sáng tạo của học sinh, thông qua các kênh hình về các bản đồ, sơ đồ, về các nhân vật lịch sử cũng như về các sự kiện lịch sử của Việt Nam và thế giới, học sinh được khắc sâu và ghi nhớ những nội dung của bài học. Từ đó các em có những hiểu biết nhất định về lịch sử của nhân loại, lịch sử của thế giới, thêm yêu quý và tự hào về những trang sử hào hùng của dân tộc, tôn thờ và ngưỡng mộ những danh nhân thế giới nói chung và danh nhân Việt Nam nói riêng. III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là học sinh lớp 9B của trường THCS Thanh Văn trong năm học 2013 - 2014. Với phương pháp này nhiều năm qua tôi đã, đang và sẽ được áp dụng vào quá trình giảng dạy môn Lịch sử ở trường THCS Tân Ước và trường THCS Thanh Văn. IV. Giới hạn phạm vi nghiên cứu. Đề tài xoay quanh việc nghiên cứu giảng dạy và học tập với việc: khai thác, phân tích nội dung và ý nghĩa của kênh hình trong sách giáo khoa và cả những kênh hình sưu tầm bên ngoài có liên quan vào bài học Lịch sử một cách phù hợp để tăng tính hấp dẫn trong giờ học Lịch sử, góp phần phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử bậc trung học cơ sở. Kết hợp việc sử dụng bản đồ, lược đồ và các hình ảnh minh họa để phân tích về một nhân vật lịch sử, một trận đánh hay một sự kiện lịch sử mà giáo viên đang trình bày giúp giáo viên gây được hứng thú, suy ngẫm trong học sinh, hướng các em đến với nội dung của bài học. Học sinh yêu thích bộ môn, hứng thú và tích cực học tập hơn, như vậy sẽ cho kết quả cao hơn. Biện pháp tuy có thể nói không mới lắm, nhưng với sự chủ động hướng dẫn của giáo viên và sự tích cực của học sinh đã đem đến một kết quả khả quan hơn trong quá trình học. Dạy học nói chung và dạy học Lịch sử nói riêng yêu cầu người giáo viên phải biết sử dụng linh hoạt các phương pháp trong tiết dạy thì mới giúp cho học sinh khắc sâu kiến thức một cách chủ động. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng yêu cầu học sinh phải phân tích kỹ tất cả các kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử. Nếu học sinh chưa hiểu bài, chưa trình bày được lược đồ, chưa phân tích được sự kiện sẽ làm mất thời gian. Do đó yêu cầu người giáo viên phải có nghệ thuật sư phạm khi dạy học lịch sử. Biết đọc bản đồ, biết tường thuật trận đánh, biết phân tích nội dung của kênh hình và phải biết hướng dẫn học sinh nắm được những nội dung của bài học thông qua kênh hình đó. Từ đó biết phân tích, nhận xét, đánh giá sự các kiện lịch sử. V. Phương pháp nghiên cứu. Để tiến hành thực hiện đề tài này tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu bổ trợ về “ Phương pháp dạy học Lịch sử”. - Nghiên cứu các loại sách tham khảo, sách giáo khoa Lịch sử lớp 6, 7, 8, 9; tài liệu chuẩn kiến thức kỹ năng và các nguồn thông tin khác..
<span class='text_page_counter'>(3)</span> - Sưu tầm thêm các bản đồ, lược đồ, các tranh ảnh liên quan đến nội dung của đề tài. - Phương pháp so sánh, đối chiếu. - Thao giảng, dự giờ, trao đổi ý kiến với các đồng nghiệp trong quá trình giảng dạy. - Áp dụng kinh nghiệm, phương pháp mới trên lớp học. - Đánh giá kết quả ban đầu và điều chỉnh bổ sung. - Kiểm tra, đánh giá kết quả học sinh. B. PHẦN II: NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận. Bộ môn Lịch sử với những đặc trưng riêng của nó có vai trò và tác động to lớn trong việc giáo dục thế hệ trẻ hiện nay. Tuy nhiên ngày nay việc học sinh không thích học cũng như tìm hiểu về lịch sử dân tộc ngày càng nhiều. Nhiều em cho rằng đây là một môn học thuộc lòng mất nhiều thời gian lại khô khan, nhàm chán. Thiếu hiểu biết lịch sử là điều vô cùng nguy hiểm khi văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam hội nhập với văn hóa và con người của nhiều dân tộc trên thế giới. Vậy tại sao học sinh lại thiếu hiểu biết và không thích học Lịch sử? Cũng có nhiều nguyên nhân. Song không thể phủ nhận nguyên nhân xuất phát từ việc dạy và học Lịch sử của chúng ta từ trước đến nay còn nặng về cung cấp kiến thức gây ra tình trạng quá tải cho học sinh. Do đặc điểm của việc nhận thức Lịch sử là không trực tiếp quan sát sự kiện, nhân vật quá khứ nên việc tạo biểu tượng là một yêu cầu quan trọng trong dạy học bộ môn. Biểu tượng lịch sử là hình ảnh chân thực của quá khứ về hiện thực quá khứ được phản ánh trong óc học sinh với những nét chung nhất, điển hình nhất. Việc khai thác kênh hình trong sách giáo khoa là một biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng dạy học, tuy nhiên nó chưa được quan tâm một cách đầy đủ. Chúng ta mới chỉ quan tâm đến kênh chữ nhiều hơn mà không nhận thấy kênh hình không những là nguồn kiến thức quan trọng mà nó còn là phương tiện trực quan có giá trị giúp bài học lịch sử trở nên sinh động và hấp dẫn hơn. Trong các buổi bồi dưỡng thay sách giáo viên mới chỉ được giải thích về kênh chữ, nội dung, phương pháp mà chưa được bồi dưỡng cụ thể về kênh hình. Có nhiều kênh hình mới mà giáo viên chưa thật nắm rõ về xuất xứ cũng như nội dung của nó. Nhiều giáo viên còn ngại sử dụng kênh hình do sợ mất thời gian hoặc nếu có sử dụng thì chỉ mạng tính chất minh họa cho bài giảng nên chưa phát huy được hết hiệu quả của nó. Vậy với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn lịch sử, bằng thực tiễn giảng dạy và học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp cũng như tự nghiên cứu tài liệu, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến chủ quan về việc sử dụng kênh hình trong dạy học Lịch sử ở bậc THCS. II. Thực trạng: 1. Thuận lợi, khó khăn..
<span class='text_page_counter'>(4)</span> * Thuận lợi: Trong những năm học vừa qua phòng Giáo dục huyện Thanh Oai đã thường xuyên tổ chức các chuyên đề. Bản thân tôi được tham gia Ban giám khảo các hội thi và làm công tác thanh tra nên có cơ hội trao đổi phương pháp giảng dạy, học tập, rút kinh nghiệm trong công tác chuyên môn với giáo viên cùng bộ môn trong toàn huyện. Bản thân luôn tích cực tìm kiếm những thông tin bổ ích có liên quan đến nội dung bài dạy như tranh ảnh, tư liệu, phim tài liệu, truyện kể về lịch sử...Đều cố gắng thay đổi phương pháp giảng dạy của mình theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp dạy học như phương pháp trực quan, phương pháp nêu tình huống và giải quyết vấn đề, phương pháp vấn đáp thông qua sự trình bày sinh động giàu hình ảnh trong tường thuật, miêu tả, kể chuyện, nêu đặc điểm của nhân vật lịch sử hoặc dạy học qua sơ đồ tư duy... Nhìn chung học sinh đều tích cực hào hứng muốn được tự mình khám phá nội dung của bản đồ, lược đồ, muốn được nêu ý nghĩa hoặc phân tích nội dung các bức tranh nên đã đưa lại hiệu quả cao trong quá trình lĩnh hội kiến thức thông qua các kênh hình trong sách giáo khoa và những kênh hình mà giáo viên sưu tầm được. * Khó khăn: Ở trường THCS một số học sinh còn lười học và chưa có sự say mê môn học Lịch sử, cho nên việc ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử...còn yếu. Nhiều em chưa độc lập suy nghĩ để trả lời một câu hỏi mà chỉ đọc nguyên xi trong sách giáo khoa hay chỉ nêu được diễn biến sự việc mà không lí giải được vì sao nó lại diễn ra như thế hay sự kiện đó nói lên điều gì. Bởi vậy, bản thân các em nên có một phương pháp học tích cực để chiếm lĩnh kiến thức từ bài giảng của giáo viên. Mặt khác, một bộ phận không nhỏ trong giáo viên, cha mẹ học sinh và học sinh còn nhận thức không đúng về vai trò của bộ môn cho đó là môn phụ đã ảnh hưởng đến việc học tập bộ môn. Qua kiểm tra và làm giám khảo trong năm học vừa qua cho thấy : Vẫn còn một số giáo viên chưa thực sự thay đổi hoàn toàn phương pháp dạy học cho phù hợp với từng tiết dạy, chưa tích cực hoá hoạt động của học sinh tạo điều kiện cho các em suy nghĩ, chiếm lĩnh và nắm vững kiến thức như vẫn còn sử dụng phương pháp dạy học “thầy nói, trò nghe ”, thuyết trình một chiều... Do đó nhiều học sinh chưa nắm vững được kiến thức mà chỉ học thuộc một cách máy móc, trả lời câu hỏi thì nhìn vào sách giáo khoa hoàn toàn ... Một số tiết học giáo viên chỉ huy động một số học sinh khá, giỏi trình bày lược đồ, bản đồ và khám phá tranh ảnh mà chưa giành cho đối tượng học sinh yếu kém. Cho nên đối tượng học sinh yếu kém ít được chú ý và không được tham gia hoạt động, điều này làm cho các em thêm tự ti về năng lực của mình và các em cảm thấy chán nản môn học. Nhìn chung thời gian qua, ít nhiều giáo viên đã khai thác kênh hình sách giáo khoa để đổi mới phương pháp dạy học bằng nhiều phương tiện khác nhau và phương pháp khác nhau... Do đó, kết quả đạt được ở những mức độ không đồng đều. Thực tế như sau:.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> - Không ít giáo viên hiểu chưa hết nội dung, ý nghĩa của các kênh hình, nên chưa vận dụng đúng đắn vào trong bài giảng, vì vậy hiệu quả bài giảng không cao. - Nhiều giáo viên nhận thức đầy đủ giá trị ý nghĩa của kênh hình nhưng lại ngại sử dụng, sợ mất thời gian hoặc sử dụng mang tính chất hình thức, minh hoạ cho bài giảng. - Có giáo viên lại sưu tầm nhiều hình ảnh sinh động, có nội dung liên quan đến kênh hình trong sách giáo khoa, nhưng chỉ mang tính giới thiệu, chứ chưa mang tính chất khai thác để nâng cao chất lượng dạy học. Sở dĩ có tình hình trên, phần lớn là do sự hạn chế của giáo viên về kĩ năng khai thác kênh hình. Từ đó,nhằm giảm bớt số lượng học sinh yếu kém và nâng cao chất lượng dạy và học của của bộ môn, bản thân tôi đã thấy được điều đó và cố gắng đưa ra các phương pháp học tập tích cực mà cụ thể là: tích cực sưu tầm tranh ảnh tư liệu, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong soạn giảng và luôn tìm tòi những phương pháp để khai thác kênh hình một cách hiệu quả nhất. 2. Thành công, hạn chế. * Thành công: Về phía giáo viên: Tích cực hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm, hỗ trợ kiến thức cho nhau và thông qua hoạt động đọc bản đồ, phân tích nội dung tranh ảnh, cho các em sưu tầm các hình ảnh có liên quan... trong giờ học những em yếu kém được hoạt động một cách tích cực dưới sự hướng dẫn của giáo viên và các em học sinh khá giỏi, học sinh trung bình sẽ nắm chắc kiến thức và hiểu sâu hơn về bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử... Trong quá trình giảng dạy đã kết hợp các đồ dùng dạy học, khai thác một cách triệt để các đồ dùng và phương tiện dạy học như tranh ảnh, bản đồ, máy chiếu, vi deo...và ứng dụng thành thạo công nghệ thông tin phù hợp trong dạy học Lịch sử. Về phía học sinh: Đa số học sinh hứng thú nghe giảng, tập trung suy nghĩ trả lời các câu hỏi mà giáo viên đặt ra, các em đã chuẩn bị bài mới ở nhà, khi học các em luôn chú ý để nắm chắc bài hơn. Và đặc biệt nhiều em thích được lên bảng trình bày trên lược đồ, bản đồ, thích được khám phá nội dung tranh ảnh để hiểu được nội dung bài học. Học sinh yếu kém đã và đang cố gắng nắm bắt các kiến thức trọng tâm cơ bản thông qua các hoạt động học như thảo luận nhóm, vấn đáp, đọc sách giáo khoa. Các em đã mạnh dạn hăng hái xung phong lên bảng và sẵn sàng ghi nhớ các sự kiện, nhân vật, đây là những hoạt động hiệu quả trong việc lĩnh hội kiến thức. * Hạn chế: Một số học sinh còn lười học và chưa có sự say mê môn học, một số bộ phận học sinh không chuẩn bị bài mới ở nhà, không làm bài tập đầy đủ, không sưu tầm tài liệu và các tranh ảnh có liên quan, trên lớp các em thiếu tập trung suy nghĩ. Cho nên việc phân tích và ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử...còn rất hạn chế..
<span class='text_page_counter'>(6)</span> 3. Mặt mạnh, mặt yếu Sách giáo khoa Lịch sử được trình bày đẹp hơn, dễ nhìn, đồng thời có lưu ý đến việc đảm bảo kiến thức cơ bản, hiện đại, sát thực tiễn. Hơn nữa, sách giáo khoa còn đảm bảo tính liên môn sao cho các môn học hỗ trợ lẫn nhau, đặc biệt sách giáo khoa Lịch sử có nội dung song hành giữa Lịch sử Việt Nam và Lịch sử thế giới. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học bộ môn Lịch sử thì giáo viên không ngừng học hỏi, tìm tòi , tìm ra những cái mới phù hợp và sáng tạo để khai thác kênh hình hiệu quả và đó là nguồn kiến thức cho học sinh nghiên cứu và khám phá kiến thức mới, nó cũng là cơ sở để tạo biểu tượng lịch sử. Với sự đổi mới này thì học sinh thông qua việc làm việc với tranh ảnh, sơ đồ, lược đồ, bản đồ…để phát hiện kiến thức liên quan đến nội dung bài học mà học sinh cần nắm được. Tuy nhiên kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử hiện nay vẫn còn quá ít so với mức độ kiến thức cần đạt của bài và màu sắc chỉ là trắng đen, khá mờ nhạt, không có nhiều hình ảnh nổi bật và ảnh màu như các sách giáo khoa Địa lý, Sinh học hay Vật lý… 4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động. Chúng ta đều nhận thấy rằng điểm thi môn Lịch sử của học sinh phổ thông trung học và thi tuyển vào các trường cao đẳng đại học trong thời gian vừa qua quá thấp, đây là hồi chuông cảnh tỉnh cho cả xã hội và những người làm giáo dục. Có nhiều ý kiến đổ lỗi do chương trình, sách giáo khoa Lịch sử chưa được hoàn chỉnh. Sách còn đề cập tới quá nhiều vấn đề nhưng thời gian trong một tiết học 45 phút không đủ để truyền tải...Và những kiến thức trong sách giáo khoa, sách chuẩn kiến thức kỹ năng được xem là phần cứng của giáo trình, giáo viên không được tùy tiện sửa đổi, điều này cũng khiến giáo viên thụ động khi lên lớp. Một trong những nguyên nhân của việc dạy và học Lịch sử kém hiệu quả nữa là học sinh không ham mê môn học này là do việc học của học sinh lâu nay là học chay và dạy chay. Chỉ đơn cử như việc cho học sinh xem phim tài liệu về lịch sử cũng là rất hạn chế chứ chưa nói đến việc đi thực tế tại các địa danh lịch sử. Lên lớp giáo viên cũng khuyến khích học sinh đối thoại, nhưng tư liệu tham khảo thì lại quá thiếu, thế nên dù muốn, học sinh cũng khó có thể tìm đọc và thảo luận theo yêu cầu của giáo viên. Bên cạnh đó, nhiều học sinh và phụ huynh vẫn coi Lịch sử là môn phụ nên rất xem thường. Để có nhiều kênh hình phù hợp với nội dung bài học thì đòi hỏi người giáo viên và cả các em học sinh phải dày công tìm kiếm, sưu tầm, chắt lọc và xử lý các hình ảnh có được, đó là điều không hề đơn giản và không phải ai cũng có thể làm được vì cuộc sống còn bộn bề lo toan. Có nhiều yếu tố tác động từ bên ngoài, có nhiều điều chi phối khiến cho người giáo viên không có nhiều thời gian để đầu tư cho bài giảng. III. Giải pháp, biện pháp. 1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp..
<span class='text_page_counter'>(7)</span> Nhiều năm qua bức xúc trước vấn đề học sinh không hiểu gì về lịch sử nhân loại cũng như lịch sử dân tộc mình và đặc biệt những năm gần đây tình trạng học sinh thi vào các trường đại học tỉ lệ điểm thấp ở bộ môn Lịch sử là rất nhiều. Điều này không chỉ riêng tôi mà rất rất nhiều giáo viên nói chung và giáo viên bộ môn Lịch sử nói riêng, các cấp quản lí phải lưu tâm và suy nghĩ. Do đó tôi đưa ra một vài kinh nghiệm của bản thân để góp phần mình vào sự nghiệp chung. Việc vận dụng các phương pháp, kỹ năng khai thác kênh hình vào giảng dạy Lịch sử, theo kinh nghiệm của bản thân tôi cùng nhiều đồng nghiệp khác đã được tham khảo ý kiến là một việc làm rất có hiệu quả nhằm gây hứng thú cho học sinh, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi việc học Lịch sử, tìm hiểu Lịch sử, nhận thức Lịch sử đang có chiều hướng giảm sút, xuống cấp. Ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, lối suy nghĩ, cách sống thực dụng đang tác động mạnh mẽ đến từng học sinh cùng với sự thiếu thốn phương tiện, đồ dùng dạy học cũng như thái độ dạy học đối phó, qua loa, đại khái của không ít giáo viên đã và đang là những trở ngại không nhỏ đối với việc giảng dạy nói chung và dạy bộ môn Lịch sử nói riêng. Các kênh hình về bản đồ lịch sử, về nhân vật lịch sử với ưu thế của nó: rõ ràng, sinh động, dễ nhớ, dễ ấn tượng, dễ đi vào lòng người… sẽ là một thế mạnh trong việc hỗ trợ đắc lực cho việc truyền thụ kiến thức lịch sử thông qua đó góp phần giáo dục đạo đức, lòng biết ơn đối với truyền thống tổ tiên, với các lãnh tụ, các danh nhân cũng như những anh hùng liệt sĩ đã hi sinh, đã đóng góp xương máu của mình để làm rạng rỡ thêm lịch sử nước nhà cũng như lịch sử văn minh nhân loại. 2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp. 2.1 Kỹ năng khai thác kênh hình: Để đạt hiệu quả cao khi khai thác kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử nhằm phục vụ cho việc giảng dạy, giáo viên nên yêu cầu học sinh quan sát và tìm hểu thông tin liên quan đến kênh hình của bài học mới ở nhà. Đồng thời phải có kế hoạch cụ thể công việc của thầy và trò trong quá trình làm việc trên lớp. Trước hết để khai thác tốt kênh hình trong SGK phục vụ cho việc giảng dạy bộ môn lịch sử, bằng những kinh nghiệm thực tế, xin trình bày một số kĩ năng cơ bản sau: Thứ 1: Nắm được phương pháp cơ bản khai thác các loại kênh hình Về cơ bản, hệ thống kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử hiện nay, gồm có hai loại chính sau: Loại 1: Lược đồ, biểu đồ. Loại 2: Hình ảnh lịch sử. Trong loại hình ảnh lịch sử lại có hai nhóm chính: Nhóm1: Hình ảnh minh họa tình hình quân sự, kinh tế, văn hoá, chính trị, khoa học kĩ thuật... Nhóm 2: Hình ảnh về nhân vật lịch sử. Do mỗi loại kênh hình thể hiện một nội dung khác nhau, nên phương pháp khai thác cũng khác nhau và phải phù hợp, cụ thể là: - Loại lược đồ, biểu đồ: Phương pháp là khai thác từng bước những vấn đề lịch sử đặt ra để đi đến hoàn thiện..
<span class='text_page_counter'>(8)</span> - Nhóm hình ảnh minh hoạ: Phương pháp là khai những chi tiết của hình ảnh để đi đến đến hoàn thiện. - Nhóm hình ảnh nhân vật lịch sử. Phương pháp là tìm hiểu hoạt động của nhân vật lịch sử để đi đến hoàn thiện. Thứ 2: Phải nắm được kiến thức cơ bản của kênh hình. Việc nắm được kiến thức cơ bản của kênh hình đóng một vai trò rất quan trọng, giúp giáo viên chủ động, linh hoạt trong quá trình tổ chức khai thác kênh hình trên lớp. Để nắm được kiến thức cơ bản của kênh hình, bên cạnh những tài liệu như các loại sách tham khảo, sách giáo khoa, sách giáo viên, sách chuẩn kiến thức kỹ năng... thì Internet đang trở thành công cụ đắc lực và được phổ biến trong việc khai thác thông tin, tìm tài liệu hiệu quả nhất. Hầu hết cách kênh hình và những thông tin liên quan đều đã có trên một số trang Web của Internet, nên việc tìm thông tin trên Internet, có nhiều lợi ích, như: - Hình ảnh màu, sắc nét và sinh động hơn hình ảnh trong sách giáo khoa. - Thông tin phong phú và có những đánh giá về vấn đề lịch sử mang tính hiện đại, phù hợp với quan điểm hiện nay hơn. - Tiết kiệm được thời gian tìm kiếm thông tin... Thứ 3: Xác định mục đích cần hướng đến khi khai thác kênh hình. Việc xác định mục đích cần hướng đến khi khai thác kênh hình, là nhằm tránh sự chệch hướng trong quá trình khai thác và để đạt hiệu quả cao nhất sau khi khai thác. Thứ 4: Thiết kế câu hỏi hợp lý, trọng tâm. Câu hỏi hợp lý, trọng tâm, có ý nghĩa rất quan trọng, nó không những phát huy được tính tích cực, phát triển khả năng tư duy của học sinh; mà còn giúp học sinh hiểu sâu, nhớ kĩ những kiến thức được tìm hiểu... 2.2. Nguyên tắc khai thác kênh hình: Giáo viên đứng lớp cần phải có sự chuẩn bị chu đáo cẩn thận, nghiên cứu kỹ trước nội dung các kênh hình trước khi lên lớp. Chuẩn bị lời nói ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu và gây hứng thú cho học sinh. Chính yêu cầu đó sẽ giúp người giáo viên nâng cao ý thức tự giác, tinh thần trách nhiệm trong các giờ lên lớp. Ngoài ra các giờ sử dụng kênh hình trong dạy học giáo viên chủ yếu đóng vai trò hướng dẫn, chỉ đạo, còn học sinh phải tự quan sát nghiên cứu để rút ra kiến thức. Giáo viên phải khắc phục khó khăn sưu tầm các tài liệu có liên quan đến kênh hình, trao đổi chuyên môn tổ, cụm chuyên môn để có cách sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa một cách hiệu quả nhất. Bên cạnh đó học sinh học sinh phải tự giác tìm hiểu kênh hình dưới sự hướng dẫn gợi mở của giáo viên, tiếp nhận kiến thức một cách chủ động. Để nâng cao hiệu qủa sử dụng kênh hình cần đảm bảo các nguyên tắc sau: Một là: Sử dụng đúng mục đích. Trong quá trình dạy học giáo viên phải đề ra được đúng mục đích dạy học, tiến trình các hoạt động lên lớp. Hoạt động của giáo viên cũng như việc sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa quy định mục đích học tập của học sinh. Mục đích của mỗi bài chính là học sinh lĩnh hội được tri thức, hình thành và phát triển kỹ năng, nhân cách. Mỗi một loại kênh.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> hình trong sách giáo khoa có một chức năng riêng nên chúng phải được nghiên cứu cụ thể để sử dụng đúng mục đích, phù hợp với yêu cầu bài học. VD: Kênh hình được trình bày để minh họa cho bài giảng thì việc sử dụng chúng cũng chỉ dừng lại ở việc minh họa cho bài giảng nhằm làm cho nội dung bài giảng sinh động, phong phú, hấp dẫn hơn. Giáo viên không sử dụng chúng trong việc củng cố hay trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh. Với những kênh hình là nguồn cung cấp thông tin kiến thức thì giáo viên phải gợi mở, yêu cầu học sinh thông qua làm việc với kênh hình để tìm ra kiến thức và lĩnh hội tri thức đó. Hai là: Sử dụng đúng lúc. Nghĩa là kênh hình lúc nào cũng phải được sử dụng hợp lý nhất, trong trình bày kiến thức mới hay là củng cố kiến thức đã học hoặc ra bài tập về nhà. Tóm lại cần được đưa ra khi học sinh cần được minh họa, cần tìm hiểu nhất về nội dung bài học, tránh đưa ra đồng loạt phân tán sự chú ý của học sinh. Ba là: Sử dụng đúng mức độ, cường độ. Tùy vào từng nội dung, mục đích sử dụng mà giáo viên đưa ra những yêu cầu khác nhau đối với học sinh. Trong giờ giảng bài mới nếu điều kiện thời gian không cho phép thì giáo viên chỉ tập trung giới thiệu, thuyết minh một số hình vẽ, sơ đồ, lược đồ, tranh ảnh điển hình nhất ( nếu bài nhiều tranh ảnh ). Với những hình ảnh khác giáo viên chỉ dừng lại ở việc cho học sinh quan sát sơ lược để học sinh nắm được những biểu tượng ban đầu mà thôi. Hoặc với những kênh hình để minh họa cho bài giảng giáo viên không nên cho học sinh đứng lên thuyết trình về kênh hình đó vì điều đó vượt quá sức của học sinh, giáo viên có thể giao cho học sinh tìm hiểu thêm ở nhà. Hơn nữa cần phải bố trí thời gian ở những kênh hình một cách hợp lý mà không bỏ qua phần cơ bản là kênh chữ. Bốn là: Kết hợp sử dụng kênh hình sách giáo khoa với các đồ dùng được trang bị. Như bản đồ, sơ đồ, tranh ảnh phóng to, các tài liệu thành văn có liên quan. Với những kênh hình khó quan sát, mờ hoặc chưa cụ thể, giáo viên có thể phóng to, sưu tầm ảnh màu trên Internet hoặc cụ thể hóa để các em dễ nhận biết và tiếp thu hơn. Năm là: Nội dung thuyết minh kênh hình phải sinh động, hấp dẫn, kết hợp với những lời nói truyền cảm thì mới có sức thuyết phục cao đối với học sinh. Sáu là: Phương pháp thường hay sử dụng để khai thác kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử là. Hướng dẫn học sinh quan sát ( từ tổng thể đến chi tiết ), kết hợp miêu tả, phân tích, đàm thoại thông qua hệ thống câu hỏi gợi mở của giáo viên để học sinh tự rút ra được ý nghĩa của kênh hình đó. Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm, cá nhân hoặc toàn lớp… Hiệu quả sử dụng kênh hình còn phụ thuộc vào sự ham muốn của học sinh, giáo viên phải là người đưa ra tình huống có vấn đề để kích thích sự hiểu biết của học sinh, khơi dậy niềm đam mê của học sinh đối với môn học. 2.3. Ứng dụng cụ thể: Với những kĩ năng cơ bản và các nguyên tắc nêu trên, dưới đây là một số ứng dụng cụ thể: Hình 1: Khu di tích thánh địa Mĩ Sơn (Quảng Nam).
<span class='text_page_counter'>(10)</span> (Lớp 6, Bài 24: Nước Cham-pa từ thế kỷ II đến thế kỷ X). * Mục đích cần hướng đến Một di tích lịch sử và văn hoá tiêu biểu của Cham-pa, một di sản văn hoá thế giới. * Kiến thức cơ bản để khai thác. Thánh địa Mĩ Sơn thuộc huyện Duy Xuyên, Quảng Nam, cách Đà Nẵng 70 km về phía tây - nam. Năm 1898, một người Pháp tên M.C Pa-ris đã phát hiện khu đền tháp Mĩ Sơn nằm kín trong một thung lũng hẹp, giữa những khu rừng rậm. Mĩ Sơn là một quần thể với hơn 70 đền tháp, được xây dựng liên tục trong suốt 1000 năm. Khởi công từ thế kỉ IV bởi vị vua Bha-dra-var-man và kết thúc vào đầu thế kỷ XIV dưới triều vua Sim-ha-var-man III ( vua Chế Mân), để thờ thần và các vị vua quá cố. Đền tháp được xây bằng gạch, còn tượng được tạc bằng đá. Hầu hết các công trình kiến trúc và điêu khắc ở đây đều mang ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ giáo. Do thời gian, thời tiết và sự tàn phá của chiến tranh, hiện Mĩ Sơn chỉ còn lại khoảng gần 20 đền tháp. Dù vậy với những gì còn lại tại Mĩ Sơn cũng như những hiện vật được lưu giữ tại bảo tàng Cham-pa tại Đà Nẵng, bảo tàng Lịch sử thành phố Hồ Chí Minh...cũng đủ làm cho chúng ta vô cùng thán phục về nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và trang trí của người Cham-pa cổ xưa. Thánh địa Mĩ Sơn xứng đáng là khu di tích tôn giáo kỳ vĩ nhất, đặt trưng nhất về di sản văn hoá vật thể của người Chăm-pa. Với tầm vóc đó, tháng 121999 UNESCO đã công nhận Thánh địa Mĩ Sơn là di sản văn hoá thế giới. * Câu hỏi sử dụng Câu 1: Sau khi quan sát các chi tiết thánh địa Mĩ Sơn; Em có nhận xét gì về hình dáng kiến trúc, chất liệu xây dựng, số lượng công trình...?.
<span class='text_page_counter'>(11)</span> Câu 2: Ngoài ra, em còn biết gì thêm về thánh địa Mĩ Sơn? Câu 3: Qua tìm hiểu, thánh địa Mĩ Sơn nói lên điều gì? Hình 2: Lược đồ những cuộc phát kiến địa lý (Bài 2, Lớp 7: Sự suy vong của chế độ phong kiến và sự hình thành chủ nghĩa tư bản ở châu Âu). * Mục đích cần hướng đến Cống hiến lớn lao của các nhà thám hiểm Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha cho văn minh thế giới ở thế kỷ XV-XVI. * Kiến thức cơ bản để khai thác. Vào thế kỉ XV thương nhân và những nhà hàng hải châu Âu hiểu biết về thế giới còn rất hạn chế. Họ chỉ quen thuộc đường biển quanh châu Âu và Địa Trung Hải, còn phương Đông nhất là Ấn Độ đối với họ không chỉ là xứ sở giàu hương liệu, gia vị, tơ lụa mà còn là một vùng đất giàu không thể tưởng tượng được về vàng, phương Đông được tô vẽ thành một thế giới thần tiên trong Nghìn lẻ một đêm (cuốn truyện của người Ả rập) và cuốn Những truyện kì lạ (du kí của Mác-cô Pô-lô, người Ý). Thế kỉ XV con đường mua bán từ châu Âu sang phương Đông bằng đường bộ (Tây Á) và đường thủy (Địa Trung Hải) bị thổ dân Ap-ga-ni-xtan, người Thổ và người Ả rập độc chiếm. Vấn đề cấp thiết được đặt ra là phải tìm con đường thương mại giữa phương Đông và châu Âu. Vào thời điểm đó khoa học kĩ thuật có những bước tiến quan trọng. Các nhà hàng hải hiểu biết nhiều về đại dương, có quan niệm đúng đắn về hình dạng Trái Đất. Người ta đã vẽ được nhiều bản đồ, hải đồ ghi rõ những vùng đất, các hòn đảo có dân cư. Máy đo góc thiên văn, sử dụng la bàn được sử dụng trong việc định hướng giữa đại dương bao la. Kĩ thuật đóng tàu phát triển...Đây chính là tiền đề cho các cuộc phát kiến địa lí. Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha là những nước tiên phong trong các cuộc thám hiểm, khám phá ra những vùng đất mới. Trong đó Hoàng tử Hen ri (1393-.
<span class='text_page_counter'>(12)</span> 1460) con trai quốc vương Bồ Đào Nha, được xem là danh nhân thứ nhất. Tuy nhiên những cuộc thám hiểm của người Bồ Đào Nha cho đến những năm 70 của thế kỉ XV cũng mới chỉ đến Vịnh Ghi-nê của châu Phi. Dưới đây là một số hình ảnh mà tôi đã sưu tầm được để làm rõ hơn về hành trình của các nhà thám hiểm mà hình ảnh trong sách giáo khoa không có.. Hành trình thám hiểm của Đi-a-xơ * Năm 1487 B.Di-a-xơ (1450-1550) là hiệp sĩ “Hoàng gia” đã tiến hành cuộc thám hiểm xuống vùng biển phía nam châu Phi, bị bão thổi bật xuống phía nam và bất ngờ đi tới mũi cực nam châu Phi, điểm đó ông đặt tên là mũi Bão tố, sau gọi là mũi Hảo vọng. Các hoa tiêu người Hồi giáo đã sẵn sàng dẫn đường cho ông sang Ấn Độ, nhưng các thuỷ thủ của ông nổi loạn, buộc ông phải quay trở lại Bồ Đào Nha, từ bỏ cái vinh dự là người châu Âu đầu tiên mở đường tới Ấn Độ. Dù vậy Ông vẫn khẳng định có thể đi đến Ấn Độ bằng đường biển, và cuộc thám hiểm của ông đã chuẩn bị mọi điều kiện cho các cuộc thám hiểm về sau của Bồ Đào Nha..
<span class='text_page_counter'>(13)</span> Hành trình thám hiểm của Cô-lôm-bô * Tháng 8-1492 C. Cô-lôm-bô (1451-1506) đã dẫn đầu đoàn thuỷ thủ 90 người với 3 chiếc tàu rời cảng Pa-lốt (Tây Ban Nha) đi về hướng Tây. Sau hai tháng lênh đênh trên Đại Tây Dương, ông đã đến một số đảo thuộc vùng biển Ca-ri-bê ( châu Mĩ ), nhưng ông tưởng đây là miền “Đông Ấn Độ”. Quay trở về Tây Ban Nha ông được phong chức Thượng tướng hải quân, tổng đốc Ấn Độ. Cô-lôm-bô được coi là người đầu tiên phát hiện ra châu Mĩ, nhưng do tưởng lầm là Ấn Độ nên châu Mĩ ngày nay không mang tên ông mà mang tên một nhà thám hiểm khác..
<span class='text_page_counter'>(14)</span> Cô-lôm-bô tuyên bố chủ quyền thế giới mới. Hành trình thám hiểm của Va-xcô đ Ga-ma * Tháng 7-1497 Va-xcô đơ Ga-ma (1469-1524), chỉ huy đoàn thuyền Bồ Đào Nha rời cảng Lix-bon, đi xa bờ châu Phi để tránh những dòng nghịch lưu, bão táp thổi họ đến bờ B-ra-xin, họ tưởng đó là một hòn đảo, đoàn tàu chuyển hướng về phía Đông và đến được mũi Hảo vọng. Sau đó, đoàn thám hiểm đi lên phía bắc, tháng 5-1498 đến Ca-li-cut, bờ biển Tây Nam Ấn Độ. Nhưng người Ấn Độ không cho người Bồ Đào Nha mua bán và cuộc hội kiến đầu tiên giữa người châu Âu và người Ấn Độ đã phải kết thúc bằng một cuộc xung đột vũ trang. Trên đường trở về, người Bồ Đào Nha đã cướp sạch thuyền bè và giết người Ấn Độ mà họ gặp, đoàn thám hiểm trở về mang theo một số lượng lớn vàng bạc, châu báu, tơ lụa, gia vị, đá qúi, ngà voi… trị giá gấp 60 lần tiền dùng cho cuộc viễn chinh, và Va-xcô Đơ-ga-ma được phong làm Phó vương Ấn Độ..
<span class='text_page_counter'>(15)</span> Hành trình thám hiểm của Ma-gien-lan * Ph. Ma-gien-lan (1480-1521) là người đầu tiên thực hiện chuyến đi vòng quanh thế giới từ 1519 đến 1522. Đoàn thám hiểm của ông gồm 5 chiếc tàu với 265 thuỷ thủ đi vòng qua cực nam của Nam Mĩ (sau này được gọi là eo biển Ma-gien-lan) tiến vào đại dương, ông đặt tên là Thái Bình Dương, tại Philíp-Pin, ông bị thiệt mạng trong lúc giao tranh với người thổ dân, cuối cùng đoàn thám hiểm chỉ còn 1 thuyền và 18 thuỷ thủ đã về đến bờ biển Tây Ban Nha. Chiến công của Ma-gien-lan đã vượt lên tất cả mọi chiến công. Ông đã biến những gì mà biết bao thế hệ trước coi như giấc mơ đã trở thành hiện thực. Trên cơ sở những cuộc thám hiểm đó, hiểu biết của con người được mở rộng. Khẳng định trái đất là hình cầu, đồng thời con người còn biết những con đường mới, những vùng đất mới và các dân tộc mới trên thế giới. Đây chính là ý nghĩa lớn nhất của các cuộc phát kiến về địa lí, đồng thời đó cũng là cống hiến lớn lao của các nhà thám hiểm Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha cho văn minh nhân loại ở thế kỷ XV-XVI. * Câu hỏi sử dụng Câu 1: Vào thế kỉ XV thương nhân và những nhà hàng hải châu Âu hiểu biết như thế nào về đường biển thế giới và phương Đông? Câu 2: Vì sao họ phải tìm đường sang phương Đông và điều kiện để thực hiện các cuộc hành trình là gì? Câu 3: Các cuộc hành trình đã diễn ra như thế nào và đạt được kết quả gì? Câu 4: Em có nhận xét gì về cuộc hành trình của Ma-gien-lan? Câu 5: Cống hiến lớn lao của các nhà thám hiểm Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha cho văn minh thế giới ở TK XV-XVI là gì? Qua phần trình bày của giáo viên có sự kết hợp các loại kênh hình ( cả lược đồ và tranh ảnh minh họa ) ở trên cùng với phần thuyết minh và kể chuyện chắc chắn học sinh rất thích thú, nắm được bài chắc hơn, trả lời được các câu hỏi mà giáo viên đưa ra và đó chính là hiệu quả của việc khai thác kênh hình đúng cách. Hình 3: Tượng đội quân bằng đất nung trong khu mộ Tần Thuỷ Hoàng (Lớp 7, Bài 4: Trung Quốc thời phong kiến).
<span class='text_page_counter'>(16)</span> * Mục đích cần hướng đến Tìm hiểu tính chính diện và phản diện qua kênh hình về thời Tần Thuỷ Hoàng. * Kiến thức cơ bản để khai thác. Tần Thuỷ Hoàng hiệu Doanh Chính, là quốc vương nước Tần thời Chiến quốc. Năm 221 TCN, ông đã thống nhất 7 nước lập ra vương triều phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên ở Trung Quốc. Năm 246 TCN, Tần Thủy Hoàng đã cho xây dựng lăng mộ cho mình, ở phía Đông Bắc núi Ly Sơn thuộc Tây An. Công trình kéo dài suốt 36 năm với sự tham gia thi công của hàng chục vạn người (theo sử sách ghi chép lại, 70 vạn người để xây dựng lăng mộ và cung A Phòng cho Tần Thủy Hoàng). Điều này cho thấy rằng qui mô là rất lớn. Ngoài ngôi mộ khổng lồ trên mặt đất, còn có một cung điện dưới lòng đất. Sau khi hoàn thành công việc những người tham gia thi công đều đã bị giết để bảo toàn bí mật. Khu lăng mộ này được mệnh danh là kỳ quan thứ 8 của thế giới và là một trong những phát hiện quan trọng nhất của ngành khảo cổ đương đại. Năm 1974 các nhà khảo cổ học của Trung Quốc bắt đầu khai quật khu lăng mộ. Tuy nhiên đến nay chỉ mới khai quật được một phần, chủ yếu là các hầm mộ binh mã, (cách hầm mộ Tần Thủy Hoàng 1.500m về phia Đông), còn hầm mộ chính của Tần Thủy Hoàng vẫn chưa khai quật. Trong việc khai quật 4 hầm mộ binh mã (trong đó có 1 hầm mộ chưa làm xong), với 3 hầm mộ người ta đã phát hiện hơn 8.000 tượng lính, 130 xe ngựa, 500 ngựa, rất nhiều vàng bạc, châu báu và nhiều vô kể binh khí bằng đồng xanh như kiếm, giáo, mác, mũi tên...Nét nổi bật là những tượng lính đều làm bằng thủ công với phương pháp nặn tượng nên nét mặt rất phong phú, sinh động và giống người thật..
<span class='text_page_counter'>(17)</span> Những gì đã được khai quật trong khu lăng mộ Tần Thủy Hoàng phần nào cho ta thấy được sức mạnh quân sự của nhà Tần thời Chiến quốc, đồng thời qua đó nó còn phản ảnh sự tàn bạo của Tần Thủy Hoàng. Mặc khác nó còn thể hiện sự sáng tạo cao về nghệ thuật của nghệ nhân Trung Quốc và trình độ kĩ thuật làm gốm, luyện kim đứng đầu thế giới của Trung Quốc thời bấy giờ. * Câu hỏi sử dụng Câu 1: Sau khi quan sát tượng đội quân bằng đất nung trong khu mộ Tần Thuỷ Hoàng; Em có nhận xét gì về số lượng, hàng lối, hình dáng, nét mặt của các tượng?... Câu 2: Số lượng, hàng lối, hình dáng, nét mặt của các tượng nói lên điều gì? Hình 4: Chân dung nhà bác học Niu-tơn (Lớp 8, Bài 7: Sự phát triển của kỹ thuật, khoa học và nghệ thuật thế kỷ XVIII XIX) * Mục đích cần hướng đến Tìm hiểu những tiến bộ về khoa học tự nhiên ở thế kỷ XVIII - XIX, đặc biệt là những đóng góp của nhà bác học Niu-tơn đối với nhân loại. * Kiến thức cơ bản để khai thác. Trong những thành tựu về khoa học tự nhiên ở thế kỷ XVIII – XIX thì tiêu biểu nhất là những đóng góp của nhà bác học Niu-tơn.. Chân dung nhà Bác học Niu-tơn Giáo viên giới thiệu đôi nét về nhà bác học Niu-tơn (1642 - 1727): Nhà vật lý, toán học nước Anh, người được thế giới tôn là "người sáng lập ra vật lý học cổ điển". Niu-tơn xuất thân gia đình quý tộc nông thôn. Cha của Niu-tơn mất trước khi ông ra đời. Lúc mới sinh Niu-tơn ốm yếu, quặt quẹo. Bà mẹ quan tâm chăm sóc sức khỏe cho Niu-tơn nhiều hơn đường học vấn. Năm 12 tuổi, bà.
<span class='text_page_counter'>(18)</span> mới cho con trai đi học. Vì sức yếu, cậu thường bị các bạn bắt nạt. Cậu bèn nghĩ ra cách trả thù thú vị, là quyết tâm học thật giỏi để đứng đầu lớp. Năm 17 tuổi, Niu-tơn vào học ở trường Đại học tổng hợp Kem-brit-giơ. Thời gian còn là sinh viên, Niu-tơn đã tìm ra nhị thức trong toán học giải tích, được gọi là "nhị thức Niu-tơn". Năm 19 tuổi bắt đầu vào Đại học Cam-birge, bắt đầu nghiên cứu rộng rãi khoa học tự nhiên. Năm 27 tuổi, ông được cử làm giáo sư toán ở trường Đại học nơi ông học; năm 30 tuổi, ông được bầu làm hội viên Hội khoa học hoàng gia Anh (Viện hàn lâm) và 23 năm cuối đời, ông làm chủ tịch Hội khoa học hoàng gia Anh. Ông còn là hội viên danh dự của nhiều Hội khoa học và viện sĩ của nhiều Viện hàn lâm. Thành tựu khoa học của ông trên nhiều lĩnh vực, tích vi phân ông sáng lập là một cột mốc trong lịch sử toán học; giải thích về các loại màu sắc của vật thể đã mở đường sáng lập khoa học quang phổ. Cống hiến lớn khiến tên tuổi ông trở thành bất tử là ba định luật về chuyển động đặt cơ sở lý luận cho lực học kinh điển, quan trọng nhất là "Nguyên lý vạn vật hấp dẫn". Đây là nguyên lý cơ sở cho những phát minh vật lý học, cơ học, thiên văn học trong nhiều thế kỷ. Niu-tơn sống cuộc đời độc thân và hết sức đãng trí. Tính đãng trí của ông đã trở thành những giai thoại như chuyện mời cơm khách, chuyện luộc đồng hồ, chuyện đục hai lỗ cho chó và mèo...Niu-tơn mất năm 84 tuổi. Ông được mai táng ở Đài kỷ niệm quốc gia Anh trong tu viện Oetminxtơ - nơi an nghỉ của các vua chúa và các bậc vĩ nhân của nước Anh. * Câu hỏi sử dụng Câu 1: Em biết gì về nhà bác học Niu-tơn? Câu 2: Hãy kể tên những phát minh của nhà bác học vĩ đại này? Hình 5: Bãi đỗ ô tô ở Niu-Yoóc năm 1928 Hình 6: Công nhân xây dựng cao ốc ở Mĩ Hình 7: Nhà ở của người lao động Mĩ trong những năm 20 của thế kỷ XX (Lớp 8, Bài 18: Nước Mĩ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới ) * Mục đích cần hướng đến: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu tình hình nước Mĩ trong thập niên 20 của thế kỷ XX. * Kiến thức cơ bản để khai thác: - Hình 5: là hình ảnh một bãi đỗ xe ô tô tại một bờ biển ở Niu Óoc vào ngày nghỉ cuối tuần. Vào thời điểm đó người Việt Nam chưa có nổi chiếc xe đạp để đi nhưng người Mĩ đã đi xe hơi. Hình ảnh đó thể hiện sự văn minh, hiện đại và đẳng cấp của người Mĩ luôn đi trước thời đại, nó cũng thể hiện sự phát triển vượt bậc của nền công nghiệp Mĩ, đặc biệt là công nghiệp chế tạo ô tô. - Hình 6: là hình ảnh những người công nhân Mĩ đang xây dựng những tòa nhà cao ốc cao chọc trời ( nhưng lại lao động trong điều kiện vô cùng nguy hiểm, ở trên cao mà không hề có thiết bị bảo hộ lao động ). Cả hai hình ảnh trên đều nói về sự giàu có, phồn thịnh của nước Mĩ ở đầu thế kỷ XX ( ở nhà lầu, đi xe hơi )..
<span class='text_page_counter'>(19)</span>
<span class='text_page_counter'>(20)</span> - Hình 7: là nhà ở của người lao động Mĩ. Nó thể hiện xã hội Mĩ có sự phân hóa sâu sắc giữa người giàu (những triệu phú, tỉ phú) với người nghèo, những người nghèo chỉ có những túp lều tranh, dột nát, bẩn thỉu, như các “ổ chuột” làm nơi trú ngụ, bên cạnh những “nhà chọc trời” của người giàu sang. Điều đó cho thấy xã hội Mĩ đầy rẫy những bất công. Người lao động làm ra sản phẩm nuôi sống xã hội, đem lại sự phồn vinh cho đất nước, nhưng họ không bao giờ được hưởng thành quả do mình làm ra. * Câu hỏi sử dụng Câu 1: Các bức ảnh trên phản ánh điều gì? Câu 2: Nêu nhận xét của em về tình hình xã hội Mĩ ở đầu thế kỷ XX?.
<span class='text_page_counter'>(21)</span> Hình 8: Bức tranh đương thời mô tả chính sách mới ở Mĩ (Lớp 8, Bài 18: Nước Mĩ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới ). * Mục đích cần hướng đến Tìm hiểu nội dung của chính sách mới do tổng thống Ru-dơ-ven thực hiện vào năm 1932 ở Mĩ. * Kiến thức cơ bản để khai thác: Người khổng lồ tượng trưng cho nhà nước, thể hiện vai trò quản lý của nhà nước đối với các ngành kinh tế. Trước đó nước Mĩ bị khủng hoảng vì sản xuất ồ ạt không có định hướng, không có chiến lược, không có sự quản lý điều tiết của nhà nước. Nay để tìm lối thoát cho cuộc khủng hoảng đó, nhà nước tư sản đã tăng cường vai trò của mình trong tất cả các ngành kinh tế ( thể hiện ở bàn tay lực lưỡng thâu tóm các sợi dây vô hình, sợi dây đó được nối với các ngành kinh tế như công nghiệp, nông nghiệp, ngân hàng…) Kết quả là « Chính sách mới » đã cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản Mĩ, tổ chức lại sản xuất, cứu trợ người thất nghiệp, tạo thêm nhiều việc làm mới, ổn định tình hình chính trị và giúp nước Mĩ duy trì được chế độ dân chủ tư sản..
<span class='text_page_counter'>(22)</span> Ru-dơ-ven Tổng thống vĩ đại nhất nước Mỹ. Bên cạnh việc phân tích trên, giáo viên cho học sinh biết thêm một số thông tin về tổng thống Ru-dơ-ven: Sinh trưởng trong một gia đình giàu có ở vùng thung lũng sông Hút-sơn, Niu-Yoóc, khi học xong bậc trung học, năm 1905, Phran-klin D. Ru-dơ-ven ghi danh theo học tại Phân khoa Luật, Trường Đại học Cô-lôm-bi-a. Năm 1907, ông trúng tuyển kỳ thi được công nhận làm luật sư của tiểu bang Niu-Yoóc. Năm 1910, ông được bầu chọn vào thượng viện tiểu bang Niu-Yoóc. Năm 1913, ông được Tổng thống W.Uyn-sơn bổ nhiệm làm phụ tá Bộ trưởng Bộ Hải quân và giữ chức vụ này liên tiếp 6 năm. Mùa hè năm 1921, ông lâm trọng bệnh, gần như cả hai chân đều bị bại liệt tưởng như chẳng bao giờ phục hồi được. Tình trạng này khiến cho ông phải sử dụng xe lăn để di chuyển. Dù là vậy, ông vẫn hăng say hoạt động chính trị. Năm 1928, ông ra ứng cử chức thống đốc tiểu bang Niu-Yoóc và trúng cử. Tháng 10-1929, Hoa Kỳ lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế. Tổng thống Hoa Kỳ là ông H. Hôvơ (Đảng Cộng hòa) hành động rất chậm chạp để cứu trợ. Nông dân lâm vào cảnh khốn cùng, và từ chối, không chịu trợ giúp, giới công nhân nhà máy lâm vào cảnh thất nghiệp. Trong khi đó, tại tiểu bang Niu-Yoóc, ông Ru-dơ-ven cho thiết lập Ủy ban Cứu trợ khẩn cấp để trợ giúp những người cần được trợ giúp. Việc làm này đã giúp cho những người dân nghèo ở Niu-Yoóc thoát khỏi cảnh điêu đứng lầm than. Vì thế mà họ nức lòng ca tụng ông là người có tài lãnh đạo quản lý nhân dân. Tiếng lành đồn xa tiếng dữ đồn xa. Chẳng bao lâu, nhân dân cả nước đều biết đến ông và ông trở thành niềm hy vọng của người dân Hoa Kỳ giữa thời đại khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Trong kỳ bầu cử tổng thống vào tháng 11-1932, Phran-klin D. Ru-dơ-ven được Đảng Dân chủ đề cử ra làm ứng cử viên đối đầu với ứng cử viên của Đảng Cộng hòa là Tổng thống H.Hô-vơ để cùng thi tài chạy đua vào Nhà Trắng. Một phần nhờ đã có tiếng tăm lừng lẫy từ năm 1929 khi cho thành lập Ủy ban Cứu trợ khẩn cấp ở Niu-Yoóc, một phần do tình trạng thất nhân tâm của Tổng thống H.Hô-vơ và Đảng Cộng hòa do việc chậm trễ trong việc cứu trợ nông dân lâm cảnh khốn cùng, và từ chối, không chịu trợ cấp cho công nhân tại các nhà máy kỹ nghệ bị thất nghiệp gây ra, ông Ru-dơ-ven đắc cử dễ dàng với 472 phiếu cử tri đoàn, và 22.821.277 phiếu bầu của nhân dân (57,4%), trong khi ứng cử viên của Đảng Cộng hòa chỉ được 59.
<span class='text_page_counter'>(23)</span> phiếu cử tri đoàn và 15.761.254 phiếu bầu của nhân dân (39,7%). Các nhà sử học đều cho rằng, Tổng thống Ru-dơ-ven là vị tổng thống Hoa Kỳ được cả nhân dân Mỹ kính phục. Nhân dân Mỹ luôn nhớ đến ông và coi ông như là một nhà lãnh đạo tài giỏi và đầy lòng nhân ái vì những công lao: Đưa đất nước Hoa Kỳ ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế giúp cho dân nghèo, những phế nhân hay người bất hạnh bị tàn tật không thể mưu sinh được bảo đảm khỏi phải sống trong cảnh điêu linh khốn khổ thiếu cơm thiếu áo; giúp cho người dân lao động trút được gánh nặng lo âu vào những khi thất nghiệp, không có công ăn việc làm hay vào khi đau ốm và già yếu; đưa Hoa Kỳ lên hàng siêu cường trên thế giới. . * Câu hỏi sử dụng: Câu 1: Em biết gì về tổng thống Ru-dơ-ven? Câu 2: Nội dung của chính sách mới là gì? Câu 3: Nêu nhận xét của em về kết quả của chính sách mới? Hình 9: Tranh biếm họa ở châu Âu năm 1939 (Lớp 8, Bài 18: Chiến tranh thế giới thứ hai). * Mục đích cần hướng đến Hít-le được ví như người khổng lồ, xung quanh là các chính khách châu Âu đã nhượng bộ Hít-le. * Kiến thức cơ bản để khai thác: Tiểu sử về Hitle Adolf Hitle sinh ngày 20-4-1889, tự sát ngày 30-4-1945. Là chủ tịch đảng Đức Quốc xã từ năm 1921, làm thủ tướng Đức từ năm 1933, là "Lãnh tụ và Thủ tướng đế quốc" kiêm nguyên thủ quốc gia nắm quyền Đế quốc Đức kể từ năm 1934. Ông kiến lập chế độ độc quyền quốc gia xã hội của Đệ tam Đế quốc, cấm.
<span class='text_page_counter'>(24)</span> chỉ tất cả các đảng đối lập và bức hại các đối thủ chính trị. Ông đã khởi phát thế chiến thứ hai, thúc đẩy một cách có hệ thống quá trình tước đoạt quyền lợi và sát hại khoảng sáu triệu người Do Thái châu Âu cùng một số nhóm chủng tộc, tôn giáo, chính trị khác, được gọi là cuộc Đại đồ sát dân Do Thái. Điều đặc biệt là cả Hít-le và vua hài Sác-lô đều sinh cùng thời điểm là tháng 4 năm 1889 ( vua hài Sác-lô sinh ngày 15/4/1889) nhưng một người thì mang lại tiếng cười cho cả thế giới, còn người kia thì làm cho cả thế giới phải khóc ( vì Hít-le đã châm ngòi cho cuộc chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ - một cuộc chiến tranh tàn khốc nhất trong lịch sử nhân loại, làm hơn 60 triệu người chết. ) Hầu như tất cả các nhà viết tiểu sử Hitler đều nhấn mạnh sự khác nhau rất rõ giữa hai phần đời của ông. Đoạn đời trước tuổi ba mươi của ông, nếu so với mức bình dân thời đó chỉ được xem là khoảng đời không thành đạt, bởi Hit-le không được đào tạo nghề nghiệp, không có mối quan hệ nào đáng kể, sau thất bại của nước Đức trong Thế chiến thứ nhất ông là một người lính không có triển vọng và hơn hết là ông không có những cá tính đặc thù để có thể giải thích một cách thuyết phục được sự thăng tiến sau đó của mình. Mặc dù vậy, nhân vật này chỉ trong vòng vài năm đã bước lên ngôi Thủ tướng Đức và cuối cùng, đã trở thành người cầm quyền độc tài, cai trị phần lớn châu Âu. Hit-le là một trong số ít các nhân vật trong lịch sử nhân loại đã phát huy một năng lực hủy hoại hiếm thấy. Câu hỏi sử dụng Câu 1: Em hãy quan sát thật kĩ bức tranh biếm họa về Hit-le và cho biết nội dung bức tranh muốn nói lên điều gì? Câu 2: Em biết gì về trùm phát xít Hít-le? Câu 3: Qua những hiểu biết của mình; Em đánh giá như thế nào về nhân vật này? Hình 10: Ảnh chân dung Nel-son Man-de-la ( Lớp 9, Bài 6: Các nước châu Phi ).
<span class='text_page_counter'>(25)</span> * Mục đích cần hướng đến Tìm hiểu một nhân vật lịch sử đương đại tiêu biểu của châu Phi và thế giới về phong trào đấu tranh cho tự do-dân chủ, chống đói nghèo và bệnh tật... * Kiến thức cơ bản để khai thác. Nel-son Man-de-la sinh ngày 18-7-1918 tại Nam Phi. Ngay từ thời trẻ, ông đã đấu tranh chống chế độ A-pac-thai. Năm 1948, bắt đầu tham gia chính trường, gia nhập đảng Đại hội dân tộc Phi (ANC). Ông chịu ảnh hưởng tư tưởng của Ma-hat-ma Gan-dhi ( nhà cách mạng Ấn Độ ) và chủ trương đòi quyền lợi cho người da đen thông qua các biện pháp đấu tranh bằng hoà bình. Tuy nhiên càng ngày Man-de-la càng nhận ra rằng đấu tranh hoà bình sẽ chẳng đi đến đâu. Năm 1961, ông lãnh đạo phong trào vũ trang của ANC. Tháng 8-1963 ông bị bắt và bị kết án tù chung thân. Mặc dù ở trong tù, nhưng ông vẫn tiếp tục đấu tranh. Bên cạnh đó phong trào đấu tranh đòi tự do cho ông diễn ra ngày một mạnh mẽ cả trong nước và quốc tế. Trước sức ép của dư luận, nhà cầm quyền Nam Phi phải kí lệnh trả tự do cho Man-de-la vào tháng 2-1990, chấm dứt 27 năm ông bị giam cầm. Sau khi ra tù Ông trở lại nắm quyền lãnh đạo ANC và tiếp tục đấu tranh bằng phương pháp hoà bình chống chủ nghĩa A-pac-thai. Trước áp lực đấu tranh của người da màu, bản Hiếp pháp tháng 11năm 1993 đã chính thức xoá bỏ chế độ phân biệt chủng tộc. Tinh thần đấu tranh của Ông được cả thế giới ngưỡng mộ và Ông đã nhận được giải thưởng No-bel vì hoà bình ( năm 1993 ). Trong cuộc bầu cử dân chủ đa chủng tộc đầu tiên ở Nam Phi (4-1994), Mandela trở thành Tổng thống. Năm 1999, Ông nghỉ hưu, nhưng lại đấu tranh cho cuộc chiến khác; chiến đấu vì trẻ em, vì người nghèo và vì bệnh tật, đặt biệt là tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS..
<span class='text_page_counter'>(26)</span> Trên cơ sở tinh thần đấu tranh không mệt mỏi đó. Ông xứng đáng là một biểu tượng lịch sử đương đại về tự do-dân chủ, chống đói nghèo và bệnh tật, không những của châu Phi mà còn của thế giới. * Câu hỏi sử dụng Câu 1: Em biết gì về Nel-son Man-de-la ? Câu 2: Qua những hiểu biết của mình; Em đánh giá như thế nào về nhân vật này? Trên đây là một số ví dụ cụ thể về việc khai thác kênh hình như thế nào để đạt hiệu quả tốt nhất, do phụ trách giảng dạy môn Lịch sử ở khối lớp 8 nên phần lớn những ví dụ mà tôi đưa ra chủ yếu nằm trong chương trình lớp 8. Trong khuôn khổ giới hạn của một đề tài, tôi chỉ đưa ra một vài ví dụ minh họa cho phần phân tích ở trên. Nhưng nếu giáo viên nắm chắc các kỹ năng và các nguyên tắc như đã nêu trong đề tài và chịu khó tìm hiểu các tư liệu lịch sử thì chắc chắn khi gặp bất kỳ một kênh hình nào về Lịch sử thì đều có thể phân tích tốt để làm rõ thêm nội dung của bài học. 3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp. Mỗi bài lịch sử có thể có hoặc không có kênh hình trong sách giáo khoa, nhưng rõ ràng là mỗi kênh hình đều chứa đựng rất nhiều nội dung sâu sắc mà qua việc phân tích kênh hình đó thì nội dung của bài học đã được làm rõ nhiều vấn đề, như vậy là không thể phủ nhận vài trò của kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử. Vì vậy với những bài học không có kênh hình trong sách thì giáo viên nên chủ động tìm kiếm những hình ảnh, lược đồ có liên quan đến nội dung bài học để phân tích và minh họa làm cho tiết học Lịch sử thêm sinh động, hấp dẫn. Những kênh hình nhỏ tuy đơn giản nhưng ý nghĩa lại vô cùng lớn. Song cái lớn nhất mà người thầy đạt được đó là lôi cuốn học sinh học môn Lịch sử, tránh nhàm chán, tránh tâm lý nặng nề, làm cho học sinh yêu thích môn học Lịch sử hơn. Nhưng muốn đạt được điều đó, người giáo viên phải lập kế hoạch dạy học một cách chu đáo, làm sao vừa đạt được nội dung kiến thức bài học, vừa lồng ghép được những câu chuyện bằng hình ảnh. Hơn nữa người giáo viên phải rèn luyện kỹ năng khai thác kênh hình một cách hấp dẫn, đây là năng lực sư phạm cần thiết của người giáo viên lịch sử. Ngoài ra, để tạo hứng thú và lôi cuốn học sinh đến với bộ môn Lịch sử giáo viên cần phải nhiệt huyết trong quá trình giảng dạy, sưu tầm bổ sung tư liệu phục vụ cho việc dạy, tiếp tục học hỏi kinh nghiệm và tìm cách truyền đạt để có được sự vững chắc trong kiến thức, sự lôi cuốn trong phong cách nhằm thu hút học sinh. Ngoài ra, hình thành cho học sinh tính độc lập, sáng tạo và năng động để tiếp thu và lĩnh hội kiến thức trong quá trình học. 4. Mối liên hệ giữa giải pháp, biện pháp. Biện pháp trên có thể áp dụng ở nhiều bài dạy Lịch sử, ở hầu hết các khối lớp để tăng tính hiệu quả và hấp dẫn trong tiết học Lịch sử. Tuy vậy nhưng khi thực hiện giáo viên phải phối hợp linh hoạt các biện pháp khác nhau phù hợp với nội dung của từng bài học để tăng tính hiệu quả của tiết dạy, nếu không sẽ đơn điệu và nhàm chán..
<span class='text_page_counter'>(27)</span> Hơn nữa đối tượng nghiên cứu của khoa học Lịch sử bao gồm nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, tư tưởng. Do đó, việc nghiên cứu, trình bày phải có kiến thức của tất cả các lĩnh vực. Các khóa trình Lịch sử ở trường phổ thông trình bày và cung cấp cho học sinh tiến trình Lịch sử thế giới và dân tộc trên tất cả các mặt. Vì vậy để hiểu rõ cũng như tránh nhận thức một cách rời rạc, tản mạn, thì việc chuẩn bị và vận dụng kiến thức liên ngành là rất cần thiết. Trong dạy học nói chung và dạy học Lịch sử nói riêng, nếu kết hợp trình bày miệng với sử dụng đồ dùng trực quan ( hình ảnh, lược đồ, sơ đồ…), tài liệu tham khảo của các khoa học khác thì bài giảng sẽ hấp dẫn và hiệu quả hơn nhiều. 5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu. Bản thân tôi đang đảm nhận việc giảng dạy môn Lịch sử ở khối lớp 9 và đã từng giảng dạy ở tất cả các khối lớp ở nhiều trường,nhiều đối tượng học sinh khác nhau, trong quá trình giảng dạy với ý thức vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập bộ môn của học sinh vừa tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy. Và sau mỗi tiết dạy có sử dụng kênh hình tôi lại rút ra được kinh nghiệm cho bản thân để những tiết học sau tôi sẽ phân tích hay hơn, hấp dẫn hơn, nội dung bài học càng được in đậm hơn. Và tất nhiên việc khai thác nội dung kênh hình không phải bao giờ cũng thực hiện một chiều tức là chỉ có giáo viên trình bày cho học sinh nghe mà người giáo viên phải biết khơi gợi để học sinh tự phát hiện thông tin, tự trình bày theo ý hiểu của mình. Qua đó còn rèn luyện được tính mạnh dạn, tự tin và khả năng thuyết trình trước tập thể trong mọi hoạt động của học sinh. Kết quả điều tra tôi nhận thấy đa số học sinh đều thích được tìm hiểu khám phá các kênh hình, nhưng chỉ có một số em là trình bày được một cách rành rọt, lưu loát, một số em thì có thể hiểu nội dung nhưng không đủ tự tin để xung phong trình bày, số còn lại thì không hiểu gì hoặc không nắm được nội dung kênh hình và cũng không biết trình bày ý kiến của mình. Do vậy kết quả điều tra những học sinh biết phân tích ý nghĩa của kênh hình cũng không cao, cụ thể đầu năm học 2013 -2014 đã thực hiện ở lớp 9B như sau: 08/31 biết trình bày tốt (Tỉ lệ : 25,8%) 08/31 biết trình bày (Tỉ lệ : 25,8%) 15/31 không biết trình bày ( Tỉ lệ :48,4%) IV. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu. Thông qua việc hướng dẫn học sinh khai thác nội dung kiến thức sách giáo khoa trong quá trình học bộ môn Lịch sử thông qua việc khai thác nội dung kênh hình lịch sử, kết quả học tập bộ môn tại lớp 9B trường THCS Thanh Văn cuối năm học 2013 - 2014 đạt hiệu quả rõ rệt: 19/31 biết trình bày tốt (Tỉ lệ : 61,3%) 11/31 biết trình bày (Tỉ lệ : 35,5%) 01/31 không biết trình bày ( Tỉ lệ : 3,2%).
<span class='text_page_counter'>(28)</span> Từ kết quả thu được tôi nhận thấy việc khai thác kênh hình trong dạy học là rất cần thiết, đặc biệt đối với môn Lịch sử. Nếu tận dụng tốt trong tiết dạy sẽ đem lại hiệu quả cao, đây cũng là một trong những nội dung thể hiện sự đổi mới phương pháp dạy học, làm cho kết quả học tập bộ môn không ngừng được nâng cao. Điều đó cho thấy đổi mới phương pháp dạy học là một định hướng đúng đắn. Tôi đã áp dụng biện pháp này ở rất nhiều bài, rất nhiều khối lớp khác nhau, kết quả đạt được là rất khả quan, các em rất chăm chú khi tôi phân tích, rất muốn được tham gia cùng tìm hiểu, rất hăng say suy nghĩ phát biểu khi tôi đưa ra những câu hỏi về các sự kiện, các vấn đề lịch sử. Đặc biệt là những tiết học có sử dụng nhiều hình ảnh và các đồ dùng trực quan nhờ sự hỗ trợ của công nghệ thông tin trong thời gian gần đây khiến học sinh rất phấn khởi thích thú và nắm được bài rất nhanh. C. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ: I. Kết luận Dạy học nói chung, dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông nói riêng là một quá trình. Đó là một quá trình nhận thức đặc thù, trong đó giáo viên tổ chức, dẫn dắt học sinh một cách có mục đích, có kế hoạch để học sinh nắm vững những tri thức cơ bản, kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực nhận thức, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, hình thành nhân cách. Với tinh thần đó, người thầy đóng vai trò quyết định tạo nên chất lượng giáo dục. Đặc biệt với yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay nhằm phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi người thầy không những có đạo đức trong sáng, tâm huyết với nghề nghiệp, mà còn phải có một trình độ chuyên môn vững vàng. Để đạt được yêu cầu trên, đòi hỏi người thầy không ngừng rèn luyện về mọi mặt, trong đó nâng cao trình độ chuyên môn là vấn đề rất quan trọng. Để nâng cao trình độ chuyên môn, người thầy không ngừng tự học để hoàn thiện mọi kĩ năng sư phạm. Trong tình hình hiện nay, với những thành tựu của khoa học - công nghệ, đặt biệt CNTT được ứng dụng ngày càng rộng rãi trong mọi lĩnh vực và ứng dụng CNTT để nâng cao chất lượng giáo dục là một vấn đề thiết yếu. Với giáo viên Lịch sử, việc kết hợp kĩ năng khai thác kênh hình sách giáo khoa với ứng dụng CNTT phục vụ cho giảng dạy, sẽ góp phần tích cực đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Thực hiện tốt, không những hoàn thiện những kĩ năng sư phạm, nâng cao được trình độ chuyên môn của người thầy mà còn phát huy tính tích cực của học sinh trong quá trình học bộ môn. Qua kết quả giảng dạy đã đạt được tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và áp dụng đề tài vào quá trình giảng dạy để nâng cao chất lượng bộ môn và chất lượng giáo dục trong trường học. Trên đây là ý tưởng của tôi bằng kinh nghiệm thực tiễn tôi đã giúp cho các em học sinh có ý thức cao trong học tập, chịu khó tìm tòi, học hỏi để nắm được bài một cách tốt nhất, khiến các em ngày càng yêu thích môn học Lịch sử hơn, từ đó góp phần hình thành nhân cách đạo đức, tư tưởng và lối sống cho các.
<span class='text_page_counter'>(29)</span> em trở thành những con người hoàn thiện cả về đức – trí - thể - mĩ và đặc biệt là không quay lưng lại với lịch sử dân tộc. Tuy nhiên với những hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân, đề tài còn nhiều hạn chế. Dù vậy, qua nội dung của vấn đề chắc chắn sẽ góp phần trong việc trao đổi kinh nghiệm chuyên môn cùng đồng nghiệp với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Rất mong sự đóng góp của hội đồng khoa học nhà trường và các đồng nghiệp để Sáng kiến kinh nghiệm này được hoàn chỉnh và mang lại giá trị thực tiễn. II. Kiến nghị Hiện nay việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học nói chung và dạy học Lịch sử nói riêng đang ngày càng trở nên phổ biến ở các trường học phổ thông. Việc ứng dụng đề tài này, đặc biệt là việc khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử đòi hỏi các trường học phải đầu tư nhiều về trang thiết bị như phòng học đảm bảo tiêu chuẩn, hệ thống máy tính có kết nối Internet, máy chiếu…để làm sao tiết học nào cũng có thể sử dụng máy móc làm phương tiện dạy học. Về phía giáo viên phải chịu khó học hỏi, nắm bắt công nghệ thông tin, phải trang bị máy tính để chuẩn bị bài ở nhà và đặc biệt phải sưu tầm nhiều lược đồ, sơ đồ và nhiều tài liệu, hình ảnh có liên quan từ các sách báo và mạng Internet để đưa vào bài giảng. Hơn nữa với môn học Lịch sử còn có một ưu thế nữa hơn các môn học khác là có nhiều tranh ảnh tài liệu cũng như phim tư liệu liên quan đến nội dung bài học để minh họa cho bài giảng làm tăng tính trực quan sinh động. Vì vậy người giáo viên phải luôn phải cập nhật thông tin, chắt lọc thông tin để đưa vào bài giảng một cách hiệu quả nhất. (Tôi cam đoan bản Sáng kiến kinh nghiệm trên là do tôi viết, nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm!) Thanh văn, ngày 20 tháng 3 năm 2014 Tác giả. Trần Việt. Nhận xét,đánh giá,xếp loại của Hội đồng khoa học cấp cơ sở.
<span class='text_page_counter'>(30)</span> (Chủ tịch hội đồng kí,đóng dấu). MỤC LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU: I. Lý do chọn đề tài II. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.. Trang 1 Trang 2.
<span class='text_page_counter'>(31)</span> III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. IV. Giới hạn phạm vi nghiên cứu. V. Phương pháp nghiên cứu.. Trang 2 Trang 2 Trang 2. B. PHẦN NỘI DUNG: I. Cơ sở lý luận Trang 3 II. Thực trạng Trang 3 1. Thuận lợi, khó khăn Trang 3 2. Thành công, hạn chế Trang 5 3. Mặt mạnh, mặt yếu Trang 6 4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động Trang 6 III. Giải pháp, biện pháp Trang 7 1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Trang 7 2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp Trang 7 2.1. Kỹ năng khai thác kênh hình Trang 7 2.2. Nguyên tắc khai thác kênh hình Trang 8 2.3. Ứng dụng cụ thể Trang 10 3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp Trang 26 4. Mối liên hệ giữa giải pháp, biện pháp Trang 26 5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.Trang 27 I IV. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cu Trang 27 C. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ: I. Kết luận II. Kiến nghị. Trang 28 Trang 29. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách chuẩn kiến thức kỹ năng, chương trình giảm tải. 2. Sách giáo khoa Lịch sử lớp 6,7,8,9 3. Cuốn “Những tri thức Lịch sử bạn cần biết”- Tác giả Đặng Thanh Tịnh.
<span class='text_page_counter'>(32)</span> ( Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội ). 4. Phương pháp dạy học lịch sử của Giáo sư Phan Ngọc Liên 5. Phương pháp dạy học Lịch sử - Năm 2001. (Nhà xuất bản Giáo dục) 6. Đại cương lịch sử Việt Nam tập 1, tập 2– (Nhà xuất bản giáo dục – Tác giả Trương Hữu Quýnh) 7. Lịch sử thế giới Hiện đại ( Nhà xuất bản giáo dục- Tác giả Nguyễn Anh Thái) 8. Một số tư liệu, hình ảnh sưu tầm từ mạng Internet. 9. Một số tài liệu tham khảo khác..
<span class='text_page_counter'>(33)</span>