Bản Chất và Phạm Vi của Lo-gic
6. Làm Nổi Bật những Thành Phần Khả Nghi
Trong hoàn cảnh của tranh luận, một thành phần bị nghi ngờ nếu nó được nêu ra
để chuyển tải nhiều điều hơn khả năng của nó. Những thành phần như thế thường
khơi gợi những nghi ngờ của chúng ta, nhưng lại có xu hướng để lại cho chúng ta
những mất mát để làm thế nào đáp trả. Chúng ta sẽ kiểm tra chúng một cách rất
chi tiết trong phần 2. Tuy nhiên, bởi vì những thành phần đáng nghi lại có mặt
khắp nơi và thường gây những ảnh hưởng mạnh mẽ đến chúng ta, nên điều rất
quan trọng là chúng ta biết rõ về chúng một cách sớm ngay từ những điểm đầu
tiên trong công việc của chúng ta về việc tranh luận.
Để quyết định một tranh luận có chứa những thành phần đáng nghi hay không,
chúng ta cần hỏi những câu hỏi như: từ ngữ của tranh luận này có sáng sủa để
chúng ta biết chắc chắn những gì bản thân anh ta hay cô ta cam kết? Có phải
những sự thật được trình bày để hỗ trợ hiệu quả của kết luận như là một hỗ trợ?
Chúng có thích đáng không? Chúng ta có chấp nhận chúng là đúng không? Cụ thể
hơn, những minh hoạ có thích hợp không? Chúng có ý nghĩa không? Và ở mức độ
nào? Những vấn đề đáng được xây dựng hơn là đơn giản quẳng vào sọt rác của
những thứ phát ngán?
Ví dụ hãy đề cập đến lá thư gửi cho biên tập cho buổi nhậm chức Tổng Thống:
"Để đáp lại những lá thư phản đối việc trình bày phô trương và sử dụng tiền
nong sai mục đích quá đáng để thực hiện lễ nhậm chức của Tổng Thống, tôi
muốn nhắc nhở những người phản đối rằng từ những thời điểm không thể
ghi nhớ, quần chúng sùng bái đã chào mừng những người lãnh đạo chính
quyền hết sức trang trọng. Vậy thì tại sao Tổng Thống của liên bang lại nên
tổ chức buổi lễ của ông ở văn phòng trong trang phục đáng vứt đi và bụi
bặm? Vẻ tráng lệ và nghi lễ và sự thể hiện của quần áo lộng lẫy, trang sức, đồ
lông thú và những thứ rực rỡ khác đã đi vào lịch sử như là một phần không
thể thiếu của những lễ đăng quang, không chỉ ở Quốc Gia Hoa Kỳ mà còn ở
hầu hết những nơi của thế giới tự do."
Điều mà người viết thất bại là khi sự thực là Tổng Thống và những người lãnh đạo
của "thế giới tự do" là lãnh đạo của chính quyền, có một điều khác biệt thiết yếu
giữa Tổng Thống của Hoa Kỳ và các lãnh đạo của các quốc gia khác. Khi văn
phòng của Tổng Thống được thành lập, cuộc cách mạng của người Mỹ là nỗi đau
đầu của nhà vua; họ đã không có dự định thành lập một thể chế quân chủ với chức
vị Tổng Thống thay thế vua. Không giống như các chế độ quân chủ, Tổng Thống
được lựa chọn bằng bỏ phiếu của quần chúng và bị coi là người đầy tớ của nhân
dân. Vì thế sẽ không có chuyện dùng làm lễ nhậm chức của Tổng Thống rênh rang
và hậu hỹ như được tổ chức cho các lãnh đạo chính quyền khác. Bài báo sau cũng
có tính nghi vấn tương tự, nhưng vì những lý do khác:
"Trước nhất ông Thompson, ông nghĩ ông là thằng quái nào? Ai cho ông cái
quyền tối cao trong cuộc sống ở cái trường đại học này? Phải chính ông, cũng
giống như bất cứ ai, đã cho mình cái quyền làm theo ý mình, nhưng những lời
bình phẩm vô giáo dục và ngu ngốc của ông đáng được giới hạn Bởi Ban Điều
Tra Quốc Gia. Sự tấn công vô nghĩa của ông vào hệ thống người Hy Lạp của
trường đại học có một tiếng tăm hiếm có là việc trẻ con nhất, lố bịch nhất,
đấy còn là không đề cập đến phần ngu xuẩn thực sự của văn phong ở những
trang này đã được in rất lâu. Thái độ trẻ con của ông không chỉ xúc phạm
đến mọi thành viên của Row mà còn toàn thể cái trường đại học này. Mặc dù
cái đầu óc trẻ con của ông từ chối thừa nhận nó, trường đại học này trong
thực tế rất tự hào về cộng đồng của người Hy Lạp ở đây thậm chí cả với
những nhược điểm của nó."
Hơn là kể cho chúng ta quan điểm của ông Thompson là gì và chúng sai ở đâu,
người viết đã lao vào cuộc tấn công cá nhân, đơn giản bằng cách xổ ra cơn thịnh
nộ và khinh miệt của anh ta. Bằng cách gọi những quan sát của đối thủ là "không
có giáo dục", "ngu ngốc," "vô nghĩa", "lố bịch," vv…, chẳng kể cho chúng ta điều
gì về lời bình phẩm kia cả, và cùng chẳng vì sao mà người viết cho là chúng không
có giá trị.
Chúng ta chẳng cần phải là bậc thầy trong nghệ thuật lập luận cũng biết rằng sự
đúng đắn của chúng ta trong tranh luận . Vì thế, chúng ta không nên chần chừ
trong việc yêu cầu bằng chứng khi một phần trình bày hay giải thích dường như
quá bừa bãi hoặc đáng ngờ. Ví dụ, hãy xem xét phần tranh luận của người được uỷ
quyền bảo vệ trong tình huống lạm dụng trẻ em ở trường McMartin được báo cáo
dưới đây:
Một nhân chứng mười tuổi trong vụ quấy rối ở trường trung học cơ sở McMartin
đã bình tĩnh nhớ lại ngày thứ ba đến ba lần kể từ khi cậu bị cho là thủ phạm giết
một con ngựa một tuần trước đó khi cậu và những bạn trẻ khác bị buộc phải chứng
kiến.
Trong ngày đối chất, cả ngày thứ bốn của kỳ đối chất, cậu bé nói, trong một
cuộc dạo chơi cánh đồng ở gần một trang trại không xác định, người bảo vệ
Raymond Buckey, 26 tuổi, đã xẻ đôi một con ngựa con bằng một con dao dài
2 foot, anh ta dùng nó như một cái rìu.
"Anh ta chặt nó ra" cậu bé kể với người được uỷ quyền Bradley Brunnon,
người đại diện cho người sáng lập Virginia McMartin, 77 tuổi.
"Thậm chí là ra từng mảnh, đúng không?" Brunon hỏi.
"Phải" cậu bé trả lời.
Brunon cho in ra những chi tiết.
Khi được hỏi Buckey đã đâm bao nhiêu nhát vào con ngựa sau khi nó ngã,
đứa bẻ trả lời "Cháu không đếm"
Khi được hỏi Buckey vấy đầy máu sau khi giết con ngựa, nó trả lời "cháu
không biết, cháu không nhìn Ray, cháu nhìn con ngựa"
Bên nguyên đã phản đối tác dụng những câu hỏi chi tiết của người được uỷ
quyền bảo vệ, kêu gọi chất vấn sự không ăn khớp, nhắc đi nhắc lại và đáng
tranh luận
Tuy nhiên, người được uỷ quyền bảo vệ đấu tranh cho rằng những câu hỏi
như thế là cần thiết để chỉ ra rằng đứa trẻ hoặc là đang kể chuyện hoặc là có
một ký ức mơ hồ, và họ chỉ rằng đứa trẻ thường xuyên trả lời là "cháu không
nhớ" hoặc là "cháu không biết".
"Nếu nó thực sự đã nhìn thấy sự kiện hãi hùng đó, nó sẽ phải nhớ chi tiết của
nó", Brunon nói với quan toà trong một trong những cuộc tranh luận của
ngày thứ ba về các câu hỏi.
Rõ ràng, trong quan điểm của người được uỷ quyền Brunon, lời khai của đứa trẻ
sẽ bị nghi ngờ không tuỳ thuộc vào việc nếu đứa trẻ có thể nhớ một cách chi tiết
hay không (mà chắc chắn là nó sẽ nhớ hoặc không nhớ): nếu đứa trẻ nhớ các chi
tiết, đặc biệt là không có mớm chước đó, thì Brunon sẽ phản đối là đứa trẻ đang
bịa (hoặc là được mớm bởi bố mẹ nó hay bên bên nguyên), còn nếu đứa trẻ không
nhớ, Brunon sẽ phê bình là đữa trẻ đã có một ký ức mơ hồ, điều này sẽ làm cho
bản cung khai của đứa trẻ có chút gì nghi vấn. Đặc biệt là điều đáng nghi vấn là
cách bảo vệ của Bruno rằng nếu "đứa trẻ đã nhìn thấy sự việc khủng khiếp đó, nó
sẽ phải nhớ các chi tiết". Đó là việc Bruno tin tưởng rằng có cái gì khủng khiếp
như việc xẻ đôi một con ngựa đã gây sốc đối với đứa trẻ đến nỗi mà mọi chi tiết
của vụ mổ thịt, ăn sâu một cách mạnh mẽ vào tâm trí của đứa bé mãi mãi. Nhưng
điều đó có thể không luôn luôn đúng. Có nhiều trường hợp đối với người ta, đặc
biệt là trẻ con, kìm nén những ký ức về các sự kiện quá khủng khiếp với họ để có
thể nghĩ lại. Cũng có thế là trong những khoảng thời gian nhất định, đứa trẻ sẽ nhớ
các sự kiện cơ bản nhưng không được chi tiết. Nó có thể không tham sự vào tất cả
các chi tiết của vụ xẻ thịt và không thể hồi tưởng lại chúng sau đó. Vì thế các kết
luận của Brunon không được đảm bảo.
7. Đánh Giá các Tranh Luận: Đúng, Giá Trị và Hợp Lý
Thỉnh thoảng, người ta được nghe là, "nó có thể lo-gic đấy nhưng không đúng,"
hoặc là "tất cả những gì đúng không phải luôn luôn lo-gic." Cả hai cách nhìn này
đều đúng, tất nhiên chúng không có nghĩa là lo-gic là không liên quan đến sự thật.
Thực tế, lo-gic định nghĩa sự thật một cách nghiêm ngặt và nó tách biệt với hai
khái niệm khác là hợp lý và giá trị, thỉnh thoảng nó cũng lẫn lộn với chúng trong
bản gốc. Ba khái niệm này cùng nhau tạo ra một cơ sở để đánh giá bất kỳ tranh
luận nào.
Aristotle, người đã thiết lập khoa học của lo-gic trong thế kỷ thứ tư trước công
nguyên, là người đầu tiên phát hiện ra sự khác biệt giữa sự thật và tính hợp lý. Có
lẽ đây là cống hiến quan trọng của ông đối với lĩnh vực này.
Tính chất giá trị đề cập đến tính đúng đắn mà kết luận rút ra từ những tiền đề của
nó -- liệu những kết luận có phụ thuộc vào chúng hay không. Mặt khác, sự thật lại
đề cập liệu những tiền đề và kết luận đó có phù hợp với thực tế không. Vì thế, có
thể trong lý luận, bắt đầu với những tiền đề đúng đắn nhưng lại đạt được những
kết luận sai (bởi vì chúng ta đã lập luận tồi với những tiền đề đó) hoặc là lập luận
đúng, có giá trị nhưng lại không đạt được kết luận thực tế nào (bởi vì những tiền
đề của chúng ta là sai). Tính hợp lý đạt được khi những tiền đề của một tranh luận
là đúng và những kết luận của nó được tạo ra có giá trị từ chúng. Còn nếu không,
tranh luận là không hợp lý. Đúng đắn và sai lầm, hợp lý và không hợp lý, có thể
kết hợp xuất hiện rất nhiều trong những tranh luận, tạo ra bốn khả năng sau đây:
1. Chúng ta có thể có thực tế đúng (những tiền đề của chúng ta là đúng), và chúng
ta có thể sử dụng chúng đúng cách (những suy diễn của chúng ta có giá trị). Trong
một tình huống như thế, không chỉ có tranh luận của chúng ta là hợp lý mà kết
luận cũng đúng. Toàn bộ tranh luận sẽ có cơ sở và hợp lý.
a) Tất cả đàn ông đều sẽ chết.
Socraté là một người đàn ông.
Vì thế, Socrates sẽ chết.
2. Chúng ta có thể có thực tế đúng đắn (những tiền đề của chúng ta là đúng đắn),
nhưng chúng ta có thể sử dụng chúng không thích đáng (lý lẽ thiếu giá trị). Trong
trường hợp này, kết luận của chúng ta sẽ không hữu hiệu và toàn bộ tranh luận là
không đúng.
b) Tất cả mèo đều là động vật.
Tất cả lợn đều là động vật.
Vì thế tất cả lợn đều là mèo.
Trong một số trường hợp, kết luận của những tranh luận có thể ngẫu nhiên đúng,
như trong trường hợp sau:
c) Tất cả mèo đều là động vật.
Tất cả hổ đều là đều là động vật.
Vì thế tất cả hổ đều là mèo.