Chương 6: Tổng chi tiêu, Mức lãi suất và Tiền tệ
Harvey B. King
1)
Giới thiệu
Trong Chương 4 chúng ta đã tìm hiểu về hàm tổng chi tiêu đơn giản, ở đó tiêu
dùng là một biến chủ đạo để hiểu được một cú sốc được lan truyền như thế nào
trong nền kinh tế.
● Chúng ta đã nói qua về chi tiêu đầu tư trong phần đó, lưu ý rằng đó là một trong
những yếu tố dễ biến động nhất của tổng chi tiêu.
● Chúng ta cũng đã thấy một cú sốc đối với cầu đầu tư có thể tạo ra hiệu ứng số
nhân như thế nào, và có tác động lớn hơn, gấp bội đối với GDP thực tế như thế
nào.
● Do đó, một cú sốc xuất phát từ đầu tư rõ ràng là một nguyên nhân chủ yếu gây
nên chu kỳ kinh tế.
● Tuy nhiên, trong chương 4 đầu tư là một biến ngoại sinh rất đơn giản.
● Trong chương này, chúng ta sẽ xem hàm đầu tư là ngoại sinh, và cố gắng giải
thích điều gì gây nên sự bất ổn trong đầu tư, và do đó là chu kỳ kinh tế.
[1]
Chúng ta sẽ thấy rằng nguyên nhân chủ yếu của sự biến động trong đầu tư là sự
biến động trong
tỷ lệ lãi suất.
● Để giải thích sự biến động trong đầu tư, chúng ta phải giải thích được sự biến
động trong tỷ lệ lãi suất.
● Do đó chúng ta cần giải thích lúc nào tỷ lệ lãi suất được quyết định trong nền
kinh tế.
● Trong phần sau của chương 5, chúng ta sẽ tìm hiểu tại sao thị trường tài chính
Canada lại quyết định tỷ lệ lãi suất Canada.
● Nói cách khác, chúng ta sẽ cố gắng giải thích một phần khác của vòng luân
chuyển của thu nhập và chi tiêu.
● Ở cuối chương 5, chúng ta sẽ có một mô hình hàng hoá và dịch vụ đầy đủ, tương
tác, và thị trường tài chính, mô hình IS-LM.
● Lúc đó chúng ta có thể hiểu được nguồn gốc của cú sốc trong nền kinh tế, và
chúng ta lan truyền trong nền kinh tế như thế nào, với những hiệu ứng tác động
qua lại lẫn nhau giữa các lĩnh vực, ngành nghề của nền kinh tế.
● Trong chương 6, chúng ta sẽ tìm hiểu chính sách tài khoá và tiền tệ hoạt động
như thế nào trong mô hình IS-LM.
● Trong chương 7, chúng ta sẽ kết thúc vấn đề tổng cầu bằng cách xây dựng một
mô hình đầy đủ của xuất khẩu, nhập khẩu và tỷ giá hối đoái. Ở đây chúng ta sẽ
thấy tỷ giá ngoại tệ đóng vai trò quyết định đến tỷ lệ lãi suất Canada như thế nào.
2) Đầu tư - Định nghĩa và dự liệu.
Hãy nhớ rằng khi chúng ta thảo luận về đầu tư trong kinh tế học, chúng ta không
nói về
đầu tư tài chính (mua trái phiếu và cổ phiếu), mà nói đến đầu tư về vật
chất, mua bán tài sản vốn.
Chúng ta để ý rằng đầu tư gồm ba yếu tố:
● Đầu tư cố định vào tài sản không dùng để ở - đầu tư vào nhà xưởng, máy móc,
thiết bị, xe tải v.v.. Đây là loại đầu tư mà chúng ta tập trung vào.
● Đầu tư tài sản cố định dùng để - nhà cửa.
● Đầu tư hàng tồn trữ - số lượng hàng hoá tăng lên
dự định được sản xuất ra,
nhưng chưa bán.
Bảng dưới đây trình bày một số dữ liệu đầu tư của các doanh nghiệp trong chu kỳ
kinh tế vừa qua.
Năm r[2]
thực tế
I thực tế[3]
(tỷ)
%DI thực tế GDP thực tế [4]
(tỷ)
%DY thực tế
1987 4.0 105 654
1988 5.7 116 +10.5% 686 +4.9%
1989 7.2 122 +5.2% 704 +2.6%
1990 8.2 116 -4.9% 705 +0.1%
1991 3.3 110 -5.2% 692 -1.8%
1992 5.2 108 -1.8% 699 +1.0%
1993 3.2 105 -2.8% 715 +2.2%
1994 5.5 113 +7.6% 748 +4.6%
1995 5.0 111 -1.8% 769 +2.8%
1996 2.8 120 +8.1% 782 +1.7%
1997 2.0 140 +16.7% 813 +4.0%
1998 4.2 145 +3.4% 838 +3.1%
Số liệu này cho thấy, tỷ lệ lãi suất là biến chủ đạo quyết định đến cầu đầu tư
●
Tỷ lệ lãi suất thực tế = lãi suất danh nghĩa (thị trường vốn) - tỷ lệ lạm phát.
● Khi lãu suất thực tế tăng lên năm 1989, 1990, đầu tư của các doanh nghiệp giảm
(mặc dù hơi chậm), giảm với tổng là 13.9% năm 1993.
● Chúng ta có thể thấy ảnh hưởng của nó đối với chu kỳ kinh tế - đó là nguyên
nhân chính của cuộc khủng hoảng 1990-91.
● Lãi suất giảm suốt những năm 90, cầu đầu tư cuối cùng đã tăng lên, và nền kinh
tế bắt đầu phục hồi khỏi sự suy thoái.
● Chúng ta có thể thấy rằng một thay đổi về lãi suất năm 1994-95 làm tổn hại đến
đầu tư, dẫn đến tăng trưởng GDP chậm lại năm 1996.
Cầu đầu tư của doanh nghiệp là loại
cầu gián tiếp - vốn (K) có nhu cầu do việc sử
dụng nó để sản xuất ra sản phẩm đem bán, do đó nó phát sinh từ nhu cầu về sản
phẩm.
● Doanh nghiệp quyết định tổng lượng vốn (K*) mong muốn, dựa trên nhu cầu
sản xuất dự tính.
● Doanh nghiệp tiếp đó so sánh mức độ K hiện tại (K
t-1
) với K*, và điều chỉnh
theo hướng K*.
● Họ quyết định dòng đầu tư ròng:
(1) I
ròng
= K
t
- K
t-1
.
● K
t-1
là tổng lượng vốn ở giai đoạn ban đầu, và K
t
là tổng lượng vốn ở giai đoạn
cuối cùng.
● Doanh nghiệp cũng quyết định việc thay thế tổng lượng vốn hao mòn, hư hỏng,
lượng này tương đương với dK
t-1
, trong đó d la tỷ lệ khấu hao (ví dụ 0.05 mỗi
năm, hay 5%).
● Tổng chi tiêu vào vốn tài sản là tổng đầu tư (I):
(2) I = I
ròng
+ dK
t-1
= DK + dK
t-1.
Để hiểu được đầu tư ròng I
ròng
, chúng ta trước hết cần xây một mô hình của K*.
3) Hàm Đầu tư
Đầu tư là việc mua sắm
hiện tạivốn thiết bị mới mà nó sẽ mang lại lợi suất trong
tương lai.
● Các nhà kinh tế học lập luận rằng doanh nghiệp sẽ đưa ra quyết định đầu tư
bằng cách đánh giá
lợi nhuận ròng biên dự kiến của dự án đầu tưđối với chi phí
biên
của dự án.
● Doanh nghiệp sẽ tiếp tục dự án nếu lợi nhuận biên dự kiến lớn hơn chi phí biên -
do đó, dự án sẽ làm tăng lợi nhuận, và đáng đầu tư.
Chi phí biên chủ yếu là chi phí tài chính của dự án.
● Chúng ta sẽ đưa chi phí xây dựng của dự án vào lợi nhuận biên ròng dự kiến.
● Chi phí tài chính của dự án có thể là chi phí đi vay thấy rõ, hoặc là chi phí cơ hội
không thấy rõ.
● Có bốn nguồn cơ bản để bổ sung tài chính cho doanh nghiệp:
1. Doanh nghiệp có thể vay ngân hàng (tuy nhiên) với mức lãi suất danh nghĩa.
2. Doanh nghiệp có thể bán trái phiếu ra công chúng, và thanh toán lợi tức - do đó
mức lãi suất bằng với tỷ lệ lợi tức được chia theo giá trị trái phiếu.
3. Doanh nghiệp có thể chào bán lần đầu cho (IPO) ở đó họ bán cổ phần công ty
để đổi lấy một phần lợi nhuận trong tương lai - chi phí cơ hội của nó sẽ là tỷ lệ lãi
suất (là cái mà các cổ đông sẽ hưởng lợi ở nơi khác).
4. Doanh nghiệp có thể sử dụng thu nhập giữ lại (lợi nhuận chưa phân phối) - chi
phí cơ hội của nó sẽ là tỷ lệ lãi suất (cái mà các cổ đông có thể hưởng lợi ở nơi
khác).
● Do đó với mỗi đô la đầu tư thực tế, chi phí biên là mức lãi suất.
Lợi nhuận biên dự kiến của việc mua tổng lượng vốn là khoản thu dự kiến trong
tương lai - chi phí mua sắm và chi phí điều hành, nên nó là lợi nhuận ròng.
● Chúng ta tính lợi nhuận ròng theo phần trăm giá của tài sản mới - giá trị này là
tỷ lệ thu hồi (mức lợi nhuận) đối với lượng vốn.
● Chúng ta giả định rằng trước hết doanh nghiệp thực hiện hoàn toàn dự án với tỷ
lệ thu hồi cao nhất, và những dự án tiếp theo với tỷ lệ thu hồi cao nhất, v.v..
● Các doanh nghiệp so sánh tỷ lệ thu hồi trên vốn với tỷ lệ lãi suất, và chỉ thực
hiện những dự án mà tỷ lệ thu hồi lớn hơn lãi suất.
● Điều này cho chúng ta những kết quả cơ bản:
1. Nếu tỷ lệ thu hồi trên vốn tăng lên (ví dụ như, nền kinh tế đang bùng nổ nên thu
nhập được dự kiến sẽ tăng lên), do đó nhiều dự án sẽ được thực hiện, và sẽ có
nhiều hơn các khoản chi cho đầu tư.
2. Mặt khác, nếu lãi suất danh nghĩa tăng lên, thì số dự án được thực hiện sẽ ít đi,
và số chi tiêu cho đầu tư cũng ít đi.
Lưu ý: chúng ta đã thảo luận những điều này bằng cách so sánh lãi suất danh nghĩa
đối với tỷ lệ thu hồi danh nghĩa trên vốn.
● Chúng ta có thể giản ước lãi suất của hai biến này để kiểm soát lạm phát.
● Chúng ta tiếp theo sẽ so sánh lãi suất thực tế với
tỷ lệ thu hồi thực tế trên vốn.
● Nó cũng mang lại qúa trình quyết định cơ bản tương tự.
Chúng ta rút gọn quan hệ này với
hàm đầu tư:
(3) I = I
0
- hr, trong đó h > 0.
● I
0
là đầu tư tự định, nó biểu thị ảnh hưởng của tỷ lệ thu hồi trên vốn, và cũng thể
hiện được ảnh hưởng của những thứ như là thay đổi trong kỹ thuật, thu nhập dự
kiến trong tương lai, hoặc niềm tin vào kinh doanh.
● r là lãi suất
danh nghĩa.
● Lưu ý rằng nếu r tăng 1%, thì đầu tư giảm xuống h x 1%.
● Đồ thị của hàm đầu tư này được thể hiện trong Hình 1 dưới đây.
Hình 1
● Chúng ta có thể viết lại biểu thức (3) để thấy được hệ số góc (độ dốc) của hàm
đầu tư này là:
(4)
Bây giờ chúng ta có thể đã có một vài nguyên nhân để giải thích tại sao chi tiêu
đầu tư lại dễ biến động như vậy:
● Trước hết nó thay đổi theo sự thay đổi của lãi suất, và mức lãi suất lại rất dễ biến
động, như trong bảng trên đã chỉ ra.
● Những thay đổi này được thể hiện như là một sự dịch chuyển theo hàm đầu tư
trong Hình 1.
● Thứ hai, chi tiêu đầu tư sẽ biến đổi khi tỷ lệ thu hồi trên vốn biến đổi.
● Tỷ lệ thu hồi trên vốn phụ thuộc vào thu nhập hiện tại và kỳ vọng trong tương
lai, điều này lại phụ thuộc vào niềm tin kinh doanh trong tương lai, thay đổi về
công nghệ, v.v..
● Điều này có thể biến động rất nhiều, đặc biệt là khi chu kỳ kinh tế cũng biến
động.
● Chúng ta cũng có thể thấy được điều này trong bảng trình bày ở trên:
1. Ví dụ, khi nền kinh tế đi vào suy thoái, chúng ta có thể thấy ít nhất một phần
của lý do cho sự giảm sút lớn chi tiêu cho đầu tư - doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi
việc bán hàng giảm đi, và cắt giảm việc thực hiện các dự án của họ.
2. Khi nền kinh tế được phục hồi trong những năm 90, chúng ta có thể thấy sự
tăng lên trong chi tiêu đầu tư.
● Sự tăng lên trong chi tiêu đầu tư này được biểu hiện như là tự thay đổi trong I
0
và do đó có sự dịch chuyển sang trái hoặc phải của hàm I như trong Hình 1.
● Chúng ta có thể thấy sự biến đổi này trong Hình 5.4 của giáo trình Parkin/Bade.
Bây giờ chúng ta đã hiểu rõ hơn về chi tiêu đầu tư, đôi khi người ta thống nhất chi
tiêu đầu tư với chi tiêu tiêu dùng và tổng chi tiêu và tạo ra
đường IS.
4) Đường IS - Cân bằng Thị trường Hàng hoá và Dịch vụ
Như đã nói trước đó, chúng ta đang từng bước xây dựng một mô hình kinh tế.
● Bây giờ chúng ta có mô hình một phần của cân bằng thị trường hàng hoá/dịch
vụ:
Y
D
= C
D
+ I
D
+ G
D
.
● Chúng ta suy ra đường IS biểu diễn mối quan hệ này.
● Tiếp đó, chúng ta sẽ chuyển sang đường LM để biểu diễn cân bằng thị trường tài
chính.
● Trong chương 7, chúng ta sẽ quay lại mảng xuất/nhập khẩu, và nói về khái niệm
đường IRP.
● Tiếp đó chúng ta sẽ thống nhất các đường IS, LM và IRP để biểu diễn sự cân
bằng kết hợp thị trường hàng hoá và tài chính, điều này sẽ cho chúng ta chi tiết của
đường tổng cầu.
● Tiếp đó, trong chương 9 và 10 chúng ta sẽ tìm hiểu thị trường yếu tố sản xuất và
những yếu tố bổ trợ của AS.
Đường IS
Đường IS thể hiện mối quan hệ giữa GDP thực tế và mức lãi suất trong đó tổng
chi tiêu dự kiến bằng với GDP thực tế.
● Đó là một quan hệ cân bằng, và cho chúng ta thấy sự kết hợp của Y và r và biểu
thị các điểm chi tiêu cân bằng khác nhau.
● Khi r thay đổi, thì chi tiêu dự kiến cũng thay đổi, và tổng chi tiêu dự kiến cũng
thay đổi, và dẫn đến thay đổi trong điểm cân bằng của GDP thực tế.
● Kết hợp những yếu tố này chúng ta có được đường IS.
● Đường IS cho chúng ta thấy mức cân bằng của GDP thực tế mong muốn,
nếu
chúng ta đã biết được mức lãi suất
.
● Tuy nhiên, nó không tự nói với chúng ta mức lãi suất là bao nhiêu - đó chỉ là
một phần của câu chuyện.
Hình 2 dưới đây chỉ cho chúng ta biết làm cách nào để tìm ra đường IS.
● Đường IS có thể được biểu thị dưới dạng tổng quát - xem phần phụ lục
● Chúng ta sẽ mô tả nó trên đồ thị.
●
Hãy nhớ rằng tôi không định sử dụng hệ quy chiếu vuông góc ở đây.
● Tôi có ba phần trong Hình 2 dưới đây:
Phần (a) mô tả hàm cầu đầu tư mà chúng ta đã mô tả ở trên.
Phần (b) mô tả chi tiêu cân bằng ở phần II A.
Phần (c) chỉ sự kết hợp của r và Y và tạo ra sự cân bằng trong đồ thị chi tiêu.
Chúng ta bắt đầu với suy kinh nghiệm suy luận - cho các yếu tố khác không đổi,
chúng ta sẽ thay đổi mức lãi suất, và xem xét điều này tác động như thế nào đến
chi tiêu cân bằng và GDP thực tế trong thị trường hàng hoá và dịch vụ.