Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Tài liệu Kinh tế thương mại pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (692.56 KB, 57 trang )


1
Chương 1: Chương mở đầu


1.1. Bản chất kinh tế của thương mại
1.1.2. Bản chất kinh tế của thương mại
1.1.2.1. Một số cách tiếp cận khi nghiên cứu bản chất kinh tế của Thương mại
Nghiên cứu bản chất kinh tế của Thương mại chúng ta có nhiều cách tiếp cận khác
nhau. Trong giáo trình này chúng tôi sẽ đề cập tới 3 cách tiếp cận cơ bản nhất:
a. Thương mại - hoạt động kinh tế.
Nếu nhìn dưới góc độ một hoạt động kinh tế thì thương mại là một trong những hoạt
động kinh tế cơ bản và rất phổ biến trong nền kinh tế thị trường.
Mọi hoạt động thương mại đều bắt đầu bằng hành vi mua hàng và kết thúc bằng
hoạt động bán.Mục đích của hoạt động thương mại là nh
ằm tìm kiếm lợi nhuận. Có thể
tóm tắt hoạt động thương mại bằng công thức sau: T - H - T' .
Đối tượng của các hoạt động thương mại là các hàng hóa vá dịch vụ. Chủ thể của
hoạt động thưong mại gồm những người bán (người sản xuất hàng hóa, người cung ứng
dịch vụ, thương gia ) và những người mua( người sản xuất, thương gia, những người tiêu
dùng).Tuy nhiên tham gia vào ho
ạt động thương mại còn có một số người khác như :
người môi giới, người đại lý thương mại ... Hoạt động thương mại xảy ra trong khâu lưu
thông, trên thị trường với những điều kiện kinh tế, xã hôi, luật pháp, chính tri, và môi
trường vật chất cụ thể.
Trong hành vi mua, người ta chuyển đổi hình thái giá trị của hàng hóa từ hình thái
tiền tệ sang hình thái hiện vật và cùng với quá trình này là sự chuyển đổi v
ề sở hữu,
người mua đổi quyền sở hữu tiền tệ để có được quyền sở hữu hàng hóa. Nhờ vậy mà có
được quyền sử dụng sản phẩm cho việc thỏa mãn nhu cầu. Trong hành vi bán hàng, quá
trình diễn ra hoàn toàn ngược lại.


Hoạt động thương mại là một quá trình bao gồm các hoạt động cơ bản là mua và
bán. Ngoài các hoạt động cơ bản còn có các hoạt động hỗ trợ cho các hoạt
động mua bán,
người ta gọi chung các hoạt động này là dịch vụ thương mại.
Dịch vụ thương mại gồm tất cả những hoạt động thương mại ngoài hoạt động
thương mại cơ bản (hoạt động mua và bán ), chúng phát sinh gắn với mua bán, hỗ trợ
cho mua bán được thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả.
Hoạt động thương mại được tiến hành theo nguyên tắc tự nguyện, t
ự thỏa thuận và
cùng có lợi. Vì thế quá trình mua bán vừa là quá trình cạnh tranh vừa là quá trình hợp tác
giữa người bán và người mua.

2
Thông qua các hoạt động thương mại, người bán đạt được giá trị nhằm mục đích lợi
nhuận, người mua có được giá trị sử dụng để thỏa mãn các nhu cầu tiêu dùng khác nhau.
Chính nhờ hoạt động thương mại mà sản xuất và tiêu dùng nối liền với nhau trong điều
kiện của kinh tế hàng hóa.
b. Thương mại - khâu trao đổi (lưu thông) của quá trình tái sản xuất xã hội
Tái sản xuất xã hộ
i gồm 4 khâu cơ bản: Sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng.
Bốn khâu này có quan hệ mật thiết và tác động qua lại với nhau trong đó mối quan hệ
giữa sản xuất và tiêu dùng là mối quan hệ cơ bản nhất.
Là hình thái phát triển của trao đổi và lưu thông hàng hóa, thương mại được coi là
một khâu cơ bản của tái sản xuất. Thương mại chính là khâu trao đổi nằm trung gian giữa
sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiệ
n xã hội hóa sản xuất và lưu thông hàng hóa ngày
một phát triển, hàng hóa được tạo ra trong khâu sản xuất, sau đó được chuyển sang khâu
lưu thông qua các giai đoạn khác nhau của khâu lưu thông: Mua ---> Vận chuyển ---> Dự
trữ ---> Bán. Kết thúc khâu lưu thông, hàng hóa sẽ được chuyển sang lĩnh vực tiêu dùng.
Trong điều kiện kinh tế hàng hóa, đại bộ phận các sản phẩm và dịch vụ được sản

xuất ra đều phải trải qua khâu lưu thông, thông qua hoạ
t động mua bán bằng tiền mới có
thể chuyển sang lĩnh vực tiêu dùng để thỏa mãn nhu cầu khác nhau của xã hội. Vì thế
khâu lưu thông rất quan trọng. Nó là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Nền kinh tế hàng
hóa giống như một cơ thể sống. Trong đó, lưu thông hàng hóa, thương mại được xem như
hệ tuần hoàn. Thương mại phát triển, lưu thông hàng hóa thông suốt là biểu hiện của nền
kinh tế
lành mạnh, thịnh vượng.
c. Thương mại - ngành kinh tế
Nếu nhìn dưới giác độ phân công lao động xã hội thì thương mại được coi là một
ngành kinh tế độc lập của nền kinh tế. Ngành thương mại chuyên đảm nhận chức năng tổ
chức lưu thông hàng hóa và cung ứng các dịch vụ cho xã hội thông qua việc thực hiện
mua bán nhằm sinh lợi.
1.1.2.2. Bản chất kinh tế của Thương mại
Nghiên cứu Thươ
ng mại dưới các góc độ cơ bản: Hoạt động kinh tế, khâu của quá
trình tái sản xuất xã hội cũng như góc độ ngành kinh tế của nền kinh tế quốc dân, chúng
ta đều nhận thấy đặc trưng chung nhất của Thương mại là buôn bán, trao đổi hàng hóa và
cung ứng dịch vụ gắn với tiền tệ và nhằm mục đích lợi nhuận.
Từ đó có thể rút ra bản chất kinh tế chung c
ủa Thương mại là:
Thương mại là tổng hợp các hiện tượng, các hoạt động và các quan hệ kinh tế gắn
và phát sinh cùng với trao đổi hàng hóa và cung ứng dịch vụ nhằmi mục đích lợi nhuận.

3
Thương mại, tiếng Anh là “Commerce” , ngoài ra còn có thuật ngữ khác là Trade,
tiếng Pháp “Commerce”, tiếng Latinh “Commercium”, ... về cơ bản các từ này đều được
hiểu là buôn bán hàng hóa với mục đích sinh lợi.
Luật Thương mại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng ghi:
Hoạt động Thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi bao gồm: mua bán

hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc ti
ến thương mại và các hoạt động sinh lợi khác.
1.1.3. Phân loại Thương mại
1.1.3.1. Theo phạm vi hoạt động thương mại
Người ta phân thành Thương mại nội địa (nội thương) và Thương mại Quốc tế
(ngoại thương)
Thương mại nội địa có thể được phân thành: Thương mại thành thị và Thương mại
nông thôn, Thương mại vùng đặc biệt,thương mại biên giới, thương mại vùng sâu, vùng
xa, ...
Thương mại nội địa phản ánh những quan hệ kinh tế thị trường của các chủ thể kinh
tế của một quốc gia. Các hoạt động thương mại nội địa về cơ bản diễn ra trong phạm vi
biên giới của một quốc gia.
Thương mại Quốc tế bao gồm việc mua bán hàng hóa và dịch vụ qua biên giới quốc
gia có thể ở phạm vi toàn cầu (WTO), có thể ở ph
ạm vi khu vực (EU, ASEAN ...) hoặc
thương mại song phương giữa 2 quốc gia. Thương mại quốc tế phản ánh những mối quan
hệ kinh tế thương mại giữa các chủ thể kinh tế của các quốc gia với nhau. Chúng tuân thủ
những luật lệ và những thông lệ buôn bán toàn cầu, khu vực và các hiệp định thương mại
ký kết song phương giữa các quốc gia.
Trong hoạt động ngoại thương, xuất khẩu là vi
ệc bán hàng hóa và dịch vụ cho nước
ngoài và nhập khẩu là việc mua hàng hóa và dịch vụ của nước ngoài.
Ngoại thương là hoạt động kinh tế đã có từ rất lâu, nhưng ngoại thương chỉ thực sự
phát triển trong thời đại Tư bản chủ nghĩa. Ngày nay toàn cầu hóa kinh tế thế giới và tự
do hóa thương mại là một xu hướng phổ biến, thì sự phát triển ngoại thương hết sứ
c
mạnh mẽ. Ngoại thương không chỉ có ý nghĩa đơn thuần là sự trao đổi buôn bán với bên
ngoài mà thực chất cùng với các quan hệ kinh tế đối ngoại khác ngoại thương tham gia
vào phân công lao động quốc tế.
Thương mại nội địa diễn ra trên thị trường nội địa, ngoại thương là hoạt động

thương mại diễn ra trên thị trường quốc tế. Thị trường thế giới và thị
trường nội địa là
những thị trường khác nhau vì vậy thương mại nội địa và ngoại thương được thực hiện
theo những hình thức và phương pháp hoàn toàn không giống nhau.
1.1.3.2. Theo các khâu của quá trình lưu thông
Người ta phân thành Thương mại bán buôn và thương mại bán lẻ.

4
Thương mại bán buôn chủ yếu xảy ra trong lĩnh vực buôn bán các sản phẩm vật thể.
Chủ thể của hoạt động thương mại bán buôn là những nhà sản xuất và thương gia. Chúng
phản ánh các mối quan hệ kinh tế thương mại giữa những nhà sản xuất, giữa nhà sản xuất
với thương gia và giữa những người thương gia với nhau. Khi hoàn thành các hoạt động
mua bán buôn, hàng hóa vẫn chưa kết thúc quá trình l
ưu thông, chúng nằm lại trong khâu
sản xuất để sau khi kết thúc sản xuất lại tiếp tục quay trở lại lưu thông hoặc vẫn nằm
trong lưu thông để chờ bán cho người tiêu dùng cuối cùng.
Thương mại bán lẻ: phản ánh mối quan hệ buôn bán hàng hóa và các dịch vụ giữa
những nhà sản xuất, nhà cung ứng dịch vụ hoặc các thương gia với bên kia là những
người tiêu dùng cuối cùng. Khi hoàn thành các hoạt động mua, bán lẻ hàng hóa sẽ k
ết
thúc quá trình lưu thông và đi vào lĩnh vực tiêu dùng để thỏa mãn những nhu cầu khác
nhau của xã hội.
Sự phân biệt giữa thương mại bán buôn và thương mại bán lẻ dựa chủ yếu về sự
khác biệt theo các khâu của quá trình lưu thông của sản phẩm. Bất kỳ mối quan hệ
thương mại nào mà một bên có sự tham gia của người tiêu dùng cuối cùng quan hệ
thương mại đó thuộc về thươ
ng mại bán lẻ và ngược lại thì đó là thương mại bán buôn.
Các hoạt động bán buôn diễn ra ở các chợ đầu mối, thị trường với trung tâm buôn bán
trong nước và quốc tế… Ngược lại, hoạt động bán lẻ diễn ra ở các chợ, các cửa hàng
chuyên doanh, tổng hợp, các siêu thị, hội chợ thương mại…

1.1.3.3. Theo đối tượng của hoạt động thương mại
Ngưới ta phân thành thương mại hàng hóa, thương mạ
i dịch vụ.
Thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ là những khái niệm phân biệt với nhau
chủ yếu dựa vào sự khác biệt về đối tượng của hoạt động trao đổi trong thương mại. Nếu
thương mại hàng hóa về cơ bản là trao đổi các sản phẩm hữu hình thì Thương mại dịch
vụ là lĩnh vực trao đổi, mua bán các sản phẩm “vô hình” .
Thương mại dị
ch vụ là lĩnh vực rất rộng và phức tạp. Trong nền kinh tế hiện đại,
thương mại dịch vụ ngày càng phát triển mạnh mẽ. Thương mại dịch vụ tồn tại song song
cùng thương mại hàng hóa và ngày càng giữ vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế của
xã hội hiện đại.
Thương mại hàng hóa gồm thương mại hàng tư liệu sản xuất và thương mại hàng
tiêu dùng.
Người ta có thể phân chia thương mại theo từng nhóm hàng. Ví dụ: Thương mại về
hàng công nghiệp, hàng nông sản, thực phẩm, thủy sản,hay theo mặt hàng Ví dụ như: gạo,
cà phê, chè hay sắt thép, máy nông nghiệp...
1.1.3.4. Theo kỹ thuật trao đổi, buôn bán
Người ta phân thành thương mại truyền thống và thương mại điện tử.

5
Sự phân biệt giữa hai khái niệm này dựa trên sự khác biệt về các phương thức mua
bán trong thương mại. Các phương thức mua bán trong thương mại truyền thống được
xẩy ra trong môi trường tự nhiên ở đó người mua, người bán thường tiếp xúc trực tiếp
trên thị trường dưới nhiều hình thức khác nhau.Trong thương mại truyền thống người
mua người bán gặp gỡ trực tiếp, tiến hành các giao dịch mua bán
ở các chợ, siêu thị,
trung tâm thương mại, hội chợ triển lãm... thương mại truyền thống đã có từ rất lâu cùng
với sự ra đời của trao đổi .
Ngược lại, thương mại điện tử là một phương thức trao đổi mua bán bằng phương

pháp điện tử trong môi trường điện tử. Thương mại điện tử chỉ xuất hiện trong xã hộ
i
hiện đại. Hiện nay thương mại điện tử đang phát triển rất nhanh chóng trên toàn thế giới
và đó là xu hướng phát triển tất yếu vừa là yếu tố hợp thành của nền kinh tế số hóa.
Theo định nghĩa phổ biến hiện nay, thương mại điện tử là phương thức hoạt động
thương mại bằng các phương pháp điện tử, là việc trao
đổi thông tin thương mại thông
qua các phương tiện công nghệ điện tử mà không cần phải in ra giấy trong bất cứ công
đoạn nào của quá trình giao dịch.
Các phương tiện điện tử được sử dụng trong phương thức mua bán này rất đa dạng:
điện thoại, máy fax, truyền hình,các hệ thống thiết bị công nghệ thanh toán điện tử, các
mạng nội bộ (intranet), mạng ngoại bộ (extranet), m
ạng toàn cầu internet…
Cần lưu ý rằng “Thương mại điện tử” còn được hiểu theo nghĩa rộng hơn so với
cách hiểu thông thường chỉ là buôn bán các hàng hóa và dịch vụ. Trong thực tế, áp dụng
thương mại điện tử sẽ làm thay đổi hình thái hoạt động của gần như tất cả các hoạt động
kinh tế.
Thương mại điện tử sẽ trở thành ph
ương thức thương mại phổ biến trong xã hội
tương lai, tuy nhiên thương mại truyền thống vẫn giữ nguyên giá trị về kinh tế và văn hóa,
nó vẫn tồn tại song song cùng với thương mại điện tử mặc dù kinh tế thị trường và
thương mại thế giới không ngừng mở rộng và phát triển.
1.1.3.5. Phân loại theo mức độ cản trở thương mại
Người ta phân thành thươ
ng mại có bảo hộ và thương mại tự do hóa.
Thương mại bảo hộ thường được các quốc gia áp dụng trong một số lĩnh vực nhạy
cảm để bảo vệ các lợi ích quốc gia hoặc để bảo vệ sản xuất trong nước, nhất là đối với
những ngành công nghiệp non trẻ, mới hình thành. Các biện pháp thường được sử dụng
trong thương mại bảo hộ là thu
ế quan và các biện pháp phi thuế quan như: các biện pháp

hành chính, cấm nhập khẩu, hạn ngạch, giấy phép, các quy định kỹ thuật, các tiêu chuẩn...
đồng thời các quốc gia còn có thể áp dụng nhiều chính sách ưu đãi đối với sản xuất trong
nước.

6
Thương mại tự do hóa được thể hiện qua việc xóa bỏ và giảm thiểu hàng rào thuế
quan, dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan, bảo đảm quyền tự do kinh doanh cho các thương
nhân, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa trong nước và quốc tế lưu thông thông suốt.
Thương mại tự do hóa có nhiều cấp độ và hình thức khác nhau.
1.2. Những lý thuyết cơ bản và lợi thế so sánh trong thương mại
1.2.1. Lý thuyết củ
a Adam Smith
Lý thuyết về lợi thế so sánh tuyệt đối ra đời vào cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XIX.
Người đề xướng đầu tiên là David Hume (1752) tiếp đến là Adam Smith (1723-1790) và
sau đó được tiếp tục phát triển bởi những người kế tục của ông.
Lợi thế tuyệt đối đề cập tới số lượng của một loại sản phẩm có thể được sản xuấ
t,
khi sử dụng cùng một nguồn lực ở hai nước khác nhau.
Lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất một loại sản phẩm có thể do các lợi thế tự
nhiên hoặc các lợi thế có được do kỹ thuật và sự lành nghề.
Theo lý thuyết lợi thế so sánh tuyệt đối thì các quốc gia nên chuyên môn hóa sản
xuất những sản phẩm mà họ có lợi thế tuyệt đối sau đó bán nhữ
ng hàng hóa này sang
quốc gia khác để đổi lấy các sản phẩm mà nước ngoài có lợi thế hơn. Bằng việc chuyên
môn hóa sản xuất những sản phẩm có lợi thế tuyệt đối cả hai quốc gia đều có lợi khi quan
hệ thương mại với nhau.
Ví dụ: Nước Mỹ có điều kiện tự nhiên thuận lợi trong việc trồng lúa mì. Ngược lại
nước Anh có nhiều thuận lợi trong sản xuấ
t vải vóc. Khi đó nước Mỹ sẽ chuyên môn hóa
sản xuất lúa mì còn nước Anh sẽ chuyên môn hóa sản xuất vải vóc. Nước Anh sẽ sản

xuất được nhiều vải vóc hơn và nước Mỹ cũng sẽ sản xuất được nhiều lúa mì hơn so với
khi hai nước đó còn ở tình trạng tự túc tự cấp. Nước Mỹ sẽ tiến hành trao đổi một phần
lúa mì để đổi lấy một l
ượng vải vóc của nước Anh. Người ta cũng chứng minh được rằng
cả 2 nước Mỹ và Anh sẽ cùng được hưởng lợi nhờ quan hệ thương mại với nhau.
1.2.2.Lý thuyết của D. Recardo hay còn gọi là lý thuyết về lợi thế so sánh
Nhược điểm của lý thuyết về lợi thế so sánh tuyệt đối của A. Smith là không lý giải
được hoạt động thương mại khi một trong hai nước có lợi thế tuy
ệt đối sản xuất tất cả các
mặt hàng. David Ricardo đã phát triển và đưa ra một lý thuyết tổng quát hơn về thương
mại so với lý thuyết của A. Smith đó là Lý thuyết lợi thế so sánh. Lí thuyết này được
trình bày trong tác phẩm “những nguyên lý của kinh tế chính trị học 1817”. Theo D.
Ricardo thương mại giữa 2 nước dựa trên lợi thế tương đối.
Lợi thế tương đối hay còn gọi là lợi thế so sánh
đề cập tới việc các quốc gia có thể
sản xuất ra khối lượng các mặt hàng giống nhau khi sử dụng các nguồn lực như nhau
nhưng với chi phí khác nhau.

7
Do sự không đồng đều về lợi thế tuyệt đối, nếu mỗi nước chuyên môn hóa vào sản
xuất mặt hàng có lợi thế tuyệt đối lớn hơn và dùng một phần để trao đổi với nước khác
bằng mặt hàng có lợi thế tuyệt đối nhỏ hơn thì cả 2 nước sẽ cùng thu được lợi ích thông
qua thương mại.
Ví dụ:
Có 2 nước X và Y và cùng có 2 loại hàng dệt may và lúa mì.
Chi phí sản xu
ất hàng dệt may của nước X
a =
Chi phí sản xuất hàng dệt may của nước Y
Chi phí sản xuất lúa mì của nước X

b =
Chi phí sản xuất lúa mì của nước Y
Nếu a < b thì nước X nên chuyên môn hóa vào sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may
và ngược lại nước Y chuyên môn hóa vào sản xuất và xuất khẩu lúa mì. Sau quá trình
chuyên môn hóa và thương mại, tổng sản phẩm hàng dệt may và lúa mì mà 2 nước sản
xuất đều tăng lên và số lượng hàng hóa mà người dân của mỗi nước có thể tiêu dùng đều
được cải thiện.
1.2.3.Lý thuyết của Haberler về lợi thế so sánh
Lợi thế tương đối là một khái niệm rấ
t quan trọng của kinh tế học. Hạn chế của
David Ricardo ở chỗ mới chỉ đề cập đến khái niệm lợi thế tương đối trên cơ sở lý thuyết
về lao động, trong khi đó lao động lại chỉ là một yếu tố của sản xuất. Haberler đã đưa ra
cách giải thích toàn diện hơn dựa trên lý thuyết về chi phí cơ hội.
Theo Haberler, chi phí cơ hội của hàng hóa là số l
ượng các hàng hóa khác phải cắt
giảm để nhường lại đủ các nguồn tài nguyên để sản xuất thêm 1 đơn vị hàng hóa thứ nhất.
Một nước có lợi thế tương đối về sản xuất một mặt hàng nào đó so với nước khác khi nó
có thể sản xuất mặt hàng đó với chi phí cơ hội thấp hơn so với nước khác.
Ví dụ: ở 2 nước X và Y khi không có thương mại quốc tế
thì X phải bỏ đi 2/3 số
đơn vị của vải để sản xuất thêm 1 đơn vị của thép. Như thế chi phí cơ hội sản xuất thép ở
X là 1 thép = 2/3 đơn vị vải vóc. Còn ngược lại, chi phí cơ hội về thép ở nước Y là 1 thép
= 2 vải. Vậy là nước X có lợi thế về sản xuất thép còn nước Y có lợi thế tương đối trong
sản xuất vải.
Theo lập lu
ận của lý thuyết này thì mỗi quốc gia đều có lợi thế so sánh so với một
quốc gia khác trong việc sản xuất một sản phẩm khi mà chi phí cơ hội để sản xuất sản
phẩm này ở quốc gia này là rẻ hơn so với quốc gia khác. Và theo đó, mỗi quốc gia nên
chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mà mình có lợi thế so sánh để đổi
lấy các sản phẩm mà nước khác sản xuấ

t rẻ hơn một cách tương đối. Người ta cũng
chứng minh được rằng trong quan hệ thương mại này cả 2 quốc gia đều cùng có lợi.

8
1.2.4.Lý thuyết của Heckscher – Ohlin
Hai nhà kinh tế học Thụy Điển Eli Heckscher (1919) và Recto Ohlin (1933) đưa ra
một cách giải thích khác về nguồn gốc của lợi thế so sánh. Theo hai ông, lợi thế so sánh
của một quốc gia xuất phát từ sự khác biệt về mức độ sẵn có của các yếu tố sản xuất. Các
yếu tố sản xuất mà lý thuyết này đề cập là: đất đai, lao động và tư bản.
Trên c
ơ sở lý thuyết về lợi thế tương đối, Heckscher và Ohlin đã phân tích ảnh
hưởng của các yếu tố sản xuất tiềm tàng đến thương mại và giải thích các động thái
thương mại xuất phát từ sự khác nhau về mức độ sẵn có của các yếu tố sản xuất.
Một quốc gia sẽ chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà việc sản
xuất chúng sử
dụng nhiều yếu tố sản xuất mà nước đó tương đối dư thừa và rẻ, đồng thời
sẽ nhập khẩu những mặt hàng khi sản xuất chúng đòi hỏi sử dụng nhiều yếu tố sản xuất
mà nước đó tương đối khan hiếm và đắt. Cụ thể một quốc gia tương đối dư thừa lao động,
nhưng lại thiế
u vốn sẽ sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng cần nhiều lao động và nhập
khẩu những mặt hàng cần nhiều vốn. Heckscher và Ohlin cũng cho rằng trong trường hợp
này, quan hệ thương mại làm lợi cho cả 2 quốc gia tham gia vào trao đổi
2.3. Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu môn học Kinh tế thương mại
2.3.1. Đối tượng, nội dung và kết cấu của môn học kinh tế thương mại
Kinh tế thương mại là môn học kinh tế, môn kinh tế ngành.
Giống như kinh tế chính trị học và kinh tế học là những môn khoa học nghiên cứu
các nguyên lý, các quy luật kinh tế chi phối và vận động nền kinh tế quốc dân. Kinh tế
thương mại dựa trên những nguyên lý mà kinh tế chính trị học, kinh tế học đã phát hiện
để đi sâu nghiên cứu các nguyên lý, các quy luật kinh tế nhằm bổ sung và cụ thể hóa
chúng trong lĩnh vực l

ưu thông hàng hóa và dịch vụ.
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế thương mại là tất cả các hiện tượng, các hoạt
động và các mối quan hệ kinh tế trong lĩnh vực buôn bán trong một quốc gia và của quốc
gia đó với bên ngoài.
Các hiện tượng, các hoạt động và các mối quan hệ kinh tế trong buôn bán nội địa và
buôn bán quốc tế luôn vận động theo những quy luật và tính quy luật nhất định. Kinh tế
thương mạ
i nghiên cứu chúng nhằm tìm ra bản chất kinh tế của chúng, cũng như tìm ra
các quy luật chung hoặc tính quy luật vận động của chúng. Trên cơ sở đó xây dựng cơ sở
khoa học cho việc tổ chức và quản lý các hoạt động thương mại phục vụ cho sự nghiệp
công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Các hiện tượng, các hoạt động và các mối quan hệ thương mại một mặt v
ận động
theo những quy luật chung, phổ biến, tuy nhiên những biểu hiện của chúng trong những
điều kiện cụ thể, những quốc gia khác nhau và ở mỗi thời kỳ khác nhau của lịch sử đều
có những nét riêng, đặc thù. Kinh tế thương mại không chỉ nghiên cứu những vấn đề

9
chung, những nguyên lý chung và các quy luật chung trong lĩnh vực buôn bán mà nó còn
nghiên cứu những vấn đề đặc thù trong những hoàn cảnh cụ thể, các quốc gia cụ thể và
các giai đoạn lịch sử cụ thể. Việc nghiên cứu những biểu hiện cụ thể của các nguyên lý,
các quy luật chung trong lĩnh vực thương mại trong điều kiện của Việt Nam trong giai
đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch hóa (tập trung, quan liêu, bao cấp) sang nền kinh
tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt nam hiện nay cũng là một nội dung
nghiên cứu quan trọng của kinh tế thương mại.
2.3.2. Kết cấu của môn học kinh tế thương mại
Kinh tế thương mại được chia làm 2 học phần:
Học phần thứ nhất: Kinh tế thương mại đại cương.
Họ

c phần này nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức căn bản nhất về Kinh tế
thương mại. Những khái niệm, phạm trù, nguyên lý và những quy luật trình bày trong
học phần này là những vấn đề chung và có tính phổ biến cho mọi nước, mọi nền kinh tế.
Học phần này bắt đầu nghiên cứu các khái niệm, phạm trù nhằm chỉ rõ bản chất
kinh tế của thương mại. Tiếp đó là các vấn
đề liên quan tới chức năng và các tác động
của thương mại trên các mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Những vấn đề tiếp sau là
những vấn đề cốt lõi nhất của kinh tế thương mại hàng hóa, kinh tế thương mại dịch vụ
và các khía cạnh thương mại có liên quan tới đầu tư và quyền sở hữu trí tuệ theo cách tiếp
cận của WTO. Từ đó tiếp tục nghiên cứu các vấ
n đề nguồn lực phát triển thương mại và
hiệu quả thương mại theo cách tiếp cận phát triển bền vững.
Học phần 2: Kinh tế thương mại.
Học phần này chủ yếu nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhất và đặc thù của kinh tế
thương mại Việt nam trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
sang nề
n kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Học phần này bắt đầu từ việc nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển thương
mại Việt nam nhằm tổng kết và rút ra những bài học từ lịch sử. Tiếp đến là nghiên cứu
những nội dung chủ yếu của quá trình chuyển đổi thương mại từ nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung sang nền kinh t
ế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam từ năm
1986. Phần cuối của học phần sẽ nghiên cứu những vấn đề cốt lõi và đặc thù của kinh tế
thương mại Việt nam như: thương mại và thị trường nông thôn, hội nhập thương mại Việt
nam với thế giới và khu vực, kế hoạch hóa thương mại vĩ mô...
Khi đề
cập đến nội dung của môn học, có thể có rất nhiều những ý kiến khác nhau.
Những nội dung đề cập đến trong giáo trình này trước hết dựa vào chương trình môn học
đã được hội đồng khoa học trường Đại học Thương mại thông qua. Ngoài ra những người
biên soạn cố gắng chú trọng trình bày những vấn đề có tính chất phổ biến, và những vấn


10
đề đặc trưng nhất, thiết yếu nhất của kinh tế thương mại Việt nam trong giai đoạn hiện
nay.
2.3.3. Phương pháp nghiên cứu môn học và vị trí của môn học Kinh tế thương mại
Kinh tế thương mại là môn học kinh tế ngành. Là môn khoa học xã hội nên các
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được sử dụng nghiên cứu kinh tế
thương mại.
Phương pháp duy vật bi
ện chứng đòi hỏi phải nghiên cứu các sự vật và các hiện
tượng trong sự vận động và trong mối quan hệ tác động qua lại với các hiện tượng và sự
vật khác. Phép biện chứng duy vật coi nguồn gốc của sự phát triển là sự thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập, và quá trình phát triển không ngừng của các hiện tượng và
sự vật là sự tích lũy những biến
đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất.
Trong khi đó, phương pháp duy vật lịch sử đòi hỏi nghiên cứu sự vật, hiện tượng ở
thực tại nhưng có mối liên hệ chặt chẽ với quá khứ, lịch sử của sự vật và hiện tượng đó.
Nhờ vậy mà có thể dự báo được xu hướng vận động và phát triển của s
ự vật và hiện
tượng trong tương lai.
Thương mại là một hệ thống kinh tế với sự tham gia của nhiều yếu tố cấu thành. Vì
vậy phương pháp tiếp cận hệ thống cũng cần thiết sử dụng làm phương pháp nghiên cứu
môn học.
Ngoài ra môn học còn sử dụng nhiều phương pháp khác như điều tra xã hội, phân
tích thống kê và mô hình hóa nhằm phân tích tổng hợp, diễn dịch và quy nạ
p...nhằm làm
rõ nội dung và đặc thù của môn học.
Trong kinh tế thương mại cũng như các môn khoa học xã hội nói chung, phương
pháp trừu tượng hóa khoa học có ý nghĩa rất to lớn. Trừu tượng hóa cho phép gạt bỏ
những yếu tố cụ thể, ngẫu nhiên, rời rạc, để tìm thấy những cái điển hình, bền vững, ổn

định, có tính phổ biến, trên cơ sở đó chỉ ra bản chất c
ủa các hiện tượng, phát hiện ra các
quy luật và tính quy luật vận động của các hiện tượng các mối quan hệ kinh tế thương
mại.
Kinh tế thương mại là môn học chuyên môn chính trong chương trình đào tạo cử
nhân kinh tế thương mại của trường đại học Thương mại. Ngoài ra kinh tế thương mại
đại cương giữ vị trí của môn học cơ sở của các chuyên ngành quản trị kinh doanh, kinh
doanh quốc t
ế, tài chính và kế toán thương mại và các chuyên ngành khác của trường đại
học thương mại.
Kinh tế thương mại có quan hệ chặt chẽ với các môn khoa học khác như kinh tế học,
kinh tế chính trị học, kinh tế phát triển, lịch sử các học thuyết kinh tế... Kinh tế thương
mại sử dụng các khái niệm và phạm trù đó trong lĩnh vực lưu thông và trao đổi buôn bán
các hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế thị tr
ường.

11






Chương 2: Chức năng và Những tác động của thương mại



2.1. Chức năng của thương mại
2.1.1. Chức năng chung của thương mại
Được hình thành trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và trình độ phân công

lao động xã hội nên chức năng của thương mại mang tính khách quan.
Thương mại đã từng tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xã hộ
i khác nhau. Bản chất
kinh tế xã hội của các hình thái kinh tế xã hội này mặc dù có sự khác nhau nhưng chức
năng chung của thương mại là giống nhau. Con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng
các chức năng của thương mại chứ không thể tùy tiện áp đặt hoặc thay đổi các chức năng
đó.
Trong mọi hình thái kinh tế xã hội còn tồn tại sản xuất và lưu thông hàng hóa chức
năng củ
a thương mại là thực hiện lưu thông hàng hóa và cung ứng dịch vụ thông qua
mua bán bằng tiền.
Tuy nhiên cũng cần phân biệt chức năng thương mại với các tư cách là khâu của tái
sản xuất, hoạt động kinh tế và ngành kinh tế.
Là hoạt động kinh tế thương mại thực hiện chức năng mua bán hàng hóa và các dịch
vụ bằng tiền.
Là một khâu của tái sản xuất thương mại thực hiện ch
ức năng cầu nối giữa sản xuất
với tiêu dùng thông qua trao đổi, đảm bảo thực hiện tái sản xuất nhanh chóng, hiệu quả
trong điều kiện của kinh tế hàng hóa.
Là một ngành kinh tế, thương mại thực hiện chức năng tổ chức lưu thông hàng hóa
và cung ứng dịch vụ, thông qua mua bán để gắn liền sản xuất với thị trường trong và
ngoài nước nhằm thỏa mãn nhu cầu th
ị trường về hàng hóa và dịch vụ với chi phí thấp
nhất.
2.1.2. Biểu hiện chức năng của thương mại trong lĩnh vực thương mại hàng hóa
Trong thương mại hàng hóa, chức năng của thương mại có thể được chia thành 2
nhóm chức năng cơ bản sau:

12
2.1.2.1. Chức năng thay đổi hình thái giá trị, thực hiện giá trị

Thương mại có chức năng thay đổi hình thái giá trị từ tiền sang hình thái vật chất
trong hành vi mua (T - H) và ngược lại trong hành vi bán.
Cùng với việc thay đổi hình thái giá trị là quá trình chuyển đổi quyền sở hữu về
hàng hóa và tiền tệ. Quyền sở hữu tiền tệ chuyển từ người mua sang người bán và ngược
lại, quyền sở hữu hàng hóa chuyển từ
người bán sang người mua.
Nhờ chức năng này của thương mại mà người bán đạt được giá trị nhằm tìm kiếm
lợi
nhuận, người mua có được các giá trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng khác nhau
của họ.
Để thực hiện được chức năng này, thương mại phải tiến hành hàng loạt những hoạt
động gắn với việc thay đổi hình thái giá trị và chuyển đổi quyề
n sở hữu như: mua hàng,
bán hàng, xúc tiến thương mại, tiếp thị, quảng cáo...
Về lý thuyết, các hoạt động này không tạo ra giá trị mới, không làm tăng giá trị sử
dụng của hàng hóa nhưng nó rất cần thiết và có ích cho xã hội.
2.1.2.2. Chức năng tổ chức quá trình phân phối hàng hóa, đưa hàng hóa từ lĩnh vực
sản xuất đến thị trường và tiếp tục hoạt động sản xuất trong lĩnh vự
c lưu thông
Sản xuất với tiêu dùng thường không ăn khớp với nhau về không gian, thời gian, số
lượng, chủng loại... Vì vậy, thương mại cần thực hiện việc đưa các sản phẩm được sản
xuất ra đến các thị trường nơi mà con người có nhu cầu phù hợp các đòi hỏi của thị
trường về số lượng, cơ cấu, thời gian và không gian với chi phí thấp nhất.
Nhờ có chức năng này mà thương mại có thể tiếp tục thực hiện chức năng thay đổi
hình thái giá trị, thực hiện giá trị hàng hóa mà chúng ta vừa đề cập ở trên. Cũng thông
qua chức năng này thương mại giải quyết được những mâu thuẫn vốn có giữa cung, cầu,
sản xuất và tiêu dùng trong điều kiện kinh tế hàng hóa.
Chức năng này của thương mại được thực hiện qua hàng lo
ạt những hoạt động khác
nhau.

Hoạt động vận tải nhằm di chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất đến thị trường và
những dịch vụ có liên quan đến vận tải như: làm các thủ tục vận tải, giao nhận hàng hóa...
Hoạt động giữ gìn, bảo quản hàng hóa. Những hoạt động này nhằm bảo vệ giá trị sử
dụng của hàng hóa về số l
ượng, chất lượng trong quá trình vận chuyển cũng như lưu kho
phát sinh do sự không ăn khớp giữa sản xuất và đòi hỏi của thị trường về không gian và
thời gian.
Các hoạt động tiếp tục sản xuất trong lĩnh vực lưu thông như: phân loại, chia nhỏ,
đóng gói, bao bì sản phẩm và các hoạt động gia công, chế biến, hoàn thiện sản phẩm
trước khi bán cho người tiêu dùng...

13
Các hoạt động thương mại thực hiện nhóm chức năng này là các hoạt động sản xuất.
Chúng xảy ra trong khâu lưu thông và được thực hiện bởi ngành thương mại. Chúng góp
phần làm tăng giá trị hàng hóa, bảo vệ và làm tăng giá trị sử dụng. Hoạt động thương mại
xét về góc độ này trực tiếp góp phần tạo ra thu nhập quốc dân.


2.1.2.3. Sự phát triển nhận thức về ch
ức năng thương mại hàng hóa trong xã hội hiện
đại
Trong xã hội hiện đại cùng với việc phồn thịnh về kinh tế, nhu cầu của con người
ngày càng gia tăng và đa dạng hơn. Việc thoả mãn những nhu cầu ngày càng tăng và đa
dạng của xã hội làm nảy sinh mâu thuẫn trong phân bổ và sử dụng quĩ thời gian của con
người. Để thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng của con ngườ
i, đòi hỏi một mặt
phải không ngừng sản xuất ra ngày càng nhiều của cải và dịch vụ , mặt khác phải tăng quĩ
thời gian sử dụng cho cho việc tiêu dùng các của cải và các dịch vụ. Mâu thuẫn là ở chỗ
quĩ thời gian tự nhiên của mỗi con người là một hằng số trong khi đó xã hội càng phát
triển quĩ thời gian dành cho tiêu dùng trong tổng quĩ thời gian tự nhiên đòi hỏ

i ngày càng
gia tăng.
Để gia tăng thời gian cho tiêu dùng trong điều kiện quĩ thời gian tự nhiên không đổi
thì vấn đề tiết kiệm và sử dung hợp lý quĩ thời gian trong tiêu dùng trở nên rất bức thiết.
Việc mở rộng các dịch vụ bán hàng đặc biệt là các dịch vụ trước, trong và sau bán hàng
như: dịch vụ hoàn thiện sản phẩm , các dịch vụ chuẩn bị sẵn sàng nhất cho người tiêu
dùng và các dịch v
ụ liên quan đến quá trình tổ chức phục vụ quá trình tiêu dùng cá nhân
nhằm tạo sự thoải mái, thuận tiện, tiết kiệm thời gian cho người tiêu dùng đang ngày gắn
với hoạt động buôn bán và trở thành các hoạt động thuộc chức năng của thương mại
trong xã hội hiện đại.
Kinh tế thị trường hiện đại với các đặc trưng không phải là “khan hiếm” mà “dư
thừa” làm cho cạnh tranh khốc liệt ngày càng bu
ộc các doanh nghiệp thương mại cần
phải nhận thức sâu sắc hơn xu hướng thay đổi này trong chức năng của thương mại.
2.1.3. Biểu hiện các chức năng thương mại trong lĩnh vực dịch vụ
Do những đặc tính riêng biệt của dịch vụ: tính vô hình, sản xuất và tiêu dùng đồng
thời,... nên chức năng của thương mại cũng có sự biểu hiện khác so với thương mạ
i hàng
hóa.
Thương mại dịch vụ thực hiện đồng thời cả chức năng sản xuất, chức năng lưu
thông và chức năng tổ chức tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ. Nghĩa là trong thương mại
dịch vụ các doanh nghiệp không chỉ thuần túy thực hiện việc mua bán, ngoài việc thực
hiện chức năng thương mại nó còn đồng thời thực hiện chức nă
ng sản xuất ra các dịch vụ

14
và tổ chức cả quá trình tiêu dùng các dịch vụ cho khách hàng. Các chức năng này vế cơ
bản được thực hiện đồng thời ở cung một không gian và trong cùng một thời gian.
Trong thương mại dịch vụ về cơ bản không có các hoạt động vận tải, bảo quản, dự

trữ...
Việc thay đổi hình thái giá trị, quá trình chuyển đổi sở hữu tiền tệ và sở hữu sản
phẩ
m có những đặc thù so với thương mại hàng hóa.
Việc nhận thức đúng và vận dụng đúng các chức năng của thương mại có ý nghĩa to
lớn không chỉ trong tổ chức hoạt động cung ứng dịch vụ ở phạm vi doanh nghiệp mà nó
còn có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quản lý nhà nước đối với thương mại dịch vụ ở
phạm vi vi mô.
2.2. Cơ sở luận nghien c
ứu và phân loại các tác động của thương mại
2.2.1. Cơ sở luận nghiên cứu tác động thương mại
Khi nghiên cứu tác động thương mại cần quán triệt các vấn đề lí luận cơ bản sau:
Thứ nhất: Thương mại là một hoạt động kinh tế cơ bản và phổ biến trong nền kinh
tế thị trường.
Là một hoạt động kinh tế cơ bản, thương mạ
i có liên quan mật thiết và ảnh hưởng
đến những hoạt động kinh tế khác như: kinh doanh, đầu tư,...
Là hoạt động kinh tế phổ biến vì thế thương mại tác động đến nhiều chủ thể kinh tế
và các quan hệ kinh tế khác nhau trong nền kinh tế thị trường.
Thứ hai: Thương mại là khâu lưu thông trong quá trình tái sản xuất xã hội
Thương mại là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng và có liên hệ mật thi
ết với khâu
phân phối. Một mặt thương mại chịu sự chi phối của sản xuất và tiêu dùng, mặt khác
thương mại cũng có những tác động đến quy mô, cơ cấu và sự phát triển của sản xuất và
tiêu dùng xã hội.
Thứ ba: Thương mại là một ngành kinh tế rất quan trọng của nền kinh tế.
Theo nghĩa rộng, ngành thương mại không chỉ gồm những doanh nghiệp cung ứng
d
ịch vụ bán buôn, bán lẻ hàng hóa mà gồm cả những doanh nghiệp cung ứng các dịch vụ
đa dạng trong nhiều ngành dịch vụ vì mục tiêu lợi nhuận. Đó là lĩnh vực rất rộng, bao

gồm nhiều ngành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Ngành thương mại thông qua hoạt
động mua bán hàng hóa và dịch vụ với mục đích lợi nhuận có liên quan và tác động to
lớn tới nhiều ngành, nhiều lĩnh vực đa dạ
ng của nền kinh tế.
Thứ tư: Thương mại còn được xem như một hệ thống kinh tế.
Thương mại là một tập hợp các yếu tố có mối liên hệ qua lại thực hiện việc trao đổi
mua bán hàng hóa và các dịch vụ thông qua tiền tệ vì lợi nhuận. Hệ thống thương mại
được hình thành bởi 2 hệ thống con là cung và cầu. Các hệ thống này hoạt động và liên
hệ vớ
i nhau qua hoạt động của người mua, người bán trên thị trường. Đó là một hệ thống

15
kinh tế mở với môi trường kinh tế, chính trị, luật pháp, công nghệ, xã hội và môi trường
tự nhiên bên ngoài.
Thương mại một mặt chịu sự chi phối của các yếu tố môi trường nói trên, những yếu
tố này có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của thương mại nhưng ngược lại
thương mại cũng tác động trở lại làm biến đổi những yếu tố môi tr
ường.
Vì thế tác động thương mại không chỉ thuần túy mang tính chất kinh tế, thương mại còn
có tác động mang tính chất xã hội, chính trị, pháp luật, công nghệ và ảnh hưởng mật thiết
với môi trường tự nhiên.
2.2.2. Phân loại tác động của thương mại
Tác động của thương mại rất phức tạp và đa chiều. Chúng ta có thể phân loại tác
động thương mại trên một số tiêu chí cơ bản sau:
2.2.2.1. Theo xu hướ
ng ảnh hưởng của tác động
Tác động của thương mại được phân thành các tác động tích cực và tác động tiêu
cực.
Những tác động của thương mại mà kết quả của ảnh hưởng có thể là những lợi ích
(vật chất hoặc tinh thần) hoặc tạo ra sự thúc đẩy vận động của các quá trình kinh tế-xã

hội theo chiều hướng tiến bộ. Đó là những tác động tích cực.
Ng
ược lại những tác động của thương mại mà kết quả mang lại là những tổn thất (về
vật chất và tinh thần) hay tạo ra xu hướng kìm hãm, đẩy lùi sự vận động của các quá trình
kinh tế - xã hội được coi là những tác động tiêu cực.
Cần lưu ý rằng: Một hoạt động thương mại cụ thể, một chính sách thương mại nhất
định có thể vừa chứa đựng trong
đó những tác động tích cực và cả những tác động tiêu
cực. Rất ít trường hợp tác động thương mại chỉ thuần túy mang tính tích cực hay tiêu cực.
2.2.2.2. Theo phạm vi ảnh hưởng
Tác động của thương mại được phân thành các tác động vi mô và vĩ mô.
Những tác động vi mô là ảnh hưởng của thương mại trong phạm vi doanh nghiệp,
hộ gia đình.
Những tác động thương mại vĩ mô là những tác động mà ảnh hưở
ng của nó vượt ra
ngoài khuôn khổ các doanh nghiệp, các đơn vị kinh doanh, những tác động này có thể ở
phạm vi toàn cầu, hoặc một khu vực kinh tế (ASEAN, EU,...), phạm vi quốc gia hoặc địa
phương trong mỗi quốc gia.
Hoạt động kinh doanh ở đơn vị kinh tế ngoài việc xem xét tác động vi mô cần phải
tính đến các tác động vĩ mô mà nó có thể ảnh hưởng. Ngược lại, quản lý nhà nước ở
phạm vi vĩ mô với ho
ạt động thương mại cần xem xét toàn diện ảnh hưởng của tác động
thương mại ở cả phạm vi vi mô và vĩ mô một cách hài hòa.
2.2.2.3. Dựa theo lĩnh vực tác động

16
Tác động của thương mại được phân thành các tác động kinh tế, tác động xã hội
(xã hội, chính trị, văn hóa) và tác động môi trường tự nhiên.
Tác động kinh tế bao gồm những ảnh hưởng của thương mại đến tốc độ tăng trưởng
kinh tế , sự thay đổi cơ cấu kinh tế, hoạt động đầu tư, các cân đối kinh tế vi mô trong nền

kinh tế...
Tác động xã hội bao gồm nhữ
ng ảnh hưởng của thương mại tới sự ổn định chính trị
quốc gia, tới thực hiện đường lối, chính sách của nhà nước, ảnh hưởng tới hệ thống luật
pháp của quốc gia.Ngoài ra nó còn bao gồm cả những tác động thương mại tới yếu tố dân
cư, hôn nhân và tổ chức gia đình, mức sống và trình độ giáo dục, phong tục, tập quán, lối
sống, hệ th
ống giá trị ...trong xã hội.
Tác động môi trường tự nhiên bao gồm những ảnh hưởng của thương mại tới môi
trường sống: bảo tồn các yếu tố tự nhiên (khí hậu, nguồn nước, khoáng sản, hệ thực vật,
động vật...), các yếu tố hạ tầng (giao thông vận tải, hệ thống thông tin, truyền thông...)
Con người càng ngày càng nhận thức sự cần thiết và quan trọng của sự phát triển
bền vững. Vì vậy nghiên cứu các tác động thương mại cần xem xét toàn diện không chỉ
ảnh hưởng về kinh tế mà cả những khía cạnh tác động thương mại về xã hội, môi trường
cũng ngày càng được chú trọng trong việc hoạch định chiến lược và chính sách thương
mại phát triển của các quốc gia.
2.2.2.4. Các cách phân loại khác
Ngoài các cách phân loại cơ bản trên, người ta còn có thể phân loại tác động thương
mại theo nhiều tiêu thứ
c khác như:
Tác động trực tiếp hoặc gián tiếp, tác động có thể lượng hóa được (đo lường được)
và những tác động khó đo lường được (nhiều tác động thương mại có thể cảm nhận được
bằng định tính song rất khó định lượng).
Một số tác động thương mại mà hậu quả của nó có thể khắc phục được dễ dàng,
nhưng cũng có nhi
ều tác động mà hậu quả lại có thể là vĩnh viễn không khắc phục được
hoặc nếu sửa chữa được thì phải tốn kém nhiều tiền của, sức lực và thời gian.
2.2.3. ý nghĩa của việc nghiên cứu những tác động của thương mại
Nghiên cứu những tác động của thương mại rất quan trọng, nó không chỉ giúp cho
việc thúc đẩy hoạt động thương mại ở

phạm vi doanh nghiệp đạt được những mục tiêu
kinh doanh mà còn có tầm quan trọng đối với việc quản lý hoạt động thương mại ở phạm
vi vi mô một cách có kết quả và hiệu quả, góp phần đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội của
thương mại cũng như đáp ứng những đòi hỏi của sự phát triển kinh tế bền vững.

17
Chương 3. Thương mại hàng hóa


3.1. Bản chất và các phương thức mua bán chủ yếu trong thương mại hàng hóa.
3.1.2. Những đặc điểm cơ bản của thương mại hàng hóa
3.1.2.1. Tính hữu hình của đối tượng trao đổi

Sản phẩm đưa ra thị trường trao đổi tồn tại ở dạng vật thể hữu hình, nên các chủ thể
thương mại có thể dùng các giác quan để cảm thụ về hàng hoá.
Nhà kinh doanh, người tiêu dùng và cơ quan quản lý nhà nước đều có thể dễ dàng hơn
trong việc nhận biết sản phẩm về số lượng, chất lượng, mức độ công năng, lợi ích và sự
an toàn của sản phẩm
đối với người sử dụng.
3.1.2.2. Sự chuyển quyền sở hữu sản phẩm trong trao đổi

Dù các giao dịch có đa dạng thế nào chăng nữa, trong thương mại hàng hoá, kết
thúc quá trình mua bán quyền sở hữu về sản phẩm sẽ chuyển từ người bán sang người
mua. Tuy nhiên, người mua không được sở hữu về tài sản trí tuệ hay bản quyền, nhãn
hiệu sản phẩm đó.
3.1.2.3. Lưu thông hàng hoá tách rời sản xuất và tiêu dùng

Chức năng sản xuất, lưu thông và tiêu dùng đối với hàng hoá tương đối độc lập với
nhau. Đối với nhà sản xuất, có thể sản xuất ra bán ngay hoặc chưa bán, người tiêu dùng
mua hàng hoá nhưng chưa sử dụng, còn đối với nhà thương mại có thể mua nhưng chưa

bán, hoặc bán nhưng lại chưa mua.
3.1.2.4. Tính thống nhất và mâu thuẫn giữa các khâu của quá trình lưu thông

Quá trình lưu thông hàng hoá bao gồm quá trình mua, bán, vận chuyển và dự trữ
kho hàng. Nhìn nhận tổng thể quá trình lưu thông, hàng hoá chỉ thoát khỏi quá trình sản
xuất và vân động tới tiêu dùng nếu có sự thống nhất và kết hợp các quá trình bộ phận lưu
chuyển hàng hoá (mua, bán) và giao nhận (vận chuyển và kho hàng). Tuy nhiên, ở từng
khâu của quá trình lưu thông lại có sự mâu thuẫn và tách rời giữa lưu chuyểnhàng hoá và
giao nhận, hoặc mâu thuẫn trong từng quá trình bộ phận đó.
3.1.3. Các ph
ương thức mua bán chủ yếu trong thương mại hàng hóa
Có nhiều phương thức mua bán được sử dụng trong thương mại hàng hoá. Mỗi
phương thức mua bán, trao đổi thương mại đều có đặc điểm riêng, bao gồm những hình
thức cụ thể và có ý nghĩa thực tiễn ở các góc độ nghiên cứu khác nhau.

Đối với nhà kinh doanh, đòi hỏi vận dụng các phương thức mua bán hoặc xuất nhập
khẩu phù hợp với từng loại hàng hoá, điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp và hoàn
cảnh cụ thể của môi trường thương mại .

18
Đối với nhà nước, cần có chính sách khuyến khích phát triển các phương thức kinh
doanh tiến bộ, đa dạng, tạo thuận lợi về hành lang pháp lý cho doanh nghiệp sử dụng các
phương thức đó mà không gặp các trở ngại, rủi ro trong chính sách thương mại, đồng thời
bảo vệ quyền lợi chính đáng của người bán và người mua, nhà sản xuất và người tiêu
dùng.
Dưới đây là một số phương thứ
c mua bán chủ yếu:
3.1.3.1. Mua bán buôn và mua bán lẻ

Mua bán buôn là phương thức trao đổi hàng hoá giữa các chủ thể nhà sản xuất,

thương nhân nhưng hàng hoá vẫn còn trong khâu lưu thông, chưa đến lĩnh vực tiêu dùng.
Mua bán buôn và dự trữ kho hàng thường với khối lượng lớn. Thời gian chu chuyển hàng
hoá và thu hồi vốn nhanh. Thanh toán thông qua ngân hàng thương mại và sử dụng các
chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt.

Mua bán lẻ là phương thức trao đổi giưã các chủ thể người sản xuất, thương nhân và
người tiêu dùng, hàng hoá ra khỏi lưu thông và bắt đầu đến lĩnh vực tiêu dùng. Mua bán
lẻ và dự trữ kho hàng với khối lượng nhỏ. Chu chuyển hàng hoá và thu hồi vốn chậm.
Thanh toán trực tiếp và sử dụng tiền mặt trong thanh toán là chủ yếu.
3.1.3.2. Mua bán trực tiếp và qua trung gian

Mua bán trực tiếp là phương thức mà các chủ thể người mua, người bán trực tiếp
quan hệ, giao dịch và trao đổi hàng hoá-tiền tệ, không có sự xuất hiện của người thứ 3.
Mua bán trực tiếp có phân biệt giữa hoạt động nội thương và ngoại thương (về trụ sở của
người giao dịch, đồng tiền thanh toán, sự di chuyển của hàng hoá). Mua bán trực tiếp
diễn ra trên cả thị trườ
ng bán buôn và bán lẻ, trong các cửa hàng, trung tâm thương mại,
siêu thị và các chợ.
Mua bán qua trung gian. Trong thương mại không phải các nhà sản xuất và người
tiêu dùng đều có điều kiện để thiết lập quan hệ mua bán trực tiếp, mà phải tiến hành giao
dịch thương mại qua trung gian, tức người thứ 3. Nhiều hàng hoá xuất khẩu không qua
chế biến, ở dạng thô, hàng nguyên liệu công nghiệp hay dây chuyền công nghệ không
tiếp cận được thị trường ngu
ồn… đều phải mua bán qua trung gian thương mại.
3.1.3.3. Mua bán qua đại lý và môi giới

Mua bán qua đại lý. Người sản xuất muốn trao đổi mua bán với nhau hoặc với
người tiêu dùng, trong trường hợp này phải qua đại lý. Đại lý là người đại diện mua, bán
hoặc xuất, nhập khẩu hàng hoá cho người khác. Họ không bỏ tiền ra mua, bán hàng và
không chịu những rủi ro trong kinh doanh thương mại thay người uỷ thác. Họ có thể là

pháp nhân hay thể nhân tiến hành một hoặc một số hành vi thương mại theo sự uỷ thác
của người u
ỷ thác. Quan hệ giữa họ và người uỷ thác thể hiện trong các hợp đồng đại lý.
Họ được hưởng một khoản hoa hồng nhất định theo kết quả mua bán theo thoả thuận

19
trong hợp đồng. Những mặt hàng áp dụng phương thức mua bán này thường có quy mô
sản xuất lớn, tính chuyên môn hoá cao và được tiêu chuẩn hoá.
Mua bán qua môi giới. Trong trường hợp nay giữa người mua và người bán không
tiến hành các quan hệ và giao dịch trực tiếp mà thông qua môi giới. Người môi giới cũng
không bỏ vốn ra kinh doanh như người đại lý, mà chỉ chắp nối các quan hệ trao đổi thông
qua cung cấp các thông tin, tư vấn, làm cầu nối cho người mua, người bán tiếp xúc, ký
kết hợp đồng và triển khai hoạt động thương mại có hiệu quả. Họ được hưởng hoa hồng
từ cả người bán và người mua theo thoả thuận của mỗi lần giao dịch với người uỷ thác.
Người môi giới có thể được người bán hoặc người mua uỷ thác cả công việc bán và mua
hàng hoá. Phương thức này thường được áp dụng trong trường hợp người bán không biết
người mua hoặc ng
ược lại, ngoài ra còn có những yếu tố khác như năng lực giao dịch
trực tiếp bị hạn chế…
3.1.3.4. Mua bán truyền thống và qua mạng internet

Mua bán truyền thống. Đây là phương thức phổ biến, mang tính truyền thống lâu
đời trong lịch sử. Người bán và người mua phải tiếp xúc với nhau tại các địa điểm nhất
định để thực hiện các giao dịch mua bán và thanh toán. Các quan hệ mua bán diễn ra theo
hợp đồng hoặc không nhất thiết phải có thoả thuận từ trước.
Mua bán qua mạng internet. Khác với phương thức mua bán truyền thống, phương
thức trao
đổi này sử dụng mạng internet để tiến hành các giao dịch mua bán hoặc xuất
nhập khẩu. Phương thức này luôn luôn phải dựa vào nền tảng công nghệ thông tin, viễn
thông. Trong nền kinh tế số hoá, khi thương mại điện tử phát triển, các giao dịch thương

mại về cơ bản sẽ không cần đến giấy tờ.

Trên thực tế, mua bán qua mạng có thể khép kín từ khâu đầu đến khâu cuối cùng,
nhưng cũng có thể kết hợp với các giao dịch của phương thức thương mại truyền thống
(chẳng hạn, tìm kiếm thông tin, đặt hàng qua mạng nhưng giao hàng và thanh toán thì
người mua trả tiền trực tiếp cho người bán hoặc người được uỷ quyền). Các hình thức cụ
thể về mua bán qua mạng tuỳ thuộc vào hạ tầng c
ủa thương mại điện tử và thói quen của
các chủ thể kinh doanh.
3.1.3.5. Mua bán thanh toán ngay và mua bán chịu

Mua bán thanh toán ngay có thể áp dụng cho toàn bộ lô hàng hoặc cả hợp đồng hoặc
giao hàng đén đâu thanh toán đến đó. Mua bán chịu áp dụng trong trường hợp giao hàng
trước thanh toán sau. Ngoài ra trong thương mại hàng hoá quốc tế còn có các kỹ thuật
thanh toán khác.
3.1.3.6. Các phương thức khác

Trong thương mại hàng hoá còn có các phương thức khác như:

20

Tạm nhập tái xuất: Là phương thức xuất khẩu trở lại nước ngoài (ở nước tái xuất)
đối những sản phẩm trước đây đã nhập khẩu, nhưng chưa qua chế biến. Phương thức mua
bán này phản ánh giao dịch thương mại của 3 bên: nước xuất khẩu, nhập khẩu và nước tái
xuất. Hàng hoá đi từ nước xuất khẩu sang nước tái xuất rồi đ
i tiếp đến nước nhập khẩu.
Nước tái xuất trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu. Phương thức
này bao gồm cả hình thức chuyển khẩu (hàng hoá đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước
nhập khẩu).
Buôn bán đối lưu: Là phương thức hàng đổi hàng trong đó hoạt động mua và bán

kết hợp chặt chẽ với nhau, người bán
đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi tương
đương với nhau về giá trị. Phương thức này phản ánh hoạt động không phải vì mục đích
tiền tệ, mà là một lượng hàng hoá có giá trị tương đương. Yêu cầu cơ bản của giao dịch
thương mại là sự cân bằng (về mặt hàng, giá, tổng trị giá, điều kiện giao hàng). Buôn bán
đối lưu còn có các hình thức bù trừ, bồi hoàn).
Xuất nhập khẩ
u tại chỗ: Là phương thức mua bán giữa một bên trong nước với một
bên nước ngoài nhưng thông qua thể nhân hoặc pháp nhân của nước này đang hiện diện ở
nước bên kia và ngược lại. Trong trường hợp này, hàng hoá không có sự di chuyển qua
biên giới của nước có quan hệ trao đổi thương mại. Phương thức này phù hợp và áp dụng
ngày càng phổ biến ở các nước tham gia vào tiến trình mở cửa và hội nhập kinh tế quố
c
tế.
Gia công thương mại: Là phương thức trao đổi mà bên nhận gia công tiếp nhận vật
tư, nguyên liệu do bên đặt gia công giao hoặc bán cho, cùng bản vẽ thiết kế và tiến hành
lắp ráp, chế tạo sản phẩm theo yêu cầu kỹ thuật đã quy định trước, sau đó giao hoặc bán
lại hàng hoá cho bên đặt gia công. Bên nhận gia công sẽ nhận được một khoản thù lao
(gọi là phí gia công) theo thoả thuận trong hợp đồng. Đây là ph
ương thức thường được áp
dụng trong thương mại quốc tế đối với các nước đang phát triển (nơi có nhiều lao động,
giá nhân công thấp ) trong một số lĩnh vực như dệt may, da giày,...
Đấu giá: Là phương thức mua bán đặc biệt, trong đó hàng hoá được tổ chức bán
công khai tại một địa điểm nhất định, những người mua được xem trước hàng hoá, tự do
cạnh tranh về giá và cuố
i cùng hàng hoá được bán cho người trả giá cao nhất. Những mặt
hàng áp dụng phương thức mua bán này thường là những hàng hoá khó tiêu chuẩn hoá.
Đấu thầu: Là phương thức mua bán đăc biệt, trong đó người mua (là người gọi
thầu) công bố các điều kiện mua hàng để người bán (người dự thầu) báo giá cả và các
điều kiện trả tiền, sau đó người mua sẽ chọn mua của người báo giá rẻ nhất và điều ki

ện
về tín dụng, giao hàng phù hợp hơn cả so với yêu cầu mà người mua đã đưa ra. Phương
thức này áp dụng phổ biến trong mua sắm (đấu thầu mua hàng) và thi công (đấu thầu dịch
vụ xây lắp) cấc công trình.

21
3.2. Những vấn đề cơ bản của kinh tế thương maị hàng hóa
3.2.1. Nhu cầu có khả năng thanh toán về hàng hóa
3.2.1.1. Nhu cầu có khả năng thanh toán, quỹ mua và sức mua hàng hoá

Nhu cầu có khả năng thanh toán là một bộ phận của nhu cầu nói chung. Đó là nhu
cầu về hàng hoá bị giới hạn bởi khả năng thanh toán bằng tiền hay các tài sản thanh toán
của dân cư và xã hội. Nhu cầu có khả năng thanh toán luôn được thể hiện trên thị trường
ở tổng số và cơ cấu hàng hoá mà xã hội và dân cư đòi hỏi thị trường phải thoả mãn trong
một khoảng thời gian nhất đị
nh.

Thu nhập bằng tiền của dân cư và xã hội dùng để mua hàng hay thanh toán hàng hoá
chính là quỹ mua hàng hoá. Sức mua hàng hoá trên thị trường phản ánh khối lượng hàng
hoá mà người tiêu dùng nhận được khi sử dụng quỹ mua để thanh toán tiền hàng trong
điều kiện giá cả xác định. Sức mua hàng hoá trên thị trường phụ thuộc vào sức mua của
đồng tiền và quỹ mua của dân cư và xã hội.
Giữa nhu cầu có khả năng thanh toán, quỹ mua và sức mua trên thị trường có quan
h
ệ tỷ lệ thuận. Giá cả hàng hoá tỷ lệ nghịch với sức mua và nhu cầu có khả năng thanh
toán về hàng hoá.
3.2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu có khả năng thanh toán
a. Nhóm yếu tố thuộc về nhu cầu nói chung

Nhu cầu là cơ sở của nhu cầu có khả năng thanh toán, do vậy các nhân tố ảnh hưởng

tới nhu cầu cũng tác động tới quy mô, cơ cấu nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư
và xã hội.
Các yếu tố về dân cư, điều kiện sinh hoạt và lao động của con người: Nhìn chung số
dân càng đông, số người trong mỗi gia đình càng lớn thì nhu cầu về hàng hoá càng tăng.
Thay đổi quy mô dân số và số
người trong mỗi gia đình còn ảnh hưởng tới cơ cấu nhu
cầu có khả năng thanh toán. Thông thường thu nhập thấp, nhưng số dân đông, số thành
viên trong gia đình lớn thì hướng chi tiêu cho hàng lương thực, thực phẩm sẽ cao. Trong
trường hợp ngược lại, sẽ chi tiêu cho mua hàng phi lương thực, thực phẩm nhiều hơn.
Các sở thích, tập quán, thói quen tiêu dùng: Các yếu tố tâm lý, sở thích của con
người, tập quán, thói quen tiêu dùng của dân cư, k
ỳ vọng của người tiêu dùng có thể ảnh
hưởng theo hướng kích thích hoặc hạn chế nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội.
Các điều kiện về tự nhiên: Sự biến đổi của môi trường tự nhiên, thời tiết khí hậu…
đều có ảnh hưởng tới nhu cầu và nhu cầu có khả năng thanh toán.
b. Nhóm yếu tố về thu nhập và phân phối thu nhập của dân cư, của xã hội
Thu nhậ
p bằng tiền tăng lên, thì thường nhu cầu có khả năng thanh toán sẽ mở rộng
và cơ cấu của nhu cầu cũng thay đổi theo hướng sử dụng nhiều hàng phi lương thực, thực
phẩm hơn và ngược lại.

22
Ngoài ra, hướng sử dụng thu nhập bằng tiền sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô và cơ
cấu chi tiêu của dân cư, của xã hội để mua hàng hoá trên thị trường. Nếu dân cư giảm dự
trữ hoặc không gửi tiết kiệm tiền mặt thì chi tiêu mua hàng hoá và thanh toán dịch vụ sẽ
tăng lên. Nếu giảm chi tiêu cho dịch vụ thì nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư và
xã hội về
hàng hoá sẽ tăng và ngược lại.
c. Nhóm yếu tố về sản xuất, cung ứng
Sản xuất và cung ứng có sự phù hợp về quy mô, cơ cấu và chất lượng hàng hoá

cũng như tính đều đặn, đảm bảo tiến độ thời gian giao hàng theo yêu cầu của thị trường
sẽ làm tăng nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội và ngược lại.
Hoạt động sản xuất, cung ứng vớ
i tính ổn định càng cao và chi phí càng thấp càng
kích thích làm tăng nhu cầu có khả năng thanh toán.
d. Nhóm yếu tố về giá cả, thị trường và cạnh tranh

Giá hàng tiêu dùng tăng thông thường làm hạn chế hoặc giảm nhu cầu có khả năng
thanh toán của dân cư và ngược lại. Giá các mặt hàng bổ sung gia tăng sẽ không kích
thích nhu cầu có khả năng thanh toán. Giá mặt hàng thay thế giảm sẽ làm chuyển dịch
nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư sang mặt hàng thay thế đó.
Hạ tầng của thị trường về kỹ thuật, về dân cư và pháp lý, dung lượng thị trường,
quan hệ
cung cầu, xu hướng cạnh tranh về chất lượng, về dịch vụ hỗ trợ như quảng cáo,
tư vấn, giao nhận, … đều ảnh hưởng tới nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư và xã
hội.
e. Nhóm yếu tố về chính sách điều tiết vĩ mô của chính phủ

Chính sách của chính phủ có thể điều tiết cung, cầu và mối quan hệ đó, cũng như
giá cả. Xu hướng các tác động từ chính sách vĩ mô của chính phủ là nhằm kích cung hoặc
kích cầu và cải thiển mối quan hệ đó, bình ổn giá cả để đáp ứng tốt hơn các mục tiêu phát
triển kinh tế, xã hội của đất nước.
3.2.2. Cung ứng và nguồn cung ứng hàng hóa
3.2.2.1. Khái niệm và các nhân tố ảnh hưở
ng tới cung ứng hàng hoá
a. Khái niệm

Cung ứng hàng hoá là tổng trị giá và cơ cấu hàng hoá hiện có và sẽ có bán trên thị
trường đề đáp ứng nhu cầu có khả năng thanh toán trong một khoảng thời gian nhất định.


Cung ứng hàng hoá bao gồm những hàng hoá là các thành phẩm đã kết thúc quá
trình sản xuất, những bán thành phẩm sẽ được hoàn tất quá trình sản xuất để đưa vào lưu
thông. Cung ứng hàng hoá thể hiện ở cả tổng trị giá và lượng hàng hoá đưa ra thị trường
từ các nguồn hàng khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư
và xã hội trong một khoảng thời gian xác định.
b. Các yếu tố ảnh hưở
ng tới cung ứng hàng hoá bao gồm

23

Yếu tố về sản xuất như năng lực sản xuất trong nước thể hiện ở quy mô vốn, nhân
lực và trình độ công nghệ, chu kỳ sống của sản phẩm. Các yếu tố đó ảnh hưởng tới sự
phát triển nguồn hàng trong nước, ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng, quy mô và cơ
cấu cũng như thời gian cung ứng hàng hoá trên thị trường. Ngoài ra, y
ếu tố sản xuất còn
phụ thuộc vào công tác nghiên cứu và triển khai, phát triển sản phẩm.

Yếu tố về nguồn hàng nhập khẩu. Quy mô, cơ cấu, khoảng cách địa lý và tính ổn
định hay sự thay đổi của nguồn hàng nhập khẩu có ảnh hưởng trực tiếp đến cung ứng
hàng hoá trong nước. Ngoài ra, năng lực, uy tín của các nhà cung cấp nước ngoài và yếu
tố xuất khẩu cũng ảnh hưởng tới hoạt động cung ứng đối với các hàng hoá nhập khẩu để
lưu thông trên thị tr
ường nội địa.

Yếu tố về thị trường. Giá cả hàng hoá và các sản phẩm thay thế, những thay đổi của
nhu cầu, tình hình cạnh tranh trong nước và quốc tế, … có thể ảnh hưởng tới quy mô hay
cơ cấu cung ứng hàng hoá trên thị trường.

Các chính sách vĩ mô đối với cung và nguồn hàng bao gồm các chính sách thương
mại, đầu tư, tài chính, đất đai, tài nguyên môi trường, …và quy hoạch phát triển nguồn

hàng.
3.2.2.2. Nguồn hàng cung ứng trên thị trường
a. Khái niệm

Nguồn hàng là nguồn tạo ra hàng hoá để cung ứng trên thị trường. Đó là nơi phát
ra các luồng hàng hoá vận động trên thị trường trong nước và quốc tế, là nơi cung ứng
hàng hoá phục vụ nhu cầu tiêu dùng, sản xuất nội địa và xuất khẩu. Tuy nhiên, nguồn
hàng không phải đơn thuần là khái niệm chỉ vị trí địa lý, nơi khởi nguồn các dòng chảy
của hàng hoá vào kênh phân phối, mà còn hàm chứa quy mô, cơ cấu và sự phân bố nguồ
n
hàng, tiềm năng đưa hàng hoá ra thị trường trong một khoảng thời gian nhất định.

b. Tạo lập nguồn hàng cung ứng trên thị trường

Nguồn hàng có 2 loại: nguồn hàng trong nước và nguồn nhập khẩu. Mỗi nguồn hàng
có vị trí, vai trò quan trọng khác nhau đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Một mặt quy mô, cơ cấu và sự phân bố nguồn hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt
động cung ứng hàng hoá trên thị trường. Mặt khác, sự phát triển của nguồn hàng phụ
thuộc vào sản xuất, các quy hoạch phát triển kinh tế
và chính sách vĩ mô của chính phủ
về tài chính, thương mại và đầu tư cũng như các hỗ trợ khác về hạ tầng cơ sở, các yếu tố
của môi trường quốc tế.
Nhà nước cần phải có chính sách tạo lập và phát triển nguồn hàng, đảm bảo nguồn
hàng mang tính ổn định, hợp lý và cân đối. Doanh nghiệp cũng cần chủ động tham gia
đầu tư vào các khu vực nguồn hàng để tạo ra c
ơ sở vật chất cho hoạt động cung ứng liên
tục, mang tính cạnh tranh và có hiệu quả, nhất là trong điều kiện hội nhập quốc tế..

24
3.2.3. Dự trữ hàng hóa trong lưu thông

3.2.3.1. Khái niệm và sự cần thiết của dự trữ hàng hoá
a. Khái niệm dự trữ hàng hoá

Dự trữ hàng hoá là một hình thái dự trữ sản phẩm xã hội, bao gồm toàn bộ hàng
hoá cần thiết đang vận động trong các khâu khác nhau của quá trình lưu thông. Đó là
những hàng hoá đã thoát khỏi quá trình sản xuất nhưng chưa đi vào lĩnh vực tiêu dùng.

Các hình thái dự trữ sản phẩm xã hội bao gồm: dự trữ trong sản xuất, trong lưu
thông và trong tiêu dùng. Dự trữ trong lưu thông là dự trữ hàng hoá, có quan hệ ảnh
hưởng tới dự trữ trong sản xuất và tiêu dùng. Dự trữ trong lưu thông bao gồm hàng hoá ở
kho thành phẩm của nhà sản xuất, kho trạm của mạng lưới thương mại bán buôn, bán lẻ
và hàng đang đi trên đường, hàng gửi bán. Dự trữ hàng hoá khác tồn kho ở ch
ỗ nó chủ
động hình thành và cần thiết cho lưu thông, luôn đổi mới không ngừng trong quá trình
vận động. Tồn kho còn bao gồm cả hàng hoá do hậu quả của lưu thông để lại.
b. Sự cần thiết của dự trữ hàng hoá

Dự trữ hàng hoá là điều kiện cần thiết của lưu thông, đảm bảo cho lưu thông hàng
hoá diễn ra liên tục thông suốt. Không có dự trữ hàng hoá thì không có lưu thông hàng
hoá. Tuy nhiên, dự trữ hàng hoá phải hợp lý mới rút ngắn thời gian lưu thông, thúc đẩy
nhanh quá trình tái sản xuất và tiết kiệm chi phí.
Dự trữ hàng hoá hình thành là do quan hệ cung cầu, giá cả và tình hình cạnh tranh
thị trường, do yêu cầu xử lý mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng, nhằm đảm bả
o cho
quá trình lưu thông hàng hoá diễn ra liên tục, thông suốt. Mặt khác, dự trữ hàng hoá là
cần thiết còn do vai trò của nó trong các công cụ, chính sách điều tiết vĩ mô của chính
phủ, thông qua đó để nắm bắt, khai thác các cơ hội thị trường và giảm thiểu các nguy cơ
rủi ro.
3.2.3.2. Phân loại dự trữ hàng hoá
a. Theo công dụng của hàng hoá dự trữ

Dự trữ hàng sản xuất bao gồm toàn bộ hàng hoá vật tư, nguyên, nhiên phụ liệu, máy
móc thiết bị, phụ tùng, công nghệ... là những “đầu vào” phục sản xuất được lưu thông
trên thị trường.
Dự trữ hàng tiêu dùng bao gồm hàng lương thực, thực phẩm và hàng công nghiệp
tiêu dùng được lưu thông trên thị trường phục vụ tiêu dùng đời sống dân cư.
b. Theo mục đích sử dụng

Dự trữ thường xuyên bao gồm toàn bộ những hàng hoá thường xuyên phải có bán
trên thị trường. Nếu thiếu hàng sẽ gián đoạn lưu thông, gây khó khăn trở ngại cho sản
xuất và đời sống (Ví dụ: xăng dầu, phân bón, sắt thép, xi măng, lương thực, thực phẩm...).

25
Dự trữ thời vụ, là những hàng hoá được hình thành ở vào thời vụ của sản xuất và
tiêu dùng nhằm tận dụng tối đa các cơ hội trong mua và bán hàng hoá hoặc khắc phục
tính thời vụ của sản xuất và tiêu dùng (chẳng hạn, kinh doanh hàng nông sản, hàng thuỷ
sản ở vào mùa thu hoạch, hàng tiêu dùng trong các dịp lễ, tết, … và chính sách vĩ mô của
chính phủ đối với dự trữ lưu thông đối với các m
ặt hàng có tính thời vụ đó) .
Dự trữ bảo hiểm là loại dự trữ đề phòng những rủi ro, bất trắc xảy ra (chẳng hạn, do
bán nhanh hết hàng, do vận chuyển hàng đến chậm, do thiên tai, do chiến tranh ...).
c. Các phân loại khác
(theo quy mô, thời gian, hình thức biểu hiện và sự vận động của dự
trữ)

Theo quy mô gồm có dự trữ thấp nhất, cao nhất và bình quân. Theo thời gian gồm
có dự trữ đầu kỳ, cuối kỳ. Theo hình thức biểu hiện có dự trữ hiện vật, trị giá dự trữ và
thời gian (số ngày) dự trữ hàng hoá. Theo quá trình vận động gồm hàng hoá dự trữ trong
các kho hàng, hàng hoá đang trên đường đi, hàng gửi bán hoặc quảng cáo tại các hội chợ
thương mại.
3.2.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tớ

i dự trữ hàng hoá
Các yếu tố thuộc về sản xuất như quy mô, cơ cấu, trình độ, tính chất và sự phân bố
sản xuất.
Hệ thống giao thống và hạ tầng kỹ thuật: số lượng, chất lượng, cơ cấu các loại tuyến
đường và phương tiện giao thông cũng như sự phân bố hạ tầng giao thông. Các hạ tầng
kỹ thuật khác như thông tin, viễn thông, ngân hàng, đi
ện năng,...
Mạng lưới thương mại và hệ thống phân phối bao gồm cửa hàng, kho hàng, trung
tâm thương mại, siêu thị, hội chợ triển lãm, các chợ bán buôn, bán lẻ,... Cơ sở vật chất kỹ
thuật thương mại gồm các phương tiện kinh doanh trong các khâu mua bán, kho hàng và
vận chuyển hàng hoá.
Tình hình thị trường và cạnh tranh trong thương mại. Quan hệ cung cầu hàng hoá,
giá cả, mức độ cạnh tranh và xu hướng biến động của các y
ếu tố và quan hệ đó.
Chính sách kinh doanh của doanh nghiệp và cơ chế quản lý nhà nước đối với hàng hoá
lưu thông.
Các yếu tố khác (điều kiện tự nhiên, những bất trắc khác).
3.2.4. Chi phí lưu thông hàng hóa
3.2.4.1. Khái niệm chi phí lưu thông

Chi phí lưu thông là biểu hiện bằng tiền toàn bộ hao phí về lao động sống và lao
động vật hoá phục vụ cho việc tổ chức và quản lý quá trình lưu thông hàng hoá trong nền
kinh tế.
Các hao phí về lao động vật hoá bao gồm các bộ phận cấu thành chủ yếu như hao
mòn vật chất về tài sản, phương tiện trong các khâu mua, bán, kho hàng và vận chuyển

×