Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tài liệu BÁO CÁO TỔNG KẾT DỰ ÁN SỬ DỤNG QUỸ MỞ RỘNG pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.36 KB, 27 trang )

BÁO CÁO TỔNG KẾT DỰ ÁN SỬ DỤNG QUỸ MỞ RỘNG
ĐỀ TÀI: BÁO CÁO TỔNG KẾT DỰ ÁN SỬ DỤNG QUỸ MỞ RỘNG
i
BÁO CÁO TỔNG KẾT DỰ ÁN SỬ DỤNG QUỸ MỞ RỘNG
DANH SÁCH NGƯỜI THAM
1. Ông Nguyễn Tuấn Hùng , Cục trưởng Cục ĐĐBĐ Việt Nam;
2.Ông Lê Minh Tâm, Phó Cục trưởng Cục ĐĐBĐ Việt Nam;
3. Ông Vũ Quý Lân, Phó Cục trưởng Cục ĐĐBĐ Việt Nam;
4. Ông Trương Xuân Thủy, Chánh Văn phòng Cục;
5. Ông Nguyễn Văn Bảy, Trưởng phòng Pháp chế;
6. Ông Trần Hồng Quang, Trưởng phòng Hợp tác Quốc tế;
7. Ông Phan Ngọc Mai, Trưởng phòng Công nghệ thẩm định;
8. Ông Nguyễn Đình Đông, Trưởng phòng Kế hoạch tài chính;
9. Bà Phạm Thị Loan, Phó trưởng phòng Pháp chế;
10. Ông Bùi Văn Hoàng, Chuyên viên Văn phòng Cục;
11. Bà Nguyễn Thu Hương, Chuyên viên Văn phòng Cục;
12. Bà Nguyễn Thị Kim Oanh, Chuyên viên Phòng Pháp chế;
13. Ông Kiều Trần Dũng, Chuyên viên Phòng Pháp chế.
Mục lục
DANH SÁCH NGƯỜI THAM GIA i
TÓM TẮT DỰ ÁN
ii
CHỮ VIẾT TẮT
vi
LỚI NÓI ĐẦU
1
I. KHÁI QUÁT DỰ ÁN
3
II. NỘI DUNG THỰC HIỆN
5
III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN


7
IV. TÀI CHÍNH
10
V. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN
11
VI. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
12
VII. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
14
PHỤ LỤC:
15
ii
BÁO CÁO TỔNG KẾT DỰ ÁN SỬ DỤNG QUỸ MỞ RỘNG
TÓM TẮT DỰ ÁN
1. Sự cần thiết của Dự án.
(1) Tình hình thi hành pháp luật về đo đạc và bản đồ và sự cần thiết của
Dự án luật đo đạc và bản đồ
Các Nghị định của Chính phủ: Nghị định số 12/2002/NĐ-CP ngày 22
tháng 01 năm 2002 về hoạt động đo đạc và bản đồ (sau đây viết tắt là Nghị định
12); Nghị định số 30/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 3 năm 2005 về xử phạt vi
phạm hành chính trong họat động đo đạc và bản đồ (sau đây viết tắt là Nghị định
30) là hai văn bản quy phạm pháp luật cao nhất trong lĩnh vực đo đạc và bản đồ,
các Nghị định đã tạo cơ sở pháp lý cơ bản cho việc thống nhất quản lý nhà nước
và triển khai hoạt động đo đạc và bản đồ trên phạm vi tòan lãnh thổ. Tuy nhiên,
việc thực thi Nghị định 12, Nghị định 30 còn chưa nghiêm, thể hiện ở một số
mặt hạn chế, tồn tại sau:
a. Việc thi hành pháp luật về đo đạc và bản đồ của các cơ quan QLNN về
đo đạc và bản đồ ở Trung ương và địa phương còn nhiều bất cập

- Công tác xây dựng thể chế: Hệ thống văn bản QPPL dưới Nghị định do
các Bộ, ngành ban hành còn chậm, còn tồn tại một số mâu thuẫn, bất cập, chưa
theo kịp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Văn bản QPPL về
đo đạc bản đồ do địa phương ban hành không đầy đủ, chất lượng thấp và chưa
theo sát với thực tế của địa phương.
- Việc triển khai các nhiệm vụ đo đạc và bản đồ của các bộ, ngành về cơ
bản đã đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên còn có hiện tượng
chồng chéo gây lãng phí cho ngân sách nhà nước. Việc triển khai đo đạc và bản
đồ ở địa phương còn bất cập do thiếu quy hoạch, kế hoạch dài hạn, đầu tư kinh
phí hàng năm cho công tác đo đạc bản đồ còn bị động, không ổn định, cơ chế
phối hợp quản lý đầu tư chưa chặt chẽ dẫn đến vẫn còn hiện tượng trùng lặp,
lãng phí; mặt khác, do các bộ, ngành và địa phương thực hiện không nghiêm
quy định về báo cáo trong họat động đo dạc và bản đồ nên công tác theo dõi,
giám sát, tổng hợp của Bộ TNMT gặp rất nhiều khó khăn.
- Công tác thanh tra, kiểm tra trong quản lý hoạt động đo đạc và bản đồ
của các cơ quan QLNN về đo đạc và bản đồ ở Trung ương và địa phương thực
hiện chưa tốt. Các Bộ, ngành, địa phương chưa chủ động và chú trọng đúng mức
đến công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động đo đạc và bản đồ trong phạm vi quản
lý của mình.
- Việc xử lý vi phạm trong hoạt động đo đạc và bản đồ hầu như chưa có,
cụ thể chưa có tổ chức cá nhân nào vi phạm phải xử lý theo các quy định của
Nghị định 30. Tuy nhiên, thực tế này không chứng tỏ việc thực thi pháp luật
nghiêm minh của các tổ chức, cá nhân tham gia họat động đo đạc và bản đồ mà
nó phần nào nói lên việc buông lỏng trách nhiệm kiểm tra, giám sát của các bộ,
iii
BÁO CÁO TỔNG KẾT DỰ ÁN SỬ DỤNG QUỸ MỞ RỘNG
ngành và địa phương trong quản lý nhà nước đối với lĩnh vực. Trên thực tế qua
công tác kiểm tra thường xuyên hàng năm của Bộ Tài nguyên và Môi trường đã
phát hiện nhiều tổ chức vi phạm quy chế đăng ký và cấp giấy phép hoạt động đo
đạc và bản đồ mà không bị kiểm tra, xử lý.

- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đo đạc và bản đồ
còn nặng về hình thức và chưa đủ sâu rộng để các cấp quản lý, các tổ chức, cá
nhân tham gia hoạt động đo đạc và bản đồ và người dân nhận thức đầy dủ về
pháp luật và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật.
b. Các tổ chức tham gia hoạt động và người dân chấp hành chưa nghiêm
pháp luật về đo đạc và bản đồ do nhận thức pháp luật về đo đạc và bản đồ còn
nhiều hạn chế
Việc chấp hành quy chế đăng ký và cấp giấy phép hoạt động đo đạc và
bản đồ của các tổ chức chưa được nghiêm túc, nhiều tổ chức tham gia họat động
đo đạc và bản đồ mà không đăng ký với cấp có thẩm quyền hoặc không được
cấp phép
Nhận thức pháp luật về đo đạc và bản đồ của người dân còn thấp, đa số
chưa ý thức được tầm quan trọng của việc bảo vệ các công trình xây dựng, dấu
mốc đo đạc cũng như ý nghĩa của việc thể hiện chủ quyền lãnh thổ quốc gia
thông qua các xuất bản phẩm về bản đồ.
Từ thực tế tình hình thi hành pháp luật đo đạc và bản đồ như trên đặt ra
yêu cầu cấp bách phải xây dựng Luật đo đạc và bản đồ.
(2) Thực trạng các mối quan hệ xã hội trong hoạt động đo đạc và bản đồ
và sự cần thiết phải điều chỉnh bằng Luật.
a. Quan hệ giữa cơ quan QLNN về đo đạc bản đồ ở Trung ương với cơ
quan QLNN về đo đạc bản đồ ở địa phương
Mối quan hệ giữa hai lọai cơ quan này cơ bản dựa trên cơ chế phân cấp,
các vấn đề cơ bản về quản lý nhà nước đối với họat động đo đạc bản đồ thuộc
phạm vi địa phương như kiểm tra, thẩm định chất lượng công trình, sản phẩm đo
đạc bản đồ địa chính, đo đạc bản đồ chuyên dụng của địa phương; bảo vệ công
trình xây dựng, dấu mốc đo đạc trong phạm vi ranh giới hành chính cấp tỉnh;
Quản lý thông tin tư liệu do đạc bản đồ, triển khai các nhiệm vụ về đo đạc và
bản đồ phục vụ mục đích chuyên dụng của địa phương đều thuộc thẩm quyền
của chính quyền địa phương (UBND cấp tỉnh). Cơ quan QLNN về đo đạc bản
đồ ở Trung ương thực hiện quản lý, giám sát các họat động trên thông qua công

tác thanh tra, kiểm tra, phân tích, tổng hợp thông tin thu nhận được bằng con
đường báo cáo.
Tuy nhiên, thực trạng của mối quan hệ giữa Trung ương và địa phương
dựa trên cơ chế Phân cấp - Kiểm tra như trên cũng bộc lộ nhiều bất cập và thiếu
hiệu quả: việc thanh tra chỉ tiến hành theo từng vụ việc đơn lẻ, công tác kiểm
tra, do hạn chế về kinh phí và thời gian nên còn nặng về hình thức; mặt khác, cơ
quan quản lý nhà nước về đo đạc bản đồ của địa phương thực hiện không
nghiêm túc quy định về báo cáo, báo cáo còn mang nhiều tính thủ tục, hình thức.
iv
BÁO CÁO TỔNG KẾT DỰ ÁN SỬ DỤNG QUỸ MỞ RỘNG
b. Quan hệ giữa cơ quan QLNN về đo đạc bản đồ ở TƯ với Bộ ngành có
hoạt động đo đạc bản đồ chuyên ngành
Nghị định 12 có quy định về phân cấp triển khai nhiệm vụ về đo đạc và
bản đồ chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý của các Bộ, tuy nhiên không quy
định rõ về cơ chế quản lý, kiểm tra, gíám sát của cơ quan quản lý nhà nước về
đo đạc và bản đồ đối với các họat động này. Cơ quan QLNN về đo đạc và bản
đồ chỉ thực hiện quản lý họat động đo đạc bản đồ của các Bộ thông qua Quy chế
cấp phép họat đông đo đạc và bản đồ và quy định về báo cáo trong họat đông đo
đạc và bản đồ, Tuy nhiên, đây đều là các văn bản QPPL hướng dẫn thi hành
Nghị định nên hiệu quả thi hành pháp luật không cao, đa số các Bộ, ngành xem
nhẹ hoặc thực hiện không nghiêm quy định về Báo cáo.
Thực trạng của mối quan hệ này là cơ quan quản lý không có chế tài để
quản lý và kiểm tra hoặc chế tài không đủ mạnh và do không quản lý được dẫn
đến thả nổi. Do các vi phạm không bị xử lý, các Bộ ngành không coi trọng việc
thực thi các văn bản QPPL do cơ quan quản lý nhà nước về đo đạc bản đồ ban
hành và cho rằng không phải là luật nên không bắt buộc phải thi hành.
c. Quan hệ giữa cơ quan QLNN về đo đạc bản đồ với doanh nghiệp
- Đối với lọai hình doanh nghiệp nhà nước, cơ quan QLNN về đo đạc và
bản đồ về cơ bản kiểm soát được về năng lực (nhân lực và trình độ), chất lượng
công trình, sản phẩm của các Doanh nghiệp NN trực thuộc. Với các doanh

nghiệp NN trực thuộc các Bộ chuyên ngành, cơ quan QLNN về đo đạc bản đồ
nắm bắt được về năng lực thông qua cấp phép. Về số lượng, chất lượng công
trình, sản phẩm chỉ tổng hợp trên cơ sở báo cáo của các Bộ.
- Đối với lọai hình doanh nghiệp ngoài nhà nước, cơ quan QLNN về đo
đạc bản đồ chỉ nắm bắt về năng lực thông qua công tác cấp phép, các vấn đề
khác phân cấp cho Cơ quan QLNN địa phương.
d. Quan hệ giữa các doanh nghiệp đo đạc bản đồ:
- Đối với các doanh nghiệp nhà nước họat động trong lĩnh vực đo đạc và
bản đồ, về cơ bản thực hiện kế hoạch do Nhà nước đặt hàng, hoạt động chủ yếu
dựa trên nguồn kinh phí được cấp từ ngân sách theo kỳ kế hoạch.
- Các doanh nghiệp ngoài nhà nước do năng lực nhiều hạn chế, hoạt động
nhỏ lẻ, chủ yếu gắn với nhu cầu của địa phương.
Như vậy thực trạng của mối quan hệ này là bất bình đẳng, không có yếu
tố cạnh tranh – một động lực cần thiết cho sự phát triển. Luật đo đạc và bản đồ
nhằm điều chỉnh quan hệ này hướng tới cạnh tranh bình đẳng trong khuôn khổ
của pháp luật.
e. Quan hệ giữa cơ quan QLNN về đo đạc bản đồ với người dân
Luật đo đạc và bản đồ sẽ hướng người dân tới việc tăng cường nhận thức
về quyền lợi và nghĩa vụ của mình trên cơ sở đó tuân thủ quy định của pháp luật
về đo đạc và bản đồ, tự giác tham gia và đóng góp tích cực cho họat động của cơ
quan QLNN.
(3) Tác động của dự án Luật
v
BÁO CÁO TỔNG KẾT DỰ ÁN SỬ DỤNG QUỸ MỞ RỘNG
a. Tiết kiệm ngân sách Nhà nước
Luật đo đạc và bản đồ khi được xây dựng trên cơ sở khoa học và thực tiến
sẽ làm tăng tối đa hiệu quả thi hành pháp luật về đo đạc và bản đồ của cơ quan
QLNN các cấp và người dân cũng như điều chỉnh các mối quan hệ theo hướng
tích cực. Nhà nước sẽ được hưởng lợi ích kinh tế từ việc tiết kiệm ngân sách do
bảo vệ công trình đo đạc, chia sẻ thông tin, hạn chế tiến tới loại bỏ việc đo vẽ

chồng chéo. Luật cũng là nền tảng pháp lý vững chắc để ngành đo đạc và bản đồ
Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới, đáp ứng với sự phát triển kinh tế xã
hội của đất nước trong giai đọan hội nhập quốc tế.
b. Luật đo đạc và bản đồ còn mang lại lợi ích vô hình từ việc tuyên
truyền, giáo dục đến toàn dân về chủ quyền lãnh thổ quốc gia và thúc đẩy tiến
bộ xã hội.
2. Tóm tắt nội dung dự án
Dự án gồm 07 phần:
Phần1: Thu thập, nghiên cứu, đánh giá thông tin tư liệu;
Phần 2: Tổng kết tình hình thực hiện pháp luật về đo đạc và bản đồ;
Phần 3: Khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan đến các
nội dung chính của Luật Đo đạc và Bản đồ;
Phần 4: Tổ chức đánh giá tác động và xây dựng báo cáo đánh giá tác động
của dự án Luật;
Phần 5: Xây dựng Đề cương chi tiết;
Phần 6: Xây dựng dự thảo Luật trên cơ sở Đề cương chi tiết;
Phần 7: Tổ chức lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và tổ chức
Hội thảo.
vi
BÁO CÁO TỔNG KẾT DỰ ÁN SỬ DỤNG QUỸ MỞ RỘNG
CHỮ VIẾT TẮT
(1) SEMLA: Chương trình hợp tác Việt Nam- Thụy Điển về tăng cường
năng lực quản lý đất đai và môi trường
(2) UBND: Ủy ban nhân dân;
(3) QLNN: Quản lý nhà nước;
(4) ĐĐBĐ: Đo đạc và bản đồ;
(5) QLĐĐ: Quản lý đất đai;
(6) CT-TTg: Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ;
(7) NĐ-CP: Nghị định của Chính phủ;
(8) Bộ TNMT: Bộ Tài nguyên và Môi trường;

(9) QPPL: Quy phạm pháp luật;
vii
BÁO CÁO TỔNG KẾT DỰ ÁN SỬ DỤNG QUỸ MỞ RỘNG
Mục lục
DANH SÁCH NGƯỜI THAM GIA i
TÓM TẮT DỰ ÁN
ii
CHỮ VIẾT TẮT
vi
LỚI NÓI ĐẦU
1
I. KHÁI QUÁT DỰ ÁN
3
II. NỘI DUNG THỰC HIỆN
5
III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
7
IV. TÀI CHÍNH
10
V. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN
11
VI. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
12
VII. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
14
PHỤ LỤC:
15
viii

BÁO CÁO TỔNG KẾT DỰ ÁN SỬ DỤNG QUỸ MỞ RỘNG
LỜI NÓI ĐẦU
Ngành Đo đạc và Bản đồ Việt Nam có lịch sử hơn 500 năm, trải qua bao
tháng năm thăng trầm của lịch sử. Năm 1959, Chính phủ đã thành lập Cục Đo
đạc và Bản đồ thuộc Phủ Thủ tướng. Năm 1974, được chuyển thành Cục Đo đạc
và Bản đồ trực thuộc Chính phủ.
Năm 1994, Chính phủ đã quyết định thành lập Tổng cục Địa chính trên cơ
sở sáp nhập và tổ chức tại Cục Đo đạc và Bản đồ nhà nước, Tổng cục Quản lý
ruộng đất. Tổ chức mới đã tạo ra một giai đoạn mới gắn liền công tác ĐĐBĐ
với công tác QLĐĐ
Tháng 11 năm 2002, Quốc hội quyết định thành lập Bộ Tài nguyên và
Môi trường, trong đó Chính phủ đã quyết định tái lập Cục Đo đạc và Bản đồ với
chức năng, nhiệm vụ rất cụ thể, Chính phủ đã quyết định những dự án đầu tư lớn
cho lĩnh vực ĐĐBĐ nhằm đáp ứng kịp thời cho quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ngày 04 tháng 3 năm 2008 Chính Phủ ban hành Nghị định
số 25/2008/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Bộ Tài nguyên và Môi trường, theo đó Cục Đo đạc và Bản đồ được đổi tên
thành Cục Đo đạc và Bản đồ Việt Nam.
Sau 6 năm triển khai thực hiện, ngày 19/12/2007 Thủ tướng Chính phủ có
Chỉ thị số 32/2007/CT-TTg về tổng kết thực hiện Nghị định số 12/2002/NĐ-CP
ngày 22 tháng 01 năm 2002 của Chính phủ về hoạt động đo đạc và bản đồ, trong
báo cáo tổng kết của Bộ Tài nguyên và Môi trường trình Thủ tướng đã đánh giá:
Nghị định 12 là văn bản pháp luật cao nhất trong lĩnh vực đo đạc và bản đồ, nó
đã tạo cơ sở pháp lý cơ bản cho việc thống nhất quản lý nhà nước và triển khai
hoạt động đo đạc và bản đồ, đưa quản lý nhà nước về đo đạc và bản đồ đi dần
vào nề nếp, giảm thiểu được tình trạng đo đạc chồng chéo, lãng phí và hướng
dần vào việc thống nhất sử dụng dữ liệu đo đạc cơ bản, chia sẻ và sử dụng
chung thông tin.
Hệ thống văn bản QPPL khung sau Nghị định 12 do Bộ TNMT phối hợp

với các Bộ liên quan ban hành đã đầy đủ, cơ bản đáp ứng được yêu cầu phục vụ
quản lý nhà nước và triển khai hoạt động đo đạc và bản đồ ở Trung ương theo
Nghị định 12. Hệ thống văn bản phục vụ quản lý trực tiếp và tổ chức triển khai ở
địa phương, cơ sở thuộc thẩm quyền ban hành của các Bộ, ngành khác và địa
phương còn thiếu về số lượng và không đồng bộ, nhiều văn bản ban hành chậm
và chưa đủ đáp ứng yêu cầu thống nhất quản lý toàn diện hoạt động đo đạc và
bản đồ. Nguyên nhân của việc thiếu và chậm ban hành văn bản quản lý là do
nhận thức pháp luật chưa đầy đủ, chưa có sự quan tâm đúng mức của các Bộ,
ngành và địa phương đối với công tác quản lý hoạt động đo đạc và bản đồ, chưa
có sự chỉ đạo sát sao trong xây dựng và ban hành các văn bản phục vụ quản lý.
Các Bộ, ngành có hoạt động đo đạc và bản đồ không ban hành hoặc có ban hành
1
BÁO CÁO TỔNG KẾT DỰ ÁN SỬ DỤNG QUỸ MỞ RỘNG
nhưng chưa có sự phối hợp với Bộ TNMT trong xây dựng văn bản và theo dõi
quản lý. Phần lớn các văn bản khác do các tỉnh ban hành chỉ phục vụ giải quyết
những việc cần thiết, liên quan đến triển khai cụ thể, còn thiếu các văn bản phục
vụ quản lý trực tiếp các hoạt động đo đạc và bản đồ; một số địa phương khi ban
hành văn bản không gửi cho Bộ TNMT và các Bộ, ngành liên quan để phối hợp
và theo dõi chỉ đạo.
Chất lượng các văn bản đã ban hành chưa cao, một số văn bản ban hành
chưa đúng thẩm quyền, sai về thể thức, nội dung còn chồng chéo và mâu thuẫn
giữa các văn bản với nhau, cá biệt có nội dung chưa sát với thực tế và chưa đáp
ứng được yêu cầu phát triển công nghệ trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc
tế của đất nước.
Trong xây dựng văn bản chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
liên quan nên trình tự thẩm định phức tạp, dài dòng, có nội dung sau khi văn bản
ban hành mới phát hiện là còn thiếu hoặc bất cập.
Tính pháp lý của văn bản pháp luật cao nhất về quản lý nhà nước hoạt động
đo đạc và bản đồ chưa cao do mới chỉ là Nghị định, do đó còn có tư tưởng coi
nhẹ, chấp hành chưa nghiêm. Ý thức chấp hành pháp luật của một số cấp quản lý

chưa cao. Vì vậy, việc sớm xây dựng Luật Đo đạc và Bản đồ để điều chỉnh và
thống nhất quản lý toàn diện mọi hoạt động đo đạc và bản đồ là hết sức cần thiết.
Trước tinh hình của Hội nhập và phát triển kinh tế của đất nước cũng như
nhu cầu về công tác quản lý nhà nước về hoạt động đo đạc và bản đồ, ngày 22
tháng 01 năm 2008, Bộ Tài nguyên và Môi trường có Quyết định số 131/QĐ-
BTNMT về việc phân công đơn vị thực hiện Chương trình xây dựng Luật, pháp
lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XII (2007 – 2011) và năm 2008 thuộc trách
nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Cục Đo đạc và Bản đồ Việt Nam được
giao nhiệm vụ chủ trì xây dựng Luật Đo đạc và Bản đồ để trình Quốc Hội thông
qua vào tháng 10/2010.
Do nguồn kinh phí sự nghiệp của Nhà nước cấp cho công tác xây dựng
các dự án Luật rất hạn hẹp, yêu cầu về thời gian trình dự án Luật Đo đạc và Bản
đồ lại rất gấp. Vì vậy sau khi nghiên cứu, cân nhắc về khả năng không đủ kinh
phí đáp ứng cho Chương trình xây dựng Luật, Cục Đo đạc và Bản đồ Việt Nam
kính đề nghị Chương trình SEMLA xem xét hỗ trợ kinh phí cho Cục Đo đạc và
Bản đồ Việt Nam để thực hiện một số nội dung cần triển khai gấp trong kế
hoạch xây dựng Luật Đo đạc và Bản đồ năm 2009.
Cục Đo đạc và Bản đồ xin chân thành cảm ơn Ban chỉ đạo Chương trình
SEMLA đã quan tâm tạo điều kiện nguồn kinh phí hỗ trợ cho Cục triển khai một
số nội dung cần thiết trong việc xây dựng Dự án Luật Đo đạc và Bản đồ.
2

×