Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tìm hiểu triết lý nhân sinh trong tác phẩm Đạo Đức kinh của Lão Tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.58 KB, 6 trang )

TÌM HIỂU TRIẾT LÝ NHÂN SINH
TRONG TÁC PHẨM ĐẠO ĐỨC KINH CỦA LÃO TỬ
SV: Phạm Thị Mỹ Duyên
Lớp: ĐHGDCT13
GVHD: CN. Phùng Ngọc Tiến
Tóm tắt: Trong triết học phương Đơng, “Đạo”có một vị trí rất
quan trọng đối với các trường phái triết học như Nho gia, Lão gia
và Phật giáo. Trong bài này, người viết đi tìm những triết lý nhân
sinh trong “Đạo Đức kinh”của Lão Tử đó là những triết lý về
nguồn gốc, bản chất của con người về đạo, quy luật về đời sống con
người trong thuyết vô vi, thuyết âm dương và những quy luật của tự
nhiên về đời sống xã hội. Từ đó chúng ta nhận thức được những
triết lý nhân sinh của Đạo gia có ý nghĩa rất quan trọng đối với đời
sống xã hội hiện nay.
Từ khóa: Đạo đức, triết lý nhân sinh, vơ vi.
1. Đặt vấn đề
Đạo Đức kinh là một tác phẩm kinh điển của triết học phƣơng
Đơng cổ đại, nó khơng chỉ chứa đựng hệ thống tri thức sâu sắc về thế
giới quan mà còn chứa đựng những giá trị sâu sắc về nhân sinh quan.
Mặc dù ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử đặc thù thời Xuân Thu Chiến quốc, các triết lý nhân sinh quan tiếp tục có ý nghĩa trong việc
nhận thức, suy ngẫm và thực hành đối với đời sống xã hội hiện đại.
Tƣ tƣởng đạo đức đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn các quan
điểm về thế giới quan, nhân sinh quan. Nó là nội dung cốt lõi của triết
học phƣơng Đông. Thế nhƣng, mỗi triết gia đều có cách lý giải, suy tƣ
và diễn giải riêng của họ. “Đạo”là một khái niệm trừu tƣợng hay dùng
trong Nho gia và Lão gia và Phật giáo, song mỗi một hệ phái lại có
cách lọc và cách diễn giải với sắc thái khác nhau.
2. Nội dung
2.1. Đôi nét về tác giả và tác phẩm
Lão Tử là một hiện tƣợng khá lạ trong lịch sử triết học của nhân
loại. Ông là một triết gia lớn có ảnh hƣởng tới Đông Á cùng với Khổng


Tử thời nào cũng đƣợc mọi ngƣời tôn trọng. Lão Tử là ngƣời làng Khúc
Nhân, hƣơng Lệ, huyện Hồ, nƣớc Sở, họ Lí, tên Nhĩ, tự là Đam làm
quan sử giữ kho chứa sách nhà Chu. Lão Tử trau dồi đạo đức, học
thuyết của ông cốt ở chỗ giấu mình ẩn danh. Ơng ở nƣớc Chu đã lâu,
thấy nhà Chu suy bèn bỏ đi, thế là ông viết gần một cuốn gồm hai thiên
thƣợng và hạ, nói về ý nghĩa của “Đạo”và “Đức”đƣợc trên ngàn chữ.
20


Viết xong không ai biết chết ra sao, ở đâu. Có ngƣời bảo: lão Lai Tử
cùng là ngƣời nƣớc Sở viết mƣời lăm thiên sách nói về cơng dụng của
Đạo gia cũng đồng thời với Khổng Tử. Về quê quán trong bộ sử kí lƣu
hành hiện nay Lão Tử gốc ở làng Khú Lí, hƣơng Lệ, huyện Hỗ nƣớc
Sở. Ơng làm quan sử giữ kho chứa sách của nhà Chu tức nhƣ chức
giám đốc thƣ viện quốc gia ngày nay, Lão Tử sống ở thế kỉ thứ IV
(390-300 TCN) và Vũ Đồng đốn ơng sinh vào khoảng 430-340 TCN.
Về tác phẩm Đạo Đức kinh, theo Tƣ Mã Thiên thì Lão Tử viết
tác phẩm này là do lời yêu cầu của Doãn Hỉ, nhƣ vậy tác phẩm xuất
hiện vào thời Xuân Thu. Nhƣng tới thế kỉ XVIII mới có ngƣời nghi
ngờ thuyết đó (Tất Ngun hay ng Trung) rồi gần đây Khang Hữu
Vi, Lƣơng Khải Siêu, Tiền Mục, Trƣơng Tây Đƣờng , Phùng Hữu
Lan… đều cho rằng Lão Tử xuất hiện trong thời Chiến Quốc; ngƣời
thì cho là sau Măc Tử trƣớc Trang Tử, ngƣời lại cho ông sinh trong
khoảng từ Trang Tử tới Tuân Tử. Cũng có ý kiến cho rằng Lão Tử
xuất hiện còn trễ hơn nữa, sau bộ Lã thị Xuân Thu và trƣớc bộ Hoài
Nam Tử, nghĩa là vào đầu thời Tiền Hán, nhƣng thuyết này không
vững [2, tr.28].
2.2 Về nội dung của triết lý nhân sinh trong tác phẩm Đạo Đức kinh
2.2.1. Quan điểm của Lão Tử về Đạo
Theo Lão Tử thì Đạo là bản nguyên của vũ trụ. Theo ơng:

“Có một vật hỗn độn, sinh trƣớc Trời Đất, n lặng trống khơng,
đứng một mình mà khơng thay đổi, đi khắp nơi mà khơng ngừng
nghỉ. Có thể làm mẹ thiên hạ. Ta không biết tên, nên đặt tên nó là
Đạo, gƣợng gọi tên nó là lớn”.[1,2, tr.56].Hữu vật hổn thành, tiên
thiên địa sinh. Tịch hề liêu hề. Độc lập nhi bất cải. Chu hành nhi bất
đãi. Khả dĩ vi thiên hạ mẫu. Ngô bất tri kỳ danh, tự chi viết Đạo
cƣỡng vi chi danh viết Đại).
Lão Tử cho rằng Đạo là Chân lý tuyệt đối, là nguồn gốc của vũ
trụ và vạn vật, nên nghĩa lý chữ Đạo rất cao siêu, khó mà giải rõ đƣợc.
Vì thế, trong Chƣơng thứ nhất bàn về Đạo, Lão Tử đã nói rõ là: “Đạo
khả đạo, phi thƣờng đạo, Danh khả danh phi thƣờng danh” [3, tr.37].
Theo ơng, bản tính của Đạo là hƣ không lặng lẽ, xem chẳng thấy, lắng
chẳng nghe, rờ không đụng, không lớn, không nhỏ, không trƣớc,
khơng sau, khơng thể dùng lời nói mà diễn tả đƣợc, hoặc đem ra mà so
sánh với bất cứ sự vật nào cụ thể đƣợc. Đạo là tinh thần là bản nguyên
của trời đất, vạn vật. Nên trời đất, vạn vật là bản thể của Đạo, vì thế
Đạo lƣu hành trong vũ trụ, tàng ẩn trong muôn vật, cho nên vật nào
21


cũng có phần linh diệu của Đạo bên trong để điều hịa, trƣởng dƣỡng
cho nó. Đạo khơng có hình trạng, rất khó diễn tả, nên con ngƣời chỉ
lấy tâm để cảm nhận và hình dung Đạo mà thơi.
Theo nghĩa này thì Đạo là một thực tại siêu việt, vƣợt trên hết
mọi thực tại, nhƣng cũng là thực tại thâu tóm, bao quát toàn thể vũ trụ
này; là thực tại vƣợt trên thế giới hình tƣợng, thuộc thế giới tuyệt đối,
vƣợt mọi khả năng của lý trí con ngƣời. Thực tại đó con ngƣời chỉ có
thể trực giác, chiêm nghiệm mà không hề tƣ duy hay khảo cứu đƣợc,
lại càng không thể dùng đến danh từ hay ngôn ngữ để diễn đạt nó ra
bên ngồi. Bởi nó vƣợt lên trên mọi loại kinh nghiệm hữu danh, hữu

hình mà con ngƣời có đƣợc.
Theo Lão Tử chƣơng 51: “Đạo sinh ra vạn vật, đức bồi
dƣỡng, nuôi lớn tới thành thục, che chở mỗi vật (…) ; vật chất
khiến cho mỗi vật thành hình ; hồn cảnh khí hậu, thủy thổ hồn
thành mỗi vật” [1, tr.65].
Đạo chỉ có cơng sinh ra vạn vật thơi ; công nuôi dƣỡng, che
chở mỗi vật cho tới lớn là về “Đức”.
Chữ Đức ở đây Lão Tử muốn dùng với nghĩa rất mới, không
phải chữ đức nhƣ Nho gia thƣờng dùng mà là đức nuôi lớn mỗi vật
,mỗi vật đều có “đức” mà đức của bất kỳ vật nào cũng là từ đạo mà ra.
Lão Tử là ngƣời đầu tiên trong lịch sử triết học luận về vũ trụ,
trong Chƣơng 25 của Đạo Đức kinh ơng bảo: “có một vật gì đó hỗn
độn mà thành trƣớc trời đất có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên
hạ” [3, tr.56]; Chƣơng 53 ơng nói rõ thêm: “vạn vật có nguồn gốc,
nguồn gốc đó là mẹ của vạn vật” [1, tr.57]. Nguồn gốc đó bản thân
Lão Tử cũng khơng định đốn đƣợc, có lẽ nó có trƣớc vạn vật? Chính
vì vậy mà ơng đi đến bác bỏ thuyết trời sinh ra vạn vật, mà có một cái
gì khác sinh ra vũ trụ, có trƣớc thƣợng đế nên ơng tạm đặt tên cho nó
là “Đạo”. “Đạo khả đạo, phi thƣờng đạo, Danh khả danh, phi thƣờng
danh; Vô danh thiên địa chi thủy, Hữu danh vạn vật chi mẫu” [3,
tr.37]. Đối với Lão Tử, Đạo là một chân lý thuần nhất “huyền bí trên
mọi huyền bí” nên khơng thể dùng bằng ý tƣởng để suy diễn, thậm chí
càng khơng dùng ngơn ngữ hữu hạn của con ngƣời mà đặt tên cho nó.
Nếu có đặt tên chẳng qua chỉ là bất đắc dĩ, vì mỗi khi đặt tên Đạo ấy
ra thì đã làm cho Đạo ấy mất đi tính chân lý thực hữu.
Tƣ tƣởng về Đạo của Lão Tử chịu sự chi phối của thế giới quan
mà ông hấp thụ con ngƣời Trung Quốc cổ đại. Theo đó, “Đạo sinh
nhất, nhất sinh nhị, nhị sanh tam, tam sinh vạn vật. Vạn vật phụ âm
22



nhi bão dƣơng, trùng khí dĩ vi hịa”. Đạo là “khơng”, “khơng” sinh ra
“có”, vậy “nhất” đó là “có” hay nói cách khác đạo là vơ cực, vơ cực
sinh thái cực (nhất). “Nhị” ở đây chính là âm và dƣơng, cịn “tam”
chính là sự giao thoa giữa âm và dƣơng. Theo đạo âm dƣơng tạo ra
thanh khí và trọng khí, thanh khí làm trời, trọng khí làm đất cịn sự
điều hòa âm - dƣơng sẽ sinh ra con ngƣời và vạn vật.
Quan điểm về vũ trụ của Lão Tử chính là cơ sở cơ sở cho nhân
sinh quan và chính trị quan của ơng. Vì vậy, ở nhiều chƣơng khi ơng
nói về nhân sinh cũng tức là nói về chính trị hay ngƣợc lại khơng thể
tách đƣợc đâu là chính trị đâu là nhân sinh, đâu là đạo của nhà cầm
quyền, đâu là đạo của dân, cả hai đều phải thuận tự nhiên đều là
những áp dụng của phần vũ trụ quan cả.
2.2.2. Học thuyết vô vi
Từ quan niệm về “Đạo”, Lão Tử chủ trƣơng chính trị “vơ vi”.
“Vơ vi” khơng phải là khơng nên làm gì cả, mà theo Lão Tử “vô vi” là
làm mà nhƣ không làm, và khơng làm những điều khơng nên làm.
Ơng cũng viết rằng nƣớc tuy mềm mại uyển chuyển nhƣng có thể
chảy đến bất cứ nơi nào, và với một khối lƣợng lớn thì có thể làm lở
cả đất đá. Nhƣ vậy vơ vi có thể ví von với cách hành xử của nƣớc.
Sống trong giai đoạn chiến tranh loạn lạc, nên Lão Tử rất ƣu tƣ về
vấn đề quốc trị. Với ông dân đói vì nhà cầm quyền lấy thuế nhiều, dân
khó trị vì ngƣời cầm quyền theo hữu vi. Vì vậy, “Trị thiên hạ thì nên vơ
vi, cịn nhƣ hữu vi thì khơng trị đƣợc thiên hạ” [3-4, tr.246]. Ngƣời lãnh
đạo quốc gia phải áp dụng sách lƣợc vô vi để trở về (phản phục) với đạo
hay cái gốc tự nhiên ban đầu thì mới có thể an bang tế thế.
“Phản phục” là quay trở về cái ban đầu. Theo Lão Tử nó là quy
luật tự nhiên của Đạo. Theo đó, “Đạo trời giống nhƣ buộc dây cung
vào cung chăng? Dây cung ở cao q thì hạ nó xuống, ở thấp q thì
đƣa nó lên; dài q thì bỏ bớt đi, ngắn quá thì thêm vào. Đạo trời bớt

chỗ dƣ, bù chỗ thiếu” [4, tr.84]
2.2.3. Quan niệm của Lão Tử về đạo đức, nhân sinh
Khi bàn về vấn đề đạo đức, nhân sinh Lão Tử đã phê phán ngũ
đức (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) và đạo hiếu trung của Khổng Tử.
Theo Lão Tử thì lồi ngƣời bẩm sinh có lịng u cha mẹ, yêu
con, yêu đồng loại, tôn trọng bề trên v.v… cũng nhƣ lồi chim, lồi nai
chẳng hạn, khơng lồi nào khơng ni nấng, che chở cho con khi con
cịn nhỏ, khơng quyến luyến với mẹ, khơng hợp đồn, khơng theo con
đầu đoàn; đạo và đức khiến nhƣ vậy. Những tình cảm đó hồn nhiên,
23


trong sạch, khơng suy tính. Nhƣng khi lồi ngƣời để mất tình cảm hồn
nhiên đó rồi, mới đặt ra nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, hiếu trung; bảo phải
hành động ra sao mới là nhân, nghĩa, hiếu, trung, là cố ý rồi, nhắm một
mục đích rồi, khơng thành thực nữa; nếu lại bắt buộc ngƣời ta làm nhƣ
mình, thì đâu cịn là đạo đức nữa, mà là sa đoạ, dùng trí xảo, trọng sự
loè loẹt, đầu mối của hỗn loạn rồi. Ông khẳng định: “Đạo lớn bị bỏ rồi
mới có nhân nghĩa; trí xảo xuất hiện rồi mới có trá ngụy; gia đình bất
hịa rồi mới sinh ra hiếu, từ; nƣớc nhà rối loạn mới có tơi trung”. Vì
vậy, nên “dứt thánh, bỏ trí, dân lợi gấp trăm; dứt nhân bỏ nghĩa, dân lại
hiếu từ; dứt [trí] xảo, bỏ lợi, khơng có trộm giặc” và “bất thƣợng hiền,
sử dân bất tranh” [2, tr.93], mà nên giữ sự chất phác.
Trong quan niệm về thiên – ác, tốt – xấu Lão Tử cũng có
những quan điểm mang tính biện chứng. Theo ơng, “Ai cũng cho cái
đẹp là đẹp, do đó mà phát sinh ra quan niệm về cái xấu; ai cũng cho
điều thiện là thiện, do đó mà phát sinh ra quan niệm về cái ác”[3,
tr.96]. Nhƣ vậy, trong vũ trụ khơng có gì vốn tốt – xấu, thiện – ác; đạo
khơng phân biệt thiện ác, tốt xấu…
3. Triết lý nhân sinh trong Đạo Đức kinh đối với xã hội hiện nay

Việt Nam là một quốc gia chịu ảnh hƣởng rất lâu đời và sâu sắc
của nền văn hóa Trung Hoa cổ đại. Đặc biệt là triết lý nhân sinh Đạo
giáo đã đƣợc những nhà lãnh đạo, quản lý sử dụng nhƣ là tƣ tƣởng
chủ đạo trong kiến trúc thƣợng tầng trong suốt thời kỳ phong kiến và
cho đên hơm nay, nó vẫn còn tồn tại hiện hữu và tiêp tục tác động đến
mọi mặt của đời sống xã hội. Ngày nay, những triết lý nhân sinh của
Lão gia không chỉ thấy đƣợc sự vĩ đại của mà còn coi trọng giáo dục
đạo lý làm ngƣời, ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, lòng yêu
nƣớc, yêu chủ nghĩa xã hội, đạo đức, lối sống, nếp sống có văn hóa,
lịch sử dân tộc và bản sắc dân tộc, ý chí vƣơn lên vì tuong lai của mỗi
ngƣời và tiền đồ của đất nƣớc, bồi dƣỡng nhận thức và năng lực phát
huy giá trị văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Lối sống đạo đức đang diễn ra khá phức tạp trong đời sống xã
hội hiện nay, vậy cần phải làm gì để khắc phục những hậu quả. Ở
nƣớc ta việc thu nhận Lão gia do nhu cầu của độc lập, quân chủ tập
trung chủ yếu đạo gia lúc bấy giờ có nhiều thành tích tức là Việt Nam.
Trên cơ sở chủ nghĩa yêu nƣớc nhƣng cái học của nó theo lối từ
chƣơng, khoa bảng và nó học nhiều khía cạnh. Theo Đạo gia con ngƣời
là quyết định nhất cái lớn nhất của chủ nghĩa mác, là vấn đề cứu vớt
con ngƣời bị tha hóa bởi xã hội tƣ bản. Để tu thân đề sƣớng đạo làm
24


ngƣời Đạo giáo cần phải hệ thống hóa tất cả các triết thuyết. Ở Việt
Nam, bên cạnh chủ nghĩa nhân ái truyền thống Việt Nam chủ nghĩa làm
quan trọng mà đại nghĩa là yêu nƣớc.Trong sự phát triển và hì thành
nhân cách cho thế hệ trẻ nói chung, sinh viên Việt Nam noi riêng đã
đƣợ tể hiện và khẳng định trong thật tiễn đổi mới đất nƣớc lấy việc phát
triển con ngƣời làm cơ sở phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Để bảo
vệ và phát huy truyền thống tốt đẹp của quốc gia cần phải vận dụng tinh

hoa Đạo gia, đặt biệt là đạo làm ngƣời, tu thân lấy tấm gƣơng Hồ Chí
Minh vận dụng khi ngƣời đề ra cần kiệm, liêm chính. Đƣa nền giáo dục
nƣớc nhà lên đỉnh cao mới. Mỗi việc đều xử lý theo Hiến pháp và pháp
luật có sự can thiệp của nhà nƣớc, còn nhiều vấn đề bất cập làm sao từ
nƣớc nhỏ phát triển thành nƣớc mà ngƣời ta gọi là “con rồng”. Thơng
qua đó, trong đời sống xã hội hiện nay chúng ta cần xây dựng nề nếp
ứng xử thay vào đó bằng những biểu hiện :con ngƣời phải biết u
thƣơng lẫn nhau, đồn kết là sức mạnh.
4. Kết luận
Nói tóm lại những triết lý nhân sinh trong cuốn Đạo Đức kinh
của Lão Tử đã nói rõ nguồn gốc bản chất, quy luật đời sống con ngƣời
và quy luật tự nhiên. Ơng ln tơn sung cái thuộc về “tự nhiên”, coi
quy luật tự nhiên là điều mà ai cũng phải tuân theo “vô vi” kể cả trong
đời sống xã hội hiện nay con ngƣời càng văn minh thì càng gian trá
dục vọng càng lớn, sự cạnh tranh để sinh tồn ngày càng khốc liệt.
Cũng chính vì vậy mà qua các giai đoạn đạo đức của con ngƣời ngày
càng đi xuống đánh mất phẩm chất tốt đẹp vốn có của nó. Tƣ tƣởng
đạo đức của Lão Tử với nội dung phong phú trong cuốn Đạo Đức
kinh, có thể đem lại cho ta nhiều đều bổ ích góp phần vào sự nghiệp
đổi mới và phát triển đất nƣớc ta.
Tài liệu tham khảo
[1]. Vũ Đình (1998), Đạo đức học phương đơng cổ đại, Nxb. Chính trị
Quốc Gia, Hà Nội.
[2]. Nguyễn Duy Cần (2013), Tinh hoa Đạo học phương Đông, Nxb.
Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
[3]. Nguyễn Hiến Lê (1998), Lão Tử - Đạo Đức kinh, Nxb. Văn hóa
thơng tin, Hà Nội.

25




×