Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

TIỂU LUẬN PHÁT HUY dân CHỦ THEO tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH tại BAN QUẢN lý đầu tư xây DỰNG CÔNG TRÌNH HUYỆN hóc môn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.89 KB, 41 trang )

HỌC VIỆN CÁN BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CƠ SỞ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
PHÁT HUY DÂN CHỦ THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
TẠI BAN QUẢN LÝ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠNG TRÌNH
HUYỆN HĨC MƠN
Giáo viên hướng dẫn:
Học viên:
Lớp: Trung cấp Lý luận CT - HC


2
TP. Hồ Chí Minh, ngày …. tháng 6 năm 2021

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Quý thầy, cô giảng dạy đã giúp tơi có được
những bài học bổ ích. Tôi xin đặc biệt gửi lời cám ơn đến cơ ....................,
người cơ đã tận tình hướng dẫn, góp ý giúp tơi hồn thành bài khóa luận này.
Do thời gian viết bài khóa luận khơng dài và kiến thức của bản thân cịn
hạn chế nên khơng thể tránh khỏi những thiếu sót. Tơi rất mong nhận được ý
kiến đóng góp của Q Cơ để tơi hồn thiện đề tài được lựa chọn.
Xin chân thành cảm ơn!

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày

tháng 6 năm 2021

Tác giả


............................


3

BAN QUẢN LÝ ĐẦU TƯ XÂY
DỰNG CƠNG TRÌNH
HUYỆN HĨC MƠN
***

Tp.Hồ Chí Minh, ngày

tháng 06 năm

2021

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ
(NƠI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI)
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................

THỦ TRƯỚNG ĐƠN VỊ
(Ký và ghi rõ họ tên)


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN


4

.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN CHẤM ĐIỂM


5

.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

GIẢNG VIÊN CHẤM BÀI


6
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

7

NỘI DUNG

11

CHƯƠNG I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ

11

1.1. Khái niệm dân chủ

11

1.2. Vai trò của dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh

13

1.3. Bản chất của dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh


14

1.4. Nội dung cơ bản về dân chủ trên các lĩnh vực của đời sống

16

CHƯƠNG II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG DÂN CHỦ TẠI BAN
QUẢN LÝ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠNG TRÌNH HUYỆN HĨC
MƠN

25

2.1. Khái qt về Ban quản lý Đầu tư xây dựng cơng trình huyện
Hóc Mơn

25

2.2. Thực trạng thực hiện dân chủ tại Ban quản lý Đầu tư xây dựng
cơng trình huyện Hóc Mơn

28

CHƯƠNG III. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ
ĐỀ XUẤT PHÁT HUY DÂN CHỦ TẠI BAN QUẢN LÝ ĐẦU
TƯ XÂY DỰNG CƠNG TRÌNH HUYỆN HĨC MƠN
3.1. Đặc điểm tình hình của huyện Hóc Mơn, thành phố Hồ Chí
Minh
3.2. Phương hướng và giải pháp phát huy dân chủ tại Ban quản lý
Đầu tư xây dựng cơng trình huyện Hóc Mơn
3.2.1. Phương hướng


33
30
37
37

3.2.2. Giải pháp

37

3.3. Kiến nghị
KẾT LUẬN

39

TÀI LIỆU THAM KHẢO

41

40


7
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam, anh
hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Cả cuộc đời phụng sự
Tổ quốc, phụng sự nhân dân, Hồ Chí Minh đã để lại cho tồn Đảng, tồn dân
ta một di sản tinh thần vơ giá; đó là tư tưởng của Người về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng ấy chứa đựng những chân lý bền

vững mang tính định hướng đó được thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm
nghiệm. Tư tưởng đó của Người khơng chỉ có ý nghĩa định hướng cho tồn
Đảng, tồn dân ta trong đấu tranh giải phóng dân tộc; mà cịn có giá trị mang
tính định hướng bền vững cho tồn Đảng, tồn dân ta trong cơng cuộc đổi
mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là một bộ phận quan trọng trong tư
tưởng của Người về cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó là kết quả của sự nhận
thức sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử, là kết quả của sự kết hợp
giữa tư tưởng thân dân truyền thống ở phương Đông và những quan điểm của
chủ nghĩa Mác- Lênin về dân chủ. Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại,
giữa lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng dân chủ lên một tầm
cao mới vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nhân văn sâu sắc.
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nền dân chủ mà
chúng ta đang xây dựng là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đây là nhu cầu khát
khao, nguyện vọng của cả Dân tộc Việt Nam; đồng thời nó cũng là mục tiêu,
động lực to lớn cho những thắng lợi của sự nghiệp đổi mới ở nước ta những
năm vừa qua. Ở nước ta cùng với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta đã từng bước tạo lập những cơ sở kinh tế, chính trị,
xã hội, văn hóa của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; quyền lực xã hội của nhân
dân được xác định trong Hiến pháp và pháp luật; nhu cầu dân chủ của nhân
dân ngày càng phát triển; ý thức và năng lực thực hành dân chủ của nhân dân
ngày càng được nâng cao... Bên cạnh những mặt mạnh trên, trong đời sống


8
dân chủ xã hội còn tồn tại một số hạn chế như: Cịn biểu hiện dân chủ hình
thức trên một số lĩnh vực, hiện tượng vi phạm dân chủ, vi phạm cơng bằng xã
hội, quan liêu, chun quyền, độc đốn... chậm được khắc phục. Những hiện
tượng trên là do ảnh hưởng của điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước còn
thấp; vai trò, chức năng của các thành tố trong hệ thống chính trị chưa thực sự

phát huy cao; tệ quan liêu, tham nhũng chưa được ngăn chặn; trình độ văn hóa
dân chủ và năng lực thực hành dân chủ của nhân dân cịn thấp... Vì vậy,
nghiên cứu “Phát huy dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh tại Ban Quản
lý đầu tư xây dựng cơng trình huyện Hóc Mơn” là vấn đề quan trọng và
cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu của khóa luận
Từ lâu vấn đề dân chủ đã thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều nhà hoạt
động chính trị cũng như các nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực khoa học xã hội và
nhân văn ở trong nước và trên thế giới.
Ở nước ta trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua, thành tựu nghiên cứu
những vấn đề lý luận về dân chủ và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
chủ được thể hiện ở những cơng trình của nhiều tác giả và các tập thể tác giả.
Ví dụ:
Những lực cản đối với q trình dân chủ hóa ở Việt Nam - Báo Nhân
Dân, số ra ngày 22/4/2011 của Hồng Chí Bảo.
Dân chủ trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản số 7/2013
của Hồng Chí Bảo.
Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nxb Sự thật, Hà Nội,
2009 của Thái Ninh - Hồng Chí Bảo.
Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ: quan điểm, lý luận
và phương pháp nghiên cứu, Tạp chí Cộng sản số 9/2015 của Hồng Chí Bảo.
Để thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Cộng sản số 2/2015
của Trần Quang Nhiếp.


9
Dân chủ ở cơ sở là điểm mấu chốt để thực hiện quyền dân chủ. Tạp
chí Quản lý nhà nước, số 1/2018 của Lê Minh Châu.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới: Sự hình thành và phát
triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016 của Hồng Văn Hảo.

Dân chủ - Di sản văn hóa Hồ Chí Minh, Sự thật, Hà Nội, 2019 của
Nguyễn Khắc Mai.
Về dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí Lịch sử Đảng, số
6/2019 của Hồng Trang.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân, Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2018 của Nguyễn Đình Lộc…
Ngồi ra, cịn có rất nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa
học, các luận án phó tiến sĩ, thạc sĩ về tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh và vấn
đề dân chủ ở nước ta. Các cơng trình nghiên cứu đó từ những hướng tiếp cận
và phạm vi nghiên cứu khác nhau đã cố gắng làm rõ bản chất, nội dung, tính
chất và cơ chế thực hiện dân chủ. Tuy nhiên, vận dụng tư tưởng dân chủ của
Hồ Chí Minh vào việc xây dựng và thực hiện dân chủ ở Ban Quản lý đầu tư
xây dựng cơng trình huyện Hóc Mơn vẫn đang cịn là vấn đề mới mẻ, dường
như chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống. Khóa luận này
là một cố gắng bước đầu của tác giả góp phần nghiên cứu bổ sung vào chỗ
cịn thiếu hụt đó.
3. Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận
Mục đích nghiên cứu:
Khóa luận trình bày những nội dung chủ yếu về tư tưởng dân chủ của
Hồ Chí Minh, đồng thời vận dụng vào việc xây dựng và thực hiện dân chủ ở
Ban Quản lý đầu tư xây dựng cơng trình huyện Hóc Mơn hiện nay.
Nhiệm vụ:
Để đạt mục đích trên, khóa luận sẽ giải quyết những nhiệm vụ sau đây:
- Hệ thống hóa nội dung tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh.


10
- Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ vào việc xây
dựng và thực hiện dân chủ ở Ban Quản lý đầu tư xây dựng công trình huyện
Hóc Mơn hiện nay.

- Đưa ra phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm vận dụng tư
tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh vào việc xây dựng và thực hiện dân chủ ở
Ban Quản lý đầu tư xây dựng cơng trình huyện Hóc Mơn hiện nay.
4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ.
Phạm vi nghiên cứu: Ban Quản lý đầu tư xây dựng cơng trình huyện
Hóc Mơn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của khóa luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết học Mác - Lênin, các quan điểm tư
tưởng của Hồ Chí Minh và của Đảng ta về dân chủ và xây dựng thể chế dân
chủ. Ngồi ra, tác giả luận văn cịn vận dụng phương pháp lơgic và phương
pháp lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, tổng kết thực tiễn để nghiên
cứu và trình bày kết quả nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của đề tài đối với Ban Quản ý Đầu tư Xây dựng Cơng
Trình huyện Hóc Mơn
Góp phần hệ thống hóa và làm rõ những nội dung lý luận về dân chủ
trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Vận dụng tư tưởng đó vào việc xây dựng và
thực hiện quy chế dân chủ ở Ban Quản ý Đầu tư Xây dựng Cơng Trình huyện
Hóc Mơn trong thời gian tới.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận danh mục các tài liệu tham khảo, khóa
luận được kết cấu thành 3 chương và 8 tiết.


11
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ
1.1. Khái niệm dân chủ
Dân chủ với tính cách là một phạm trù khoa học, một khái niệm chính

trị được nảy sinh và hình thành trong quan hệ với áp bức, chuyên chế, với
những hiện tượng độc tài, độc đoán, chuyên quyền. Là khái niệm mang tính
lịch sử, nên dân chủ không xuất hiện tức khắc và cũng không tồn tại bất biến.
Nó được phát triển trong tiến trình lịch sử nhân loại và trong quá trình đấu
tranh giai cấp, đấu tranh giữa các mặt đối lập: giữa tư tưởng tự do và nô lệ,
giữa dân chủ và chuyên chế, độc tài.
Xét về mặt lịch sử, thuật ngữ “dân chủ” xuất hiện rất sớm, từ thực tiễn
“dân chủ nguyên thủy” - khi chưa có chế độ tư hữu và chưa xuất hiện giai
cấp. Dân chủ theo nguyên nghĩa từ tiếng Hy Lạp cổ là do hai từ hợp thành:
demos - nhân dân và kratos - để phản ánh thực tế đã có là quyền lực thuộc
về nhân dân. Sau đó, khi chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời, trong cuộc đấu tranh
của phái “chủ nô dân chủ” chống phái “chủ nô quý tộc” trong chế độ chiếm
hữu nô lệ, chế độ xã hội đầu tiên có sự phân chia thành giai cấp, về thực
chất, quyền lực của nhân dân đã bị giai cấp chủ nô “tiếm quyền” (theo cách
viết của Ph.Ăngghen).
Cũng như các khái niệm khoa học khác, khái niệm dân chủ cũng ngày
càng bổ sung và phát triển theo cả bề rộng lẫn chiều sâu. Khái niệm “dân chủ”
hiện nay được hiểu rất rộng và theo nhiều chiều cạnh phong phú, đa dạng: dân
chủ với tư cách là một giá trị xã hội (tự do, bình đẳng, quan hệ giữa người với
người trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội như: gia đình, bạn bè, thầy
trị...); dân chủ với tư cách là một hình thức nhà nước. Như vậy, dân chủ hiểu
theo nghĩa hiện đại có hàm nghĩa rất rộng. Dân chủ, không chỉ là phạm trù
chính trị, mà cịn là phạm trù xã hội, khơng chỉ là phạm trù lịch sử, mà còn
phạm trù vĩnh viễn.


12
Dân chủ là hiện tượng lịch sử xã hội phức tạp gắn liền với sự tồn tại và
phát triển của đời sống con người. Từ hàng ngàn năm trước Công nguyên, con
người đã biết hợp lực để sản xuất, chống thiên tai, thú dữ và đã tổ chức ra

những hoạt động chung mang tính xã hội, trong đó có việc cử ra những người
đứng đầu để thực thi những quy định, điều hành hoạt động chung. Đồng thời,
cộng đồng sẽ phế bỏ những người đó, nếu họ khơng thực hiện những quy định
chung theo lợi ích và ý nguyện của mọi người. Đây là một trong những quyền
vốn có đương nhiên của mọi thành viên trong cộng đồng. Quyền lực ấy là
ngang nhau đối với mọi thành viên trong thị tộc, bộ lạc.
Những nội dung cốt lõi của khái niệm dân chủ được hình thành từ thời
cổ đại Hy Lạp về cơ bản vẫn được các nhà lý luận ngày nay kế thừa và phát
triển. Điều khác biệt cơ bản giữa cách hiểu về dân chủ thời cổ đại và hiện
nay là ở nội hàm của khái niệm nhân dân và tính trực tiếp của mối quan hệ
sở hữu quyền lực công cộng. Ngày nay, mặc dù hầu hết các nhà lý luận, các
nhà chính trị khi bàn đến vấn đề dân chủ thường lấy thuật ngữ “Demokratos”
làm điểm tựa xuất phát, nhưng cuộc tranh luận về dân chủ vẫn diễn ra hết
sức gay gắt, những lập luận, lý giải về dân chủ rất đa dạng, phong phú và kết
quả là vẫn chưa đưa ra được một định nghĩa thống nhất. Sở dĩ có tình trạng
như vậy là vì:
Một là, ở góc độ nghiên cứu, vấn đề dân chủ có thể được xem xét dưới
góc độ của nhiều ngành khoa học khác nhau. Mỗi ngành khoa học cụ thể có
một hệ phương pháp tiếp cận khác nhau, một hệ thống các phạm trù, khái
niệm biểu đạt đặc thù và có mục tiêu nghiên cứu riêng. Do đó, người ta đã
đưa ra những quan niệm khác nhau về dân chủ.
Hai là, ở góc độ thực tiễn của các chế độ chính trị, mặc dù các nước
đều tự cho mình là dân chủ, song do có sự khác nhau về thể chế chính trị,
trình độ phát triển, truyền thống văn hố nên cũng dẫn đến việc mỗi nước có
cách hiểu và lý giải khác nhau về dân chủ.


13
Ba là, ở góc độ thuật ngữ, phạm trù dân chủ là một cơ cấu nhiều tầng
bản chất được hiểu với nhiều nghĩa. Do đó, với những nguyên tắc và

phương pháp tiếp cận khác nhau, người ta cũng sẽ đưa ra quan điểm khác
nhau về dân chủ.
1.2. Vai trò của dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Đối với Hồ Chí Minh, Người ln xác định, dân chủ là động lực của
tiến bộ xã hội, của phát triển. Vai trò của dân chủ gắn liền với vai trò của quần
chúng nhân dân. Hồ Chí Minh - nhà lý luận và thực hành dân chủ tiêu biểu, là
Người đã nhìn thấy rõ sức mạnh của dân “Trong bầu trời khơng gì q bằng
nhân dân. Trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của nhân
dân”. Vì vậy, Người đã huy động sức mạnh của toàn dân trong cuộc đấu tranh tự
giải phóng mình, góp phần to lớn đưa dân tộc Việt Nam từ địa vị nô lệ làm thuê
lên địa vị làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, vấn đề xây dựng kiến thiết chế độ mới cách làm tốt
nhất là dựa vào dân, đem tài dân, sức dân, làm lợi cho dân; đây thực chất là
con đường thực hiện dân chủ. Thực tế đó chứng minh lời căn dặn của Người :
“Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân,
cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động
viên và tổ chức toàn dân ra thi hành”. Dựa vào dân, làm theo lợi ích của dân
đó là ngun tắc bất di bất dịch trong chủ trương, đường lối cũng như trong
chỉ đạo thực hiện. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Dân chúng biết giải quyết nhiều
vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi,
những đồn thể to lớn nghĩ mãi khơng ra” [2, tr.190].
Trọng dân, tin dân, học dân, tổ chức và giáo dục để phát huy sức mạnh
vô bờ của dân là điều nhất quán trong toàn bộ sự nghiệp hoạt động, là điều
sáng rõ trong tư duy của Hồ Chí Minh. Người khẳng định: Tin vào dân chúng,
đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết. Theo Chủ
tịch Hồ Chí Minh, trước khi làm bất cứ việc gì, Đảng và chính quyền cũng
phải bàn bạc với nhân dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của họ, cùng với họ đặt


14

kế hoạch cho phù hợp với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức họ
thi hành. Trong lúc thi hành lại phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích
nhân dân; thi hành xong phải cùng với họ kiểm thảo lại cơng việc, rút kinh
nghiệm, phê bình, khen thưởng.
Hồ Chí Minh ln ý thức sâu sắc rằng, dân chủ khơng chỉ là “dân là
chủ” mà cịn là “dân làm chủ”. Dân có thực sự làm chủ thì mới tiếp tục bắt tay
vào xây dựng một nước Việt Nam dân chủ mới, thực hiện dân chủ mới, xây
dựng điều kiện để tiến đến chủ nghĩa xã hội. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh thấy rõ
dân chủ là động lực, là sức mạnh để xây dựng một xã hội ấm no, hạnh phúc,
tự do và bình đẳng. Chính vì vậy, Người ln nhắc nhở những người lãnh đạo
rằng: Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng
của nhân dân, đưa cách mạng tiến lên. Bằng cách đó, chủ nghĩa xã hội hiện
thực ở Việt Nam mới có thể tồn tại và phát triển.
1.3. Bản chất của dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trước hết là phạm trù chính trị và
được xác định bởi khoa học chính trị. Người đề cập đến dân chủ chủ yếu
trong hoạt động chính trị. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh còn bàn đến dân chủ trong
kinh tế, xã hội - quản lý xã hội, văn hố, khoa học…Hồ Chí Minh luận bàn
dân chủ là để thực hiện dân chủ trong thực tiễn. Vì vậy, lơgíc trong tư duy Hồ
Chí Minh về dân chủ chính là: Dân - Dân chủ - Dân vận. Dân là giá trị lớn
nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Người nói: Trong bầu trời khơng gì quý
bằng nhân dân. Dân chủ là của quý của nhân dân, dân chủ là nhân tố động lực
của sự phát triển. Dân vận chính là thực hành dân chủ trong cuộc sống. Thực
hành dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. Tư duy lơgíc
của Người về vấn đề dân chủ đã được thể hiện sâu sắc trong những nội dung
chủ yếu về dân chủ.
Kế thừa và tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc và những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
dân chủ, Hồ Chí Minh khẳng định bản chất của dân chủ tức là dân là chủ và



15
dân làm chủ. Từ đó người chỉ rõ địa vị của nhân dân là người chủ đối với xã
hội và nhân dân là chủ thể của quyền lực xã hội. Đây là nội dung cốt lõi trong
tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, phản ánh giá trị cao nhất, chung nhất của
dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, Người nói “Nước ta là nước dân chủ,
địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”… “chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là
dân làm chủ” [4, tr.219]. Vấn đề này đã khẳng định gi¸ trị xã hội đích thực của
dân chủ là ở chỗ giành về cho đại đa số nhân dân những quyền lực của chính
họ thơng qua đấu tranh cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới của chính
bản thân quần chúng nhân dân. Đó là quyền dân chủ, quyền tự do, cơng bằng,
bình đẳng thực sự của quần chúng nhân dân. Chính vì vậy trong suốt cuộc đời
hoạt động chính trị của mình từ khi ra đi tìm đường cứu nước đến khi phải từ
giã cõi đời, Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm cho
nước nhà được độc lập, nhân dân được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành. Người đã làm tất cả để thực hiện Độc lập - Tự
do - Hạnh phúc cho Tổ quốc, cho dân tộc và nhân dân. Người đã rút ra một
chân lý vĩnh hằng không chỉ cho dân tộc mà cịn cho cả nhân loại “khơng có
gì quý hơn độc lập tự do”.
Trong “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà ngày 2-9-1945, Người đã thể hiện ý chí và quyết tâm của cả dân tộc
trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do
và độc lập, và sự thật đã thành một nước độc lập. Toàn dân tộc Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự
do độc lập ấy” [2, tr.211]. Đó chính là tun ngơn về dân chủ gắn liền với tự
do, bình đẳng và cơng bằng xã hội. Nó thể hiện khát vọng chính đáng về quyền
dân chủ và làm chủ của nhân dân Việt Nam, khẳng định thành quả vĩ đại trong
cuộc đấu tranh vì dân chủ mà nhân dân Việt Nam đã giành được.
Bản chất của dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh cịn được thể hiện ở
vấn đề thực hiện quyền lực của nhân dân thơng qua chế độ dân cử. Do đó, dân

chủ phải trở thành một hình thức tổ chức nhà nước, thơng qua tổ chức và quản


16
lý của nhà nước mà nhân dân thực hiện quyền lực của mình đối với xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ là một chế độ chính trị xã hội, dân chủ tất yếu tồn tại gắn với một nhà nước, một chế độ chính trị - xã
hội nhất định. Vì vậy, dân chủ ln mang tính giai cấp. Dân chủ đạt được đến
đâu phụ thuộc vào bản chất của nhà nước và bản chất của giai cấp thống trị.
Nhà nước chính là cơ quan quyền lực được nhân dân ủy quyền để tổ chức
quản lý xã hội và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đặc
biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng chế độ dân chủ, thể chế chính trị và
thể chế nhà nước dân chủ. Triết lý cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi tổ
chức xây dựng một chế độ chính trị cách mạng đầu tiên ở nước ta được tóm tắt
trong hai từ dân chủ. Có thể nói, “Tun ngơn Độc lập” khai sinh ra nước Việt
Nam dân chủ cộng hịa, đây là Tun ngơn về quyền lực chính trị và bản chất
của chế độ chính trị dân chủ của nước ta. Đó là tư tưởng hết sức quan trọng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đã khẳng định bản chất nền dân chủ xã hội chủ
nghĩalà đỉnh cao của nền dân chủ.
1.4. Nội dung cơ bản về dân chủ trên các lĩnh vực của đời sống
1.4.1. Dân chủ về chính trị
Nổi bật trong thực hành dân chủ Hồ Chí Minh được thể hiện ở lĩnh vực
chính trị. Tư tưởng dân chủ trong lĩnh vực chính trị được Hồ Chí Minh luận
giải rõ ràng, thiết thực và sâu sắc. Dân chủ trong lĩnh vực chính trị đó là sự
thừa nhận quyền lực của đa số nhân dân lao động trong việc xây dựng, bảo vệ
và sử dụng quyền lực nhà nước. Đây còn là ý chí tự chủ, tự do của người dân
được thể hiện và thực hiện thơng qua tổ chức nhà nước. Nói cách khác, nhà
nước là một tổ chức của dân, do dân tổ chức ra để điều chỉnh mối quan hệ
giữa cá nhân và cộng đồng, để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người dân và
của cộng đồng. Quan điểm Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực chính trị

thể hiện ở chỗ, Người khẳng định quyền lực của nhân dân được ghi trong
Hiến pháp và pháp luật; quyền lực đó cịn được đảm bảo trong việc tổ chức ra


17
nhà nước dân chủ mới của dân, do dân, vì dân. Ngay từ những năm 20 của thế
kỷ XX, Hồ Chí Minh đã phê phán một cách quyết liệt và vạch trần bản chất
xấu xa của bộ máy nhà nước thực dân. Qua đó, Người chuẩn bị những cơ sở
lý luận và thực tiễn để hình thành tư tưởng về một nhà nước kiểu mới, thật sự
dân chủ.
Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”, một tác phẩm lý luận đặc sắc để
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam từ khi Đảng chưa ra đời, Người
viết: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là
làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong
tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới
được hạnh phúc”. Theo quan điểm đó, sau khi lật đổ chế độ thực dân phong
kiến, Hồ Chí Minh xây dựng nên nhà nước của dân, do dân, vì dân. Quan
điểm quyền lực chính trị thuộc về nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân là
cốt lõi và xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước. Hồ Chí Minh
xác định: “Nhân dân là ơng chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu
thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ”. Đây là quan điểm
nhất quán trong tư duy dân chủ Hồ Chí Minh. Bao giờ Người cũng khẳng
định địa vị cao nhất của dân trong chế độ dân chủ. Người thường sử dụng
khái niệm “ủy thác” để nói đến việc nhân dân trao một phần quyền lực của
mình cho nhà nước. Quyền lực của nhà nước từ Trung ương đến địa phương,
từ Chủ tịch nước đến cán bộ xã đều do nhân dân “ủy thác” cho. Quyền lực đó
của nhân dân phải được đảm bảo và bảo vệ bằng Hiến pháp và pháp luật. Hồ
Chí Minh quan niệm: Hiến pháp bảo đảm được quyền tự do dân chủ cho các
tầng lớp nhân dân, trên cơ sở công - nông liên minh và do giai cấp cơng nhân
lãnh đạo. Nó phải thật sự bảo đảm nam nữ bình quyền và dân tộc bình đẳng.

Điều 1, Hiến pháp 1946 đã xác định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ
cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của tồn thể nhân dân Việt Nam,
khơng phân biệt nịi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tơn giáo”. Cịn Điều
4 của Hiến pháp 1959 ghi rõ: “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ


18
cộng hòa đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thơng
qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách
nhiệm trước nhân dân”. Quyền làm chủ của nhân dân cịn thể hiện ở chỗ,
nhân dân có quyền kiểm sốt nhà nước. Đó là quyền kiểm sốt, giám sát và
bãi miễn đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp khi những
người được bầu không hồn thành nhiệm vụ do nhân dân giao phó, khơng
xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Người cho rằng: “Nhân dân có
quyền đơn đốc và phê bình Chính phủ”. “Từ Chủ tịch nước đến giao thông
viên cũng vậy, nếu khơng làm được việc cho dân, thì dân khơng cần đến nữa”.
Thậm chí “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, sức mạnh của nhà nước bắt nguồn từ sức mạnh
của nhân dân. Do đó, nhà nước phải dựa vào dân, phát huy vai trò và mọi khả
năng sáng tạo của nhân dân.
Với quan điểm đó, Hồ Chí Minh đã làm thay đổi tận gốc quan hệ giữa
quyền lực và thực hiện quyền lực, trong đó nhân dân được đặt ở vị trí cao
nhất và nhà nước khơng cịn là công cụ thống trị, nô dịch dân như trong thời
kỳ nơ lệ, phong kiến, tư sản. Chính phủ do nhân dân bầu ra, nhân dân lập nên
nhà nước dưới hình thức phổ thơng đầu phiếu. Nói đến dân chủ trong chính
trị, Hồ Chí Minh cịn đề cập đến địa vị làm chủ của người dân. Địa vị làm chủ
của người dân, tức là quan hệ của người dân với quyền lực nhà nước, được
Hồ Chí Minh làm rõ trong quan hệ với đội ngũ cán bộ nhà nước - những
người trực tiếp thi hành quyền lực nhà nước. Theo Hồ Chí Minh, trong chế độ
dân chủ, cán bộ nhà nước đương nhiên phải là “công bộc của dân”. Người

viết: “Chính phủ Cộng hịa Dân chủ là gì? Là đày tớ chung của dân, từ Chủ
tịch toàn quốc đến làng thì Chính phủ phải là đày tớ. Làm việc ngày nay
khơng phải là để thăng quan, phát tài. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có
quyền đuổi Chính phủ”. Hồ Chí Minh cịn chỉ rõ: trong bộ máy cách mạng, từ
người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch nước đều là phân công làm đầy tớ
cho dân, phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, “lo trước thiên hạ” và “vui


19
sau thiên hạ”. Làm đầy tớ của dân phải biết chăm lo cho dân, chăm lo cho
chiến sĩ, cho bộ đội. Bộ đội chưa có ăn cán bộ khơng được kêu đói, bộ đội
chưa có nghỉ cán bộ khơng được kêu mệt… Làm đầy tớ phải “khổ cán, hạnh
cán, thực cán” tức là làm việc hết sức mình, làm việc có chất lượng, làm việc
có hiệu quả, có năng suất. Trong quan niệm Hồ Chí Minh về dân chủ ta thấy,
từ cán bộ nhà nước cho đến các cơ quan của Chính phủ đều là cơng bộc của
dân, có trách nhiệm gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu
cưỡi cổ dân nhân dân. Điều này một lần nữa được Người khẳng định lại khi
đã ở đỉnh cao của quyền lực - Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước, đó là: “Suốt đời
tơi hết lịng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.
Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là
tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
1.4.2. Dân chủ về kinh tế
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, việc kiến thiết nước nhà, xây dựng chủ
nghĩa xã hội và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta “có bốn vấn
đề chú ý đến; cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn
hóa”. Để dân là chủ, dân làm chủ trên thực tế cần phải có những cơ sở, điều
kiện, mơi trường và khơng gian dân chủ tương ứng. Nói riêng về thực hiện
dân chủ xã hội chủ nghĩa trong kinh tế ở nước ta, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh,
cần phải:
Một là, tôn trọng, bảo đảm phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với

nhiều loại hình sở hữu tư liệu sản xuất khác nhau, trong đó, kinh tế quốc
doanh giữ vai trị chủ đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, trong chế độ dân
chủ mới có năm loại kinh tế khác nhau: kinh tế quốc doanh; các hợp tác xã;
kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ; tư bản tư nhân; tư bản nhà
nước. Có những hình thức sở hữu tư liệu sản xuất cơ bản như: sở hữu nhà
nước (toàn dân); sở hữu của hợp tác xã (tập thể nhân dân lao động); sở hữu
của những người lao động riêng lẻ; sở hữu của nhà tư bản. Trong đó, “kinh tế
quốc doanh lãnh đạo nền kinh tế quốc dân và nhà nước phải đảm bảo cho nó


20
phát triển ưu tiên để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội và thúc đẩy
việc cải tạo xã hội chủ nghĩa”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:”Chế độ kinh
tế xã hội của chúng ta nhằm thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, trên
cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển, cách bóc lột tư bản chủ
nghĩa được xố bỏ dần, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ngày càng
được cải thiện. Do đó, nhân dân ta có điều kiện thực sự tham gia quản lý nhà
nước”. Và như thế, nhân dân ta, “từ làm chủ tư liệu sản xuất, họ phải được làm
chủ việc quản lý kinh tế, làm chủ việc phân phối sản phẩm lao động”.
Hai là, chú trọng tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế để thốt đói nghèo
và vươn lên giàu có. Xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp
và nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến, nòng cốt là kinh tế
quốc doanh và kinh tế hợp tác. Không ngừng cải thiện đời sống nhân
dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh dân chủ xã hội chủ nghĩa là làm cho nhân
dân thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có cơng ăn, việc làm, được ấm
no và sống cuộc đời hạnh phúc. Người nhấn mạnh, cùng với thực hành tiết
kiệm, tăng gia sản xuất, là hai việc cần thiết nhất để phát triển chế độ dân
chủ nhân dân tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Phải giải phóng sức sản xuất,
phát triển sản xuất, trong đó chú ý tăng cường các hình thức hợp tác phù hợp
để mang lại no đủ, giàu có, thịnh vượng, công bằng, tiến bộ, hạnh phúc cho

đa số nhân dân lao động.
Ba là, về mặt tổ chức, quản lý kinh tế, quản lý sản xuất phải có kế
hoạch thống nhất, dân chủ và hợp lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “kế hoạch
sản xuất và tiết kiệm là kế hoạch dân chủ, nghĩa là từ trên xuống dưới, từ dưới
lên trên, nghĩa là Chính phủ trung ương có kế hoạch cho toàn quốc, địa
phương căn cứ vào kế hoạch tồn quốc mà đặt kế hoạch thích hợp với địa
phương, cho đến mỗi ngành, mỗi gia đình, mỗi người có kế hoạch riêng của
mình, ăn khớp với kế hoạch chung”. Cán bộ phải biết lao động và phải tham
gia lao động; người lao động phải biết quản lý và tham gia quản lý.


21
Bốn là, thực hiện nguyên tắc phân phối công bằng, hợp lý “làm nhiều
hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, khơng làm không hưởng, những người già yếu, tàn
tật sẽ được nhà nước giúp đỡ chăm nom”. Các quan hệ lợi ích phải được giải
quyết hài hòa, cá nhân và tập thể, nhà nước và nhân dân… phải đều có lợi.
1.4.3. Dân chủ về văn hoá - xã hội
Một vấn đề được Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đó là làm thế nào để dân
thực hiện được quyền làm chủ của mình? Theo Hồ Chí Minh, từ xưa đến nay
nhân dân bao giờ cũng là lực lượng chính trong tất cả các xã hội, trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hồ Chí Minh cho rằng, người dân chỉ thực sự
trở thành người làm chủ khi họ được giáo dục, khi họ nhận thức được rõ ràng
đâu là quyền lợi họ được hưởng, đâu là nghĩa vụ họ phải thực hiện. Để thực hiện
được điều này, một mặt bản thân người dân phải có ý chí vươn lên, mặt khác các
tổ chức đoàn thể phải giúp đỡ họ, động viên khuyến khích họ. Người nói: Một
dân tộc dốt là một dân tộc yếu và nếu nhân dân không được giáo dục để thốt
khỏi nạn dốt thì mãi mãi họ khơng thể thực hiện được vai trị làm chủ.
Theo Hồ Chí Minh, thực hiện dân chủ trong văn hóa thì vấn đề bình
đẳng văn hóa giữa các dân tộc, tôn giáo là vấn đề quan trọng, cấp thiết. Bởi
Việt Nam là đất nước đa dân tộc, đa tôn giáo nên vấn đề đó càng trở nên nhạy

cảm. Người khơng ngừng kêu gọi, tập hợp trong khối đại đoàn kết tồn dân
tất cả các dân tộc, các tơn giáo, đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam hướng tới mục tiêu chung là giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người cả về thể xác lẫn tinh thần.
Với các dân tộc ít người ở vùng cao, Hồ Chí Minh chủ trương: các dân
tộc có quyền bình đẳng; phải làm cho miền núi tiến kịp miền xuôi, đồng bào
các dân tộc thiểu số được hưởng ngày càng đầy đủ hơn những quyền lợi về
chính trị, kinh tế, văn hóa. Chính phủ sẽ gắng sức giúp các dân tộc thiểu số về
mọi mặt. Về văn hóa, chính phủ sẽ chú ý nâng cao trình độ học thức cho đồng
bào các dân tộc. Nhân dân các dân tộc được tự do bày tỏ nguyện vọng và phải
cố gắng để cùng giành cho được sự độc lập hoàn tồn, tự do và thái bình.


22
Trong Thư gửi các học sinh trường Sư phạm miền núi Trung ương nhân dịp
trường khai giảng, Người viết: “Các cháu thuộc nhiều dân tộc và ở nhiều địa
phương. Nhưng các cháu đều là con em của đại gia đình chung: là gia đình
Việt Nam, đều có một tổ quốc chung: là tổ quốc Việt Nam… Ngày nay, các
dân tộc anh em chúng ta muốn tiến bộ, muốn phát triển văn hóa của mình thì
chúng ta phải tẩy trừ những thành kiến giữa các dân tộc, phải đoàn kết,
thương yêu. Giúp đỡ như anh em một nhà”.
Trong những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về dân chủ ta cịn thấy sự công
phu tỷ mỉ của Người hướng vào việc nâng cao nhận thức, nâng cao trình độ
học vấn, trình độ dân trí, hiểu biết pháp luật, thi hành pháp luật, giữ nghiêm
kỷ cương phép nước; bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn hóa chính trị
và tính tích cực cơng dân, khuyến khích nhân dân tham gia vào các công việc
của nhà nước, khắc phục mọi thứ dân chủ hình thức. Người thường nhắc nhở
cán bộ phải lo: “Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng
quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm” [3, tr.410]. Người chỉ rõ: Lúc
dân biết và dám phê bình người lãnh đạo, lúc đó dân đã biết nắm quyền của

dân, tức là đã đến mức dân chủ hóa khá cao. Người dân chỉ có thể thực hiện
được quyền làm chủ khi có một cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của họ. Đảng
phải lãnh đạo xây dựng được một Nhà nước của dân, do dân, vì dân; với hệ
thống luật pháp lấy việc bảo vệ quyền lợi của dân làm mục tiêu hàng đầu; xây
dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên xứng đáng là người lãnh đạo, là người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
1.4.4. Điều kiện thực hành dân chủ
Thứ tư, những điều kiện để thực hành dân chủ theo Hồ Chí Minh
Trước hết cần giáo dục ý thức dân chủ cho nhân dân. Trong quá trình xây
dựng nhà nước mang bản chất giai cấp cơng nhân, có tính nhân dân và tính
dân tộc sâu sắc, Người luôn quan tâm giáo dục ý thức làm chủ và trau dồi
năng lực làm chủ, tức là năng lực thực hành dân chủ của nhân dân. Người trăn
trở phải làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân


23
chủ, dám nói, dám làm. Xây dựng ý thức làm chủ trong nhân dân lao động là
phải làm cho họ nhận thức về quyền lợi, bổn phận của mỗi người; phải làm
cho “Tất cả nhân dân ta phải hiểu sâu sắc rằng: Nước nhà là nước nhà của
nhân dân ta, nhân dân ta là người chủ nước nhà”, từ đó “phải nhận rõ địa vị
làm người chủ và nhiệm vụ người làm chủ nước nhà”. Người chủ trương phải
đưa chính trị vào giữa dân gian, làm như thế chính sách, cán bộ và nhân dân
sẽ nhất trí. Ý thức dân chủ biểu hiện rõ ràng nhất ở trách nhiệm, bổn phận đấu
tranh chống lại những phản dân chủ, xóa bỏ những tiêu cực và tệ nạn xã hội.
Quần chúng lao động thấy tiêu cực phải đấu tranh, không phải chỉ kêu la mà
hết được. Hồ Chí Minh ví như “nhà mình có rác thì phải cầm chổi mà qt
chứ khơng phải kêu la mà nhà sạch được. Kêu la mà khơng tự mình qt là
thiếu tinh thần cách mạng, tinh thần làm chủ”.
Hai là, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân
dân. Hồ Chí Minh quan niệm đời sống vật chất quyết định đời sống tinh thần,

nhưng Người cũng thấy được sự tác động trở lại của nhân tố tinh thần đối với
xã hội - lịch sử thông qua hoạt động của con người, đặc biệt là những nơi,
những lúc mà điều kiện vật chất còn thiếu thốn, chưa có khả năng phát huy
đầy đủ. Hồ Chí Minh nói: “Vật chất cố nhiên là trọng, tinh thần cũng là trọng.
Có khi địch vật chất hơn ta mà ta tinh thần hơn nó, nên ta thắng nó”. Nhiều
lần Hồ Chí Minh nói đến vai trị của động lực vật chất bằng cách nhắc lại: tục
ngữ có câu “Dân dĩ thực vi thiên”, nghĩa là dân lấy ăn làm trời, nếu khơng có
ăn là khơng có trời. Lại có câu: “Có thực mới vực được đạo”, nghĩa là khơng
có ăn thì chẳng làm được việc gì cả. Vì vậy, chính sách của Đảng và Chính
phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân,... cán bộ Đảng và
chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức quan tâm đến đời sống của
nhân dân”. Trong quan điểm Hồ Chí Minh, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân là cơ sở quan trọng nhất để xây dựng môi trường dân chủ,
tạo điều kiện để người dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Ba là, xây


24
dựng Nhà nước pháp quyền, quản lý xã hội bằng pháp luật. Hồ Chí Minh xem
việc xây dựng một nhà nước pháp quyền, quản lý xã hội bằng pháp luật là
một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng bởi đó là cơ sở pháp lý cho việc đảm bảo
quyền làm chủ của nhân dân trong thực tế. Hồ Chí Minh nhấn mạnh ba yếu
tố: Hiến pháp, luật pháp và bộ máy chính quyền. Người u cầu: phải có Hiến
pháp “thích hợp với sự phát triển của chế độ”, bảo đảm được quyền tự do dân
chủ cho các tầng lớp nhân dân; phải có luật pháp thật sự dân chủ vì nó bảo vệ
quyền tự do dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động; phải có một bộ máy
chính quyền có đủ năng lực, phẩm chất, tinh giản, nhạy bén để phục vụ Nhà
nước có hiệu quả và gắn bó, liên hệ mật thiết với dân chúng. Bốn là, đào tạo,
bồi dưỡng và giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức trong điều kiện
Đảng cầm quyền và xây dựng Nhà nước pháp quyền. Người nhấn mạnh, xây
dựng đội ngũ và chăm lo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên, công chức là một

công việc trọng yếu của Đảng. Người hiểu rất rõ rằng “cán bộ là cái gốc của
mọi công việc”, “muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc
kém”. Vì thế mà “phải ni dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những
cây cối q báu”.
Tóm lại, Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là một trong những giá trị
nổi bật trong di sản tư tưởng mà Người để lại. Những nội dung chủ yếu trong
tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ đã thể hiện sâu sắc trong tư duy của Người
về dân chủ đó là: Vì cuộc sống ấm no, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân; là
mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của cách mạng; là mục tiêu, động lực phát triển
của đất nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ không chỉ được thể hiện trong
các tác phẩm, bài viết của Người mà ý nghĩa to lớn hơn, có sức cảm hóa hơn
đó là sự thể hiện của tư tưởng đó trong hành động thực tiễn. Hồ Chí Minh là
một tấm gương mẫu mực trong thực hành dân chủ, càng ở cương vị cao bao
nhiêu Hồ Chí Minh càng thể hiện dân chủ bấy nhiêu.


25
CHƯƠNG II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG DÂN CHỦ TẠI BAN
QUẢN LÝ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠNG TRÌNH HUYỆN HĨC MƠN
2.1. Khái quát về Ban quản lý Đầu tư xây dựng cơng trình huyện
Hóc Mơn
Ban Quản lý đầu tư xây dựng cơng trình huyện Hóc Mơn được thành
lập theo Quyết định số 46/QĐ-UBND ngày 14 tháng 5 năm 2009 của Ủy ban
nhân dân huyện Hóc Mơn trên cơ sở chuyển đổi nguyên trạng từ Ban Quản lý
dự án - Đầu tư xây dựng cơng trình huyện Hóc Mơn, giúp Ủy ban nhân dân
huyện trực tiếp tổ chức quản lý thực hiện dự án do Ủy ban nhân dân huyện
làm chủ đầu tư; chịu sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Ủy ban nhân dân huyện,
đồng thời chịu sự hướng dẫn nghiệp vụ của các sở - ngành chức năng đối với
hoạt động liên quan.
* Vị trí và chức năng

Ban Quản lý đầu tư xây dựng cơng trình huyện là đơn vị sự nghiệp tự
đảm bảo chi thường xuyên theo Nghị định số 141/2016/NĐ-CP ngày 10 tháng
10 năm 2016 của Chính phủ về quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp
công lập trong lĩnh vực sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác.
Ban Quản lý đầu tư xây dựng cơng trình có tư cách pháp nhân, có con dấu
riêng và được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước và ngân hàng theo quy định.
* Nhiệm vụ và quyền hạn
a. Đại diện chủ đầu tư ký kết hợp đồng kinh tế trong xây dựng cơ bản để
thực hiện việc xây dựng các cơng trình do nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp,
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của chủ đầu tư về quản lý thực hiện dự án
kể từ giai đoạn chuẩn bị dự án, lập và trình thẩm định dự án, thực hiện dự án
đến khi nghiệm thu bàn giao đưa cơng trình vào khai thác sử dụng bảo đảm
tính hiệu quả, tính khả thi của dự án và tuân thủ các quy định của pháp luật.
b. Kiểm tra, thẩm định thiết kế, dự tốn cơng trình trước khi trình cơ
quan có thẩm quyền phê duyệt.


×