Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

tiểu luận tốt nghiệp phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.78 KB, 29 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
Chủ đề: PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN

TỘC, DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ QUYỀN LÀM CHỦ
CỦA NHÂN DÂN

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

- 2021


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN
I.
DÂN TỘC
Những căn cứ chủ yếu để Đảng ta đư ra quan điểm phát
1.1.
huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
Những thành tựu, hạn chế trong phát huy sức mạnh đại
1.2.
đoàn kết toàn dân tộc
1.3.
II.


2.1.
2.2.
2.3.

1
2
2
2
5

Nội dung phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong thời
kỳ mới
THỰC HIỆN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ

10

QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN
Nội dung thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm

15

chủ của nhân dân
Thành tựu và hạn chế trong thực hiện dân chủ xã hội chủ

15

nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân

17


Biện pháp thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm

chủ của nhân dân
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

20
25
26


MỞ ĐẦU
Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đại đoàn kết toàn dân tộc
đã trở thành di sản vô giá, truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt
Nam. Tinh thần yêu nước, trọng nhân nghĩa, khoan dung, sự cố kết, đùm bọc
yêu thương nhau đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn mỗi người dân,
trở thành lẽ sống, chất kết dính gắn bó các thành viên trong đại gia đình các dân
tộc Việt Nam cả ở trong nước và kiều bào ở nước ngoài. Bất luận trong hoàn
cảnh nào, đã kết thành sức mạnh vô địch, đưa dân tộc ta vượt lên mọi khó khăn,
thử thách, lập nên những kỳ tích vẻ vang trong đấu tranh giải phóng dân tộc,
cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, là cội nguồn sức mạnh
của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó được hun đúc, hình thành và phát triển
bởi tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ của dân tộc ta hàng nghìn năm
dựng nước và giữ nước, chiến thắng mọi thiên tai, địch họa, để xây dựng nên Tổ
quốc Việt Nam ngày càng cường thịnh. Tinh thần yêu nước ấy được Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: “Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một
truyền thống q báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì
tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó
lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ

cướp nước” [5, tr.178]. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc thực sự được nhân
lên gấp bội khi ý thức dân tộc, truyền thống yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân
được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh
đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam - một chính đảng của giai
cấp cơng nhân biết kế thừa truyền thống lịch sử quý báu của dân tộc, trung thành
với lợi ích của nhân dân, kiên trì phấn đấu hy sinh vì độc lập dân tộc, vì chủ
nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Do đó, nghiên cứu vấn đề “Phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm
chủ của nhân dân” làm đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

1


NỘI DUNG
I. PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC
1.1. Những căn cứ chủ yếu để Đảng ta đư ra quan điểm phát huy sức
mạnh đại đoàn kết dân tộc
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và trong suốt q trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng ln xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến
lược, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Có sự lãnh đạo của Đảng, sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc đã được phát huy cao độ với quyết tâm “mang sức ta giải
phóng cho ta”, “dù có hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn,
cũng kiên quyết giành cho được độc lập”, khi thời cơ đến, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, hơn 20 triệu người dân Việt Nam đã nhất tề
đứng dậy giành chính quyền làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945
thành công, đem lại nền độc lập cho dân tộc và quyền tự do cho nhân dân.
Trong kháng chiến chống Pháp, với ý chí quyết tâm sắt đá: “Chúng ta thà
hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, khơng chịu làm nơ lệ…” và
sự đồng lịng của tồn dân tộc: “Bất kỳ đàn ơng, đàn bà, bất kỳ người già, người

trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải
đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có
gươm dùng gươm, khơng có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải
ra sức chống thực dân Pháp cứu nước” [5, tr.124]. Người khẳng định: “Đồn
kết, đồn kết, đại đồn kết, Thành cơng, thành công, đại thành công” [7, tr.201].
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của
nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt
Nam hịa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm
khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần
dân tộc, truyền thống yêu nước, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài
nước, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để đấu tranh giải phóng
dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.
2


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trường kỳ, gian khổ với
khát vọng cháy bỏng của toàn thể dân tộc Việt Nam: ”Khơng có gì q hơn độc
lập, tự do”, tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh ”Đồn
kết, đồn kết, đại đồn kết. Thành công, thành công, đại thành công” đã được
vận dụng một cách sáng tạo, phát huy tới đỉnh cao với nhiều hình thức phong
phú trong điều kiện lịch sử mới. Trong khói lửa ác liệt của chiến tranh, nhiều
phong trào thi đua sôi nổi trên tất cả các lĩnh vực ở cả miền Nam và miền Bắc
với khẩu hiệu hành động: “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ, xâm lược”! “Tìm Mỹ
mà đánh, tìm nguỵ mà diệt”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc
Mỹ xâm lược”, “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, “Tay cày, tay
súng”, “Tay búa, tay súng”, “Thóc khơng thiếu một cân, quân không thiếu một
người”... đã lôi cuốn đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, từ thành thị đến nông
thôn, từ miền xuôi đến miền núi, từ biên giới đến hải đảo hăng hái thi đua vừa
chiến đấu vừa lao động sản xuất. Tất cả những hành động đó đã biểu thị tinh

thần đoàn kết của toàn thể 31 triệu người dân Việt Nam xung quanh Ban Chấp
hành Trung ương Đảng. Nhờ đó, chúng ta đã huy động cao độ sức mạnh chính
trị tinh thần và nhân tài, vật lực to lớn lần lượt đánh bại các chiến lược chiến
tranh của đế quốc Mỹ, để cuối cùng dốc sức cho thắng lợi của cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy Xuân 1975, kết thúc vẻ vang sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước vĩ
đại của dân tộc; giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Đại đoàn kết là vấn đề chiến lược cơ bản lâu dài của cách mạng Việt Nam,
là cội nguồn tạo nên sức mạnh của dân tộc. Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước
và giữ nước đã chứng minh truyền thống đồn kết “mn người như một” thì việc
gì khó, thiên tai hay địch họa, dân tộc ta, nhân dân ta cũng có thể vượt qua và
giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích vẻ vang.
Sự nhận thức mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về đại đoàn kết toàn dân
tộc trong thời kỳ đổi mới đất nước là sự kế thừa, tiếp nối dòng chảy của lịch sử
dân tộc, quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của
đồn kết trong thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Vì thế, hầu hết qua các kỳ
Đại hội, đặc biệt các kỳ Đại hội trong thời kỳ đổi mới đều nhấn mạnh đến vai trò
3


tầm quan trọng của vấn đề đoàn kết dân tộc. Đại hội VI (1986) đánh dấu bước
phát triển tư duy về đại đoàn kết dân tộc. Đại hội đã nêu lên bốn bài học kinh
nghiệm lớn, trong đó, bài học thứ nhất là: “Trong tồn bộ hoạt động của mình,
Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân lao động” [1, tr.67]. Có thể nói, Đại hội VI là mốc quan
trọng, đánh dấu sự kế thừa và phát triển chiến lược đại đoàn kết dân tộc của
Đảng trong điều kiện, hoàn cảnh mới.
Tổng kết 10 năm đổi mới, Đại hội VIII (1996) đã đúc kết sáu bài học,
trong đó bài học thứ tư là: “Mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân,
phát huy sức mạnh của cả dân tộc” [1, tr.90], Đại hội tiếp tục khẳng định: Sự
nghiệp xây dựng đất nước đòi hỏi mở rộng hơn nữa khối đại đoàn kết dân tộc,

lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm
nền tảng. Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương 7 Ban chấp hành Trung ương khoá
IX đã ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 12/3/2003, về phát huy sức
mạnh đại đồn kết tồn dân tộc vì “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”. Tại Hội nghị này, Đảng ta đã thống nhất sử dụng thuật ngữ “Đại
đoàn kết toàn dân tộc” thay cho thuật ngữ “Đại đoàn kết toàn dân” với ý nghĩa
mở rộng đại đồn kết dân tộc, đồn kết khơng chỉ trong nước mà còn cả cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Đây là một bước phát triển mới về tư duy
đại đoàn kết dân tộc của Đảng.
Đến các kỳ Đại hội tiếp theo của Đảng đã nhận thức rõ hơn về trách
nhiệm của các chủ thể trong xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
trong đó khẳng định: “Đại đồn kết tồn dân tộc là đường lối chiến lược của
cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát
huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc” [3, tr.128]. Tư duy mới của Đảng ta về đại đoàn kết dân tộc
là phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình
4


hình mới. u cầu đó địi hỏi phải phát huy cao độ mọi tiềm năng với sự thống
nhất cao cả về ý chí, nghị lực, trí tuệ của tồn dân tộc.
1.2. Những thành tựu, hạn chế trong phát huy sức mạnh đại đồn kết
tồn dân tộc
* Thành tựu
Trong q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng luôn quan tâm chăm lo
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đồn kết

nhất trí, vượt qua khó khăn thử thách giành được những thành tựu có ý nghĩa
quan trọng.
Đánh giá tổng quát về thành tựu xây dựng khối đại đồn kết tồn dân tộc
Nghị quyết Trung ương bảy khố IX chỉ rõ: “Nhìn chung, khối khối đại đồn kết
dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội
ngũ trí thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh
- tế xã hội, giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước” [2, tr.10]. Những
thành tựu đó được đánh giá trên các lĩnh vực cụ thể sau đây:
Thành tựu thứ nhất, chính sách đại đồn kết dân tộc vì dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh được tuyên truyền triển khai sâu rộng.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đảng,
Nhà nước ta đã tập trung ban hành nhiều chỉ thị Nghị quyết, chính sách về xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong báo cáo chính trị của Đại hội VIII
(1996), Đại hội nhắc lại các quan điểm, nhận thức và phương hướng, nhiệm vụ
tăng cường mở rộng khối đại đoàn kết tồn dân tộc, cụ thể hố vai trị, nhiệm vụ
Mặt trận Tổ quốc trong thời kỳ mới đã được đề ra tại Nghị quyết 8B và Nghị
quyết 07 của Bộ chính trị.
Để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho bà con Việt Nam ở nước ngồi đóng góp
xây dựng q hương đất nước, ngày 19/7/1998 Thủ tướng chính phủ ban hành một
số chính sách đối với người Việt Nam định cư ở nước ngồi, gồm 9 điều khoản
trong đó giao trách nhiệm cụ thể cho các ngành, các cấp cụ thể hố một số chính
sách khuyến khích đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
5


Ngày 18/2/1998 Bộ Chính trị ra chỉ thị về xây dựng và thực hiện Quy chế
dân chủ cơ sở: “khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm
chủ của nhân dân ở cơ sở - nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước, nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân một cách trực
tiếp và rộng rãi nhất. Do vậy, Nhà nước ban hành Quy chế dân chủ cơ sở mang

tính pháp lý để mọi người, mọi tổ chức ở cơ sở đều phải nghiêm chỉnh thực hiện.
Việc ban hành Quy chế dân chủ cơ sở có ý nghĩa to lớn, là bước đi quan
trọng, tác động tích cực đến việc mở rộng dân chủ, tăng cường quyền làm chủ
của người dân trực tiếp tại cơ sở, giải toả vướng mắc phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của hàng triệu quần chúng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Như vậy trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Đảng và Nhà nước triển khai tun truyền chính sách đại đồn kết toàn dân tộc
bằng sự chỉ đạo cụ thể ban hành nhiều chỉ thị, Nghị quyết chính sách về xây
dựng khối đại đồn kết tồn dân tộc điều đó nói lên rằng sự quan tâm hàng đầu
của Đảng và Nhà nước ta về phát huy sức mạnh xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc. Đây là cơ sở là căn cứ đầu tiên để đánh giá thành tựu đạt được của Đảng
về lãnh đạo chỉ đạo, xây dựng khối đại đồn kết tồn dân tộc trong thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Thành tựu thứ hai, Đảng lãnh đạo chỉ đạo tập hợp đông đảo nhân dân,
thông qua các phong trào hoạt động của quần chúng với các hình thức đa dạng
phong phú.
Thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Đảng đã lãnh
đạo, chỉ đạo thông qua Mặt trận Tổ quốc các cấp mở rộng các hình thức tập hợp
lực lượng, tích cực hướng dẫn cơ sở và khu dân cư triển khai các hoạt động,
phát huy dân chủ, tham gia xây dựng, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp
luật. Trên tinh thần đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã bám sát nhiệm vụ chính trị
của đất nước và từng địa phương cơ sở, lấy việc đáp ứng lợi ích thiết thân của
đoàn viên, hội viên, các thành phần xã hội và các giới để tập hợp mọi lực lượng
làm động lực thúc đẩy phong trào yêu nước trong nhân dân thực hiện có hiệu
6


quả các mục tiêu và chỉ tiêu của kế hoạch Nhà nước, tạo nền tảng vững chắc
cho việc đổi mới và phát triển kinh tế-xã hội; giữ vững quốc phòng an ninh; mở

rộng kinh tế đối ngoại và hoạt động đối ngoại nhân dân nâng cao thêm niềm tin
của nhân dân với Đảng.
Những việc làm cụ thể đó đã góp phần quan trọng vào việc giáo dục phát
huy truyền thống đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau của dân tộc ta, góp
phần quan trọng vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế văn hố,
góp phần đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Vấn đề đa dạng, mở rộng các hình thức tập hợp lực lượng đã lơi kéo
thành lập các hội quần chúng có quy mơ phát triển. Các tổ chức đồn thể thành
viên đã có chuyển biến tích cực trong việc thực hiện đa dạng hố các hình thức
tập hợp quần chúng. Có thể nói thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo tập hợp đông đảo lực lượng quần chúng tạo
thành sức mạnh to lớn góp phần vào phát triển kinh tế xã hội và xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc.
Thành tựu thứ ba, khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng được mở rộng, sự
đồng thuận xã hội ngày càng tăng, sinh hoạt dân chủ xã hội được phát huy.
Đại bộ phận nhân dân ủng hộ và năng động, sáng tạo thực hiện đường lối
đổi mới do Đảng lãnh đạo. Nền tảng khối đại đồn kết dân tộc (liên minh cơng 7


nơng - trí thức) tiếp tục được củng cố dân chủ được phát huy, các cơ chế dân chủ
đại diện và cơ chế dân chủ trực tiếp có bước phát triển và được thực hiện tốt
hơn, nhất là dân chủ về kinh tế, do đó bước đầu đã hình thành khơng khí dân
chủ, cởi mở trong xã hội. Có thể nói việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở đã
được nhân dân đồng tình ủng hộ hưởng ứng, trở thành một cuộc sinh hoạt chính
trị rộng lớn, tác động tích cực đến nhiều mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã
hội. Đã nâng cao ý thức của cấp uỷ Đảng, chính quyền Mặt trận, đồn thể, của
cán bộ đảng viên và nhân dân về phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở;
làm chuyển biến một bước phương thức lãnh đạo của cấp uỷ Đảng phương thức
điều hành, lề lối làm việc của các cấp chính quyền, đã tác động tích cực đến việc
xây dựng Đảng, chính quyền Mặt trận các đồn thể ở các cấp các ngành, đặc biệt

là hệ thống chính trị cơ sở thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra”.
Nhiều phong trào thi đua yêu nước được tổ chức rộng rãi trong các tầng
lớp nhân dân và được sự hưởng ứng một cách rộng rãi trở thành hành động cách
mạng rộng lớn trong toàn xã hội, tăng cường phối hợp mở rộng, nâng cao chất
lượng các cuộc vận động các phong trào như “tuổi trẻ giữ nước”, “thanh niên lập
nghiệp” của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; phong trào “thi đua sản xuất kinh doanh - dịch vụ giỏi” trong công nhân lao động; phong trào “đoàn kết
hợp sức, tương trợ, cần kiệm xây dựng nông thôn mới” của Hội nông dân Việt
Nam; phong trào “phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình”, “ni con khỏe dạy
con ngoan”. Xây dựng quỹ vì người nghèo” của hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam;
phong trào “giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ”, “phát triển kinh tế gia đình,
làm giàu chính đáng” của Hội cựu chiến binh; phong trào “ngành ngành làm
việc thiện, nhà nhà làm việc thiện” của Hội chữ thập đỏ. Các phong trào trên đã
huy động mọi tiềm năng vào xây dựng và phát triển kinh tế xã hội góp phần ổn
định kinh tế - xã hội của đất nước.
Đường lối đổi mới xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc đã tác động sâu sắc
đến các tầng lớp nhân dân, tác động đến cả những người trước đây chống lại
cách mạng nay đã tỉnh ngộ, họ đang nhận xét về đường lối đại đoàn kết hoà hợp
8


dân tộc của Đảng ta. Để thấy rõ được đường lối đúng đắn của Đảng ta về xây
dựng khối đại đồn kết dân tộc xin trích lời đánh giá của một số người trước đây
là người của phía chính quyền cũ họ nhận xét về đường lối đại đoàn kết của
Đảng ta.
* Hạn chế
Một là, Khối đại đoàn kết dân tộc, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân chưa thật bền chặt và đang đứng trước thách thức mới.
Lòng tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ của một bộ phận nhân dân chưa
vững chắc. Nguyên nhân có phần vì đời sống nhân dân cịn nhiều khó khăn, tăng

trưởng kinh tế chưa đi đôi với mức cải thiện đời sống, chênh lệch giàu nghèo
ngày càng rõ: “Tốc độ giảm nghèo có xu hướng chậm lại, tình trạng tái nghèo
còn nhiều, khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, thành
thị và nông thôn, miền xuôi và miên núi đang có xu hướng ngày càng dỗng ra”
[2, tr.116].
Tâm trạng của nhân dân có nhiều diễn biến phức tạp, lo lắng về việc làm,
đời sống bất bình trước bất công xã hội, một số mặt đạo đức xã hội xuống cấp,
tội phạm, tai nạn và tệ nạn xã hội gia tăng, kỷ cương phép nước bị buông lỏng,
việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách nhiều lúc khơng nghiêm lời nói
chưa đi đơi với việc làm.
Một bộ phận tầng lớp nhân dân còn nhiều băn khoăn, trăn trở về tình hình
đất nước và đặt ra nhiều vấn đề rất đáng quan tâm, trong đó nổi lên sự bất bình
của nhân dân trước tệ nạn tham nhũng, quan liêu, mất dân chủ, tình trạng hám
danh hám lợi, chạy chức, chạy bằng, chạy quyền chạy tội trong một bộ phận cán
bộ, viên chức vẫn chưa được ngăn chặn đẩy lùi. Nhân dân còn lo lắng trước
những nhân tố tác động bất lợi đến việc củng cố khối đại đồn kết dân tộc.
Hai là, chưa có chính sách hữu hiệu và chưa tạo cơ sở kinh tế cần thiết
bảo đảm phát huy đầy đủ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc động lực chủ yếu để
phát triển đất nước.
Nhiều chủ trương của Đảng về đại đoàn kết dân tộc, dân vận, dân tộc tơn giáo
chưa được thể chế hố đồng bộ thành cơ chế chính sách, pháp luật và cách tổ chức
9


thực hiện. Chưa tạo được sự bình đẳng thật sự giữa các thành phần kinh tế, thiếu
chính sách khuyến khích động viên và phát huy sáng tạo cống hiến và khuyến
khích mạnh người Việt Nam ở nước ngồi tham gia xây dựng q hương đất nước.
Ở khơng ít nơi việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở cịn hình thức, quyền làm chủ
nhân dân còn bị vi phạm, trên nhiều lĩnh vực, tệ quan liêu mệnh lệnh cửa quyền,
sách nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân vẫn đang phổ biến và chưa được đẩy lùi

ngăn chặn. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chưa được cụ
thể hoá và thể chế hoá thành pháp luật chậm đi vào cuộc sống.
Ba là, công tác dân vận chậm được đổi mới, phương thức hoạt của các
đoàn thể nhân dân chưa đáp ứng yêu cầu mới.
Nhận thức về công tác dân vận trong tình hình mới cịn đơn giản chậm
được đổi mới, thiếu nghiên cứu dự báo và phát hiện, những vấn đề phức tạp nảy
sinh trong nội bộ nhân dân; nhiều việc bức xúc giải quyết lúng túng, để tồn
đọng kéo dài. Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng của Đảng, các tổ chức
quần chúng với các cấp chính quyền, nhất là ở địa phương, cơ sở trong việc xây
dựng, tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thực hiện chủ trương, chính sách, các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội còn thiếu chặt chẽ, chưa thường xuyên,
đồng bộ. Có thể nói đây là hạn chế cơ bản dẫn đến tình trạng khiếu kiện kéo dài.
Một số cán bộ công chức Nhà nước chưa nhận thức đầy đủ về trách nhiệm của
mình trong cơng tác dân vận còn gây phiền hà, sách nhiễu nhân dân trong khi
giải quyết cơng việc. Xu hướng hành chính hố hoạt động của các tổ chức xã
hội chậm được khắc phục.
1.3. Nội dung phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ mới
Một là, tiếp tục khẳng định tầm quan trọng chiến lược của khối đại đoàn
kết tồn dân tộc.
Nhìn lại 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, Đảng ta đánh giá “toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn, thách
thức, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, các nhiệm vụ trọng tâm, đạt được nhiều
thành tựu rất quan trọng”, đồng thời khẳng định: “Nguyên nhân quan trọng nhất
là sự đoàn kết, thống nhất, sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, có hiệu quả, kịp thời
10


của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp uỷ đảng
trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII” [3, tr.127]. Riêng
trong năm 2020, đất nước ta đã trở thành điểm sáng trong bức tranh tồn cầu khi

vừa kiểm sốt tốt đại dịch COVID-19, vừa phát triển kinh tế - xã hội. Có được
kết quả đó là “Do phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sự ưu việt
của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự tham gia đồng bộ, quyết liệt của cả hệ thống
chính trị dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự đồng lịng ủng hộ của nhân
dân”. Từ thực tiễn cơng cuộc đổi mới, trực tiếp là 5 năm thực hiện Nghị quyết
Đại hội XII, Đảng ta đã rút ra bài học phải “phát huy hiệu quả sức mạnh tổng
hợp của đất nước; khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới”.
Nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của chiến lược đại đoàn kết toàn dân
tộc, Đại hội XIII đã tiếp tục khẳng định đây là một quan điểm, chủ trương lớn
cần được toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nỗ lực củng cố, tăng cường trong
chặng đường tiếp theo của cách mạng nước ta. Quan điểm chỉ đạo của Đại hội
XIII xác định: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc,
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc” [4, tr.129].
Hai là, xác định rõ mục tiêu của chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc.
Là một bộ phận trong đường lối chiến lược của Đảng, chiến lược đại đoàn
kết toàn dân tộc luôn bám sát và phục vụ mục tiêu chiến lược của Đảng. Tại Đại
hội XIII, Đảng ta đã xác định mục tiêu của cách mạng nước ta là “Phát huy ý chí
và sức mạnh đại đồn kết tồn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh
toàn diện, đồng bộ cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp hố, hiện đại hố; bảo vệ
vững chắc Tổ quốc, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định; phấn đấu để đến
giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa” [4, tr.141]. Mục tiêu đó cũng chính là đích đến, là điểm hội tụ sức mạnh
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự đồng nhất giữa mục tiêu cách mạng của
Đảng với mục tiêu của khối đại đoàn kết toàn dân tộc cho thấy, Đảng luôn thấu
11



hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, đồng thời ln tin tưởng vào ý chí cách
mạng của nhân dân, vào sức mạnh của nhân dân, vào sự hòa quyện giữa ý Đảng
với lòng dân.
Ba là, xác lập rõ các thành tố của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Quan điểm của Đại hội XIII thể hiện rõ, khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở
Việt Nam hiện nay được cấu thành bởi mọi người dân Việt Nam trong tất cả các
dân tộc, tôn giáo, các giai cấp, tầng lớp, bộ phận xã hội khác nhau. Mỗi giai cấp,
tầng lớp, mỗi bộ phận xã hội đều đóng góp một vai trò nhất định trong việc tạo
nên sức mạnh chung của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đều được Đảng ta trân
trọng và phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục phát
triển quan điểm của Đại hội XII, Đại hội XIII khẳng định tầm quan trọng không
thể thay thế của tất cả các giai cấp, tầng lớp xã hội nhưng không xác định vai trị
“nền tảng” của khối đại đồn kết tồn dân tộc đối với bất kỳ giai cấp, tầng lớp
nào. Điều đó không làm giảm đi sự vững chắc, sức mạnh vô địch của khối đại
đồn kết tồn dân tộc, khơng ảnh hưởng đến định hướng, mục tiêu của việc xây
dựng khối đại đồn kết, mà ngược lại cịn làm cho khối đại đồn kết tồn dân tộc
càng thêm bền chắc, khơng ngừng mở rộng và phát huy được tối đa sức mạnh.
Bốn là, đề ra các chủ trương và giải pháp chủ yếu để xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, bao gồm:
Thực hiện tốt chính sách xã hội, tạo điều kiện cho mọi giai cấp, tầng lớp
xã hội phát triển vững mạnh. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc chỉ thực sự vững
mạnh khi mỗi thành tố cấu thành nên nó cũng khơng ngừng được củng cố, phát
triển ngày càng lớn mạnh. Đảng chủ trương phát triển giai cấp công nhân cả về
số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chun
mơn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động. Phát huy
vai trị chủ thể của nơng dân trong q trình phát triển nơng nghiệp, phát triển
kinh tế nơng thôn, xây dựng nông thôn mới. Xây dựng đội ngũ trí thức ngày
càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong
tình hình mới. Phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất
lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hố, đạo đức tiến bộ

12


và trình độ quản trị, kinh doanh giỏi. Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng,
đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lịng u nước, tự hào dân tộc, ni dưỡng
hồi bão, khát vọng vươn lên, tạo mọi điều kiện để thế hệ trẻ phát triển lành
mạnh, toàn diện, hài hồ cả về trí tuệ, thể chất và giá trị thẩm mỹ. Nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực nữ đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Phát huy
tính tích cực chính trị - xã hội của cựu chiến binh, cán bộ cơng an hưu trí trong
xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Phát
huy trí tuệ, kinh nghiệm sống, lao động, học tập của người cao tuổi trong xã hội,
cộng đồng và gia đình. Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đồn kết, tơn trọng, giúp
nhau cùng phát triển. Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tơn giáo, chức sắc,
tín đồ sống tốt đời đẹp đạo, đóng góp tích cực cho cơng cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngồi có địa vị pháp lý vững chắc,
phát triển kinh tế và đời sống, hội nhập xã hội nước sở tại.
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn với phịng, chống tham nhũng,
lãng phí. Ở nước ta, đại đoàn kết toàn dân tộc phải được xây dựng trên nền tảng
dân chủ, bảo đảm và phát huy tốt quyền làm chủ của nhân dân đối với mọi hoạt
động của đời sống xã hội. Dân chủ là điều kiện, tiền đề của đại đồn kết. Do đó,
để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến vấn
đề phát huy dân chủ. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định, trong nhiệm kỳ
Đại hội XIII, để xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đồn kết tồn dân
tộc thì cần phải “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa,
quyền làm chủ và vai trò tự quản của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận
xã hội” [4, tr.145].
Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định sẽ “đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi
tham nhũng, lãng phí, với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ, triệt
để hơn, hiệu quả hơn”, đồng thời “gắn phòng, chống tham nhũng, lãng phí với

xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng, củng cố hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.
13


Phát huy vai trị của cả hệ thống chính trị trong xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Trước hết, việc xây dựng và phát huy vai trò của khối đại đồn
kết tồn dân tộc phải ln đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là điều kiện tiên
quyết bảo đảm cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc ln giữ được định hướng
chính trị. Sự lãnh đạo của Đảng là “ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết tồn
dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”. Để phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng, Đại hội XIII xác
định cần phải “chú trọng đặc biệt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cả về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm
quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết
trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc trong công
tác xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Vai trò quản lý của Nhà nước đối với việc xây dựng và phát huy sức mạnh
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là đặc biệt quan trọng. Đảng ta chỉ rõ: “Đảng
và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng
chính trị, pháp lý, tơn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Đề
cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất
nước, trong tồn bộ q trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Do đó, cần thường
xuyên quan tâm xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì
sự phát triển của đất nước.
Đối với Mặt trận Tổ quốc, Đảng ta khẳng định: “Tăng cường vai trò nịng
cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội
trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp, vận động nhân dân đẩy
mạnh các phong trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn

kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, thực hành dân chủ, xây dựng
đồng thuận xã hội”.
Giải quyết tốt các mối quan hệ, thu hẹp những khác biệt giữa các bộ phận
xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây vừa là quan điểm chỉ
đạo, vừa là chủ trương và giải pháp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở
14


Việt Nam trong tình hình mới. Ở nước ta hiện nay, các mối quan hệ cần tập
trung giải quyết để củng cố sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là mối
quan hệ dân tộc, tôn giáo, mối quan hệ với người Việt Nam ở nước ngoài. Trong
quan hệ dân tộc, Đảng xác định rõ luôn “bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đồn
kết, tơn trọng, giúp nhau cùng phát triển” đồng thời “chống kỳ thị dân tộc, dân
tộc cực đoan, dân tộc hẹp hòi; nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá
hoại khối đại đoàn kết tồn dân tộc”. Trong quan hệ tơn giáo, Đảng nhấn mạnh
phải “vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tơn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt
đời đẹp đạo, đóng góp tích cực cho cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Đối với người Việt Nam ở nước ngoài, Đảng ta khẳng định đây là một bộ phận
khơng thể tách rời của khối đại đồn kết tồn dân tộc, phải “Làm tốt cơng tác
thơng tin tình hình trong nước, giúp đồng bào hướng về Tổ quốc, nhận thức và
hành động phù hợp với lợi ích quốc gia - dân tộc, có đóng góp tích cực cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Việc giải quyết tốt các mối quan hệ này
khơng chỉ trực tiếp góp phần củng cố sức mạnh của khối đại đoàn kết tồn dân
tộc, mà cịn là cơ sở để đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế
lực thù địch chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta.
Đại hội XIII của Đảng đã đề ra những quan điểm, chủ trương toàn diện về
xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Văn kiện
Đại hội đã thực sự đưa quan điểm của Đảng về vấn đề đặc biệt quan trọng này
lên một tầm phát triển mới, ngày càng hồn thiện hơn. Đây chính là cơ sở để
khối đại đồn kết tồn dân tộc ở nước ta khơng ngừng được củng cố, trở thành

cội nguồn sức mạnh để đất nước ta vươn lên phát triển mạnh mẽ, hoàn thành
những mục tiêu mà Đảng ta đã xác định trên con đường phát triển tiếp theo của
cách mạng nước ta.
II. THỰC HIỆN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ QUYỀN
LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN
2.1. Nội dung thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ
của nhân dân
15


Dân chủ là một phạm trù chính trị, nó là hình thức tổ chức quyền lực nhà
nước dựa trên nguyên tắc nhân dân là chủ thể duy nhất của mọi quyền lực. Dân
chủ trong Đảng và trong xã hội ta phản ánh quyền lực, địa vị, lợi ích của Đảng,
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Dân chủ là bản chất của chế độ ta,
mang bản chất giai cấp công nhân, vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát triển
đất nước, là phương thức để thực hiện quyền lực của nhân dân. Thực tiễn cách
mạng Việt Nam đã khẳng định từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, dưới sự
lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu
to lớn, đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng một xã
hội ổn định, phồn vinh và giàu mạnh. Từ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam được
nhân dân tin tưởng, suy tôn là lực lượng chính trị duy nhất cầm quyền lãnh đạo
Nhà nước và tồn xã hội. Nhân dân thơng qua Đảng của mình để bày tỏ nguyện
vọng dân chủ và thể hiện năng lực làm chủ của mình đối với xã hội. Khi đề cập
đến sự cần thiết phải giữ vững vai trị lãnh đạo của Đảng trong q trình xây
dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, V.I.Lênin cho rằng “Khơng có
một Đảng sắt thép được tơi luyện trong đấu tranh, khơng có một Đảng được sự
tín nhiệm của tất cả các phần tử trung thực trong giai cấp cơng nhân và nhân dân
lao động, khơng có một Đảng biết biết nhận xét tâm trạng quần chúng và biết tác
động vào tâm trạng đó thì khơng thể tiến hành thắng lợi cuộc đấu tranh chống
những thế lực và những tập tục của xã hội cũ. Bởi vì, chiến thắng bọn đại tư sản

tập trung cịn nghìn lần dễ hơn là chiến thắng tính tự phát, sự dao động của hàng
triệu và hàng triệu tiểu chủ” [8, tr.289].
Nội dung phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được xác định trong Văn
kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII của Đảng theo tinh thần là, tiếp tục cụ
thể hóa, hồn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năn
2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân. Dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện phải được thực hiện đúng đắn,
hiệu quả, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, có hiệu quả trên thực tế
phương châm “Dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
16


Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ. Cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức trong
hệ thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức phải nêu
gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội, hệ thống
chính trị do Đảng lãnh đạo phải tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của
nhân dân. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược
triển đất nước, trong tồn bộ q trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát huy
quyền và trách nhiệm của nhân dân trong tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, phát
triển kinh tế, quản lý và tự quản xã hội, xây dựng, quản lý, thụ hưởng văn hóa,
xây dựng nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân, ngoại giao nhân dân gắn
với thế trận quốc phịng tồn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân,
xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, các nhân lợi dung dân chủ, gây rối
nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ làm phương hại
đến quyền làm chủ của nhân dân.
2.2. Thành tựu và hạn chế trong thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa

và quyền làm chủ của nhân dân
* Thành tựu
Qua hơn 30 năm đổi mới, thực hiện các Nghị quyết của Đảng, quyền làm
chủ của nhân dân ngày càng được mở rộng và phát huy, nhờ vậy mà tiềm năng to
lớn về vật chất, tinh thần và trí tuệ của nhân dân được khơi dậy. Dân chủ đã đem
lại cho nhân dân không phải những giá trị dân chủ trừu tượng, mà bằng những kết
quả cụ thể trên nhiều lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội. Dân chủ đã trở
thành nhu cầu khách quan đi liền với yêu cầu của nền kinh tế thị trường, là u
cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cụ thể:
Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị khơng ngừng được đổi mới
theo hướng xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất
cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Các Cấp uỷ Đảng xây dựng và thực
hiện nghiêm túc quy chế làm việc, thể hiện tinh thần dân chủ. Quốc hội, Chính
17


phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp phát huy dân chủ, đổi mới
hoạt động lập pháp, cải cách hành chính, tăng cường đối thoại, tơn trọng và lắng
nghe ý kiến của nhân dân.
Năng lực quản lý, điều hành của các cơ quan Nhà nước và trách nhiệm của
đội ngũ cán bộ, công chức trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở không
ngừng nâng cao. Các cơ quan Nhà nước đã xây dựng các quy chế, quy định thực
hiện công khai, dân chủ gắn với đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực hiện
cơ chế "một cửa", "một cửa liên thông" được nhân dân đồng tình, ủng hộ.
Các yêu cầu và nội dung của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bước đầu được
thể chế hoá thành pháp lệnh, nghị định và được tổ chức thực hiện nghiêm túc.
Công tác dân vận đã có một số đổi mới về nội dung và hình thức.
Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, của các tổ chức chính trị xã hội, dân chủ trong xã hội có bước phát triển.
Quyền ứng cử, lựa chọn trong bầu cử, giám sát đại biểu được thực hiện có hiệu

quả hơn. Quyền của công dân tham gia xây dựng các quyết định quan trọng của
Đảng và Nhà nước, tham gia vào các công việc Nhà nước và xã hội được mở
rộng và có tiến bộ.
Việc thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân được tiến hành dưới nhiều cấp độ, nhiều hình thức. Trong đó, việc thực hiện
dân chủ ở cơ sở nói chung, ở phường, xã nói riêng được chú trọng. Trình độ văn
hóa dân chủ và năng lực làm chủ của nhân dân từng bước được nâng lên. Thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở hiệu quả đã góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đảng viên, nâng cao trách
nhiệm của cán bộ, công chức đối với nhân dân; đồng thời khuyến khích nhân dân
tham gia xây dựng, giám sát các hoạt động của các cơ quan Nhà nước, góp ý cho
cán bộ, cơng chức về phong cách, trách nhiệm, đạo đức, lối sống và tôn trọng
nhân dân.
* Hạn chế

18


Tuy nhiên, với ý thức tự phê bình và phê bình nghiêm túc, nhìn thẳng vào
sự thật, chúng ta thấy rằng việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay cịn có những hạn chế, thiếu sót, đó là:
Một số tổ chức và cấp ủy đảng cịn có biểu hiện vi phạm ngun tắc tập
trung dân chủ, quan liêu, mất dân chủ; hoặc dân chủ hình thức, khơng chấp hành
nghiêm nghị quyết, khơng thực hiện tốt việc phê bình và tự phê bình trong
Ðảng.
Hoạt động của hệ thống chính trị, của Nhà nước chưa hiệu quả, có mặt dân
chủ cịn hình thức. Tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước cịn cồng kềnh, nặng nề;
hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện và đồng bộ; thực hiện cải cách hành chính cịn
chậm trễ gây nhiều phiền hà cho nhân dân. Chưa quy định rõ ràng, hợp lý chức
năng, nhiệm vụ, cơ chế vận hành của tổ chức bộ máy dẫn đến tình trạng vừa chồng

chéo, vừa sơ hở, đùn đẩy trách nhiệm cho nhau; một số bộ, ngành không thực hiện
đúng chức năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực được giao phó.
Các tổ chức đồn thể nhìn chung chưa khắc phục tốt tình trạng hành chính
hóa trong hoạt động dẫn đến khơng nắm chắc được tâm tư, nguyện vọng và
vướng mắc của quần chúng để kịp thời giải quyết hoặc báo cáo với tổ chức
Đảng, chính quyền phối hợp giải quyết.
Một bộ phận khơng nhỏ trong đội ngũ cán bộ của Ðảng, Nhà nước và các
đồn thể cịn bộc lộ nhiều bất cập, yếu kém so với yêu cầu, nhiệm vụ của giai
đoạn cách mạng mới. Tình trạng quan liêu, khơng thực sự tơn trọng dân chủ và
thực hành dân chủ còn khá nặng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công
chức; làm cho quyền lực của nhân dân ủy quyền bị biến dạng trở thành quyền
lực cá nhân.
Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực còn bị vi
phạm. Khơng ít trường hợp, việc thực hành dân chủ cịn mang tính hình thức
hoặc lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng
đến trật tự, an tồn xã hội.
Trình độ dân trí, năng lực nhận thức và thực hành dân chủ của quần chúng
nhân dân trong những năm đổi mới, tuy đã được nâng lên một bước, nhưng vẫn
19


còn nhiều hạn chế. Sự hiểu biết về các quy định của pháp luật, về quyền lợi,
nghĩa vụ và trách nhiệm cơng dân, nhìn chung cịn chưa đầy đủ, cịn cảm tính,
xi chiều. Tình trạng coi thường pháp luật, kỷ cương, kỷ luật, quy tắc sinh hoạt
xã hội vẫn còn tiếp tục diễn ra. Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn chưa thực sự đi vào cuộc sống, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra” cịn mang tính hình thức.
Cơng tác dân vận chưa được quan tâm đúng mức; nội dung, phương thức
vận động, tập hợp quần chúng vẫn mang nặng tính hành chính. Công tác kiểm
tra, phát hiện và uốn nắn những sai lầm, hạn chế trong thực hành dân chủ của

các cấp chưa chặt chẽ và thường xun.
Ðứng trước tình hình đó, việc xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa nhằm phát huy cao độ tính tích cực, chủ động, tự giác, giải phóng năng
lực sáng tạo của con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay đang là một nhiệm vụ to lớn hết sức cần thiết và cấp bách đặt
ra cho cả hệ thống chính trị, tất cả các cấp, các ngành. Để làm tốt được nhiệm vụ
đó, cần phải nắm vững phương hướng và thực hiện tốt các giải pháp xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
2.3. Biện pháp thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ
của nhân dân
Một là, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong phát huy
dân chủ xã hội chủ nghĩa
Thực tiễn q trình tiến hành cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam một lần nữa
khẳng định: sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự
nghiệp đổi mới nói chung, đổi mới hệ thống chính trị, phát huy dân chủ trong
điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền nói riêng. Trong tình hình hiện nay,
trước u cầu mới của cách mạng, càng phải kiên định giữ vững và tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng, coi đây là vấn đề nguyên tắc, sống còn, bảo đảm sự phát
triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đương nhiên, để có đủ khả
năng, điều kiện lãnh đạo đúng đắn và có hiệu quả, Đảng phải thường xuyên tự
đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng về
20


mọi mặt, làm cho Đảng tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, cách mạng và
khoa học, tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân và tính tiên phong của Đảng;
xây dựng Đảng thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, có
tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, gắn bó mật thiết với nhân dân,
đủ sức đoàn kết lãnh đạo tồn dân, vượt qua mọi khó khăn thử thách, thực hiện
thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng. Do vậy, Đảng cần vươn lên thành biểu

tượng về dân chủ, đổi mới mạnh mẽ quá trình hoạch định các quyết sách chính trị
của Đảng, tổ chức hỏi ý kiến nhân dân theo định kỳ và đột xuất đối với mọi cán
bộ lãnh đạo và tổ chức đảng, xây dựng và vận hành hệ thống phản biện của Mặt
trận Tổ quốc, đoàn thể và nhân dân đối với đường lối, chính sách của Đảng.
Để Đảng thật sự là tấm gương về dân chủ, còn cần đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của bản thân Đảng, trước hết là hoạt động
xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Dân chủ hoá là giải
pháp quan trọng nhất để nâng cao hiệu quả hoạt động của Đảng trên lĩnh vực
này. Trong công tác tư tưởng, chính trị: khơng áp đặt; khi có ý kiến khác nhau,
tơn trọng ý kiến đa số nhưng có cơ chế bảo lưu ý kiến của thiểu số, tôn trọng ý
kiến cấp trên nhưng cũng có cơ chế bảo lưu ý kiến cấp dưới; định rõ thời hạn
xem xét, kết luận các ý kiến thiểu số đó.
Tiếp tục cụ thể hố, quy chế hoá để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân
chủ trong Đảng, kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng, trong đó, chú trọng nâng
cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; làm cho tổ chức cơ sở đảng thực sự là
hạt nhân chính trị ở cơ sở, có khả năng lãnh đạo quy tụ sức mạnh của đơn vị hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao; làm tốt công tác giáo dục, rèn luyện, quản lý đội
ngũ cán bộ, đảng viên cả về năng lực, phẩm chất, đạo đức và tác phong cơng tác.
Kiện tồn và nâng cao chất lượng của các cơ quan tham mưu, tạo sự liên
thông giữa các cơ quan tham mưu trong hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng
cơng tác cán bộ theo hướng đẩy mạnh phân cấp, dân chủ hoá, cơng khai hố
dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm chủ động xây dựng một đội ngũ cán bộ có đủ
phẩm chất và năng lực, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong giai
đoạn mới. Cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa vai trò quyết định của tập thể tổ
21


chức đảng với vai trò của người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Mở rộng và thể chế
hoá chế độ nhân dân giám sát cán bộ và công tác cán bộ, các tổ chức đảng và
đảng viên phải gắn bó chặt chẽ với nhân dân; lắng nghe tiếng nói của dân. Giải

quyết tốt mối quan hệ giữa trách nhiệm đối với cấp trên và trách nhiệm đối với
quần chúng và cấp dưới.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền của
Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng Cương lĩnh, đường lối, chủ
trương, chính sách, quyết định, nguyên tắc giải quyết các vấn đề quan trọng về
quốc kế dân sinh; lãnh đạo bằng sự tiên phong gương mẫu của đảng viên và các
tổ chức đảng; lãnh đạo bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước; xử lý những vấn
đề cụ thể nhưng có ý nghĩa chính trị quan trọng, quan hệ tới nhiều tầng lớp,
những vấn đề phức tạp trong quan hệ quốc tế. Lãnh đạo tốt khâu hoạch định
đường lối; quyết định nhân sự; lãnh đạo Nhà nước thể chế hoá, cụ thể hố đường
lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng. Tổ chức việc phối hợp và phát
huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, tạo điều kiện cho Nhà nước hoàn
thành thắng lợi mọi nhiệm vụ, bảo đảm cho nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống
một cách đầy đủ, kịp thời. Kết hợp chặt chẽ việc lãnh đạo bằng tổ chức với lãnh
đạo qua cá nhân đảng viên theo nguyên tắc tập trung dân chủ và nêu cao vai trò
trách nhiệm của đảng viên là cán bộ chủ trì.
Hai là, xây dựng, củng cố, hồn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, coi trọng phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Nhà nước pháp quyền là một tiến bộ lịch sử về mặt tổ chức và phương
thức quản lý nhà nước để phát huy dân chủ. Nói nhà nước pháp quyền là nhấn
mạnh phương pháp, cách thức quản lý bằng pháp luật, theo pháp luật, hiện nay,
Hiến pháp, pháp luật là sự thể chế hoá quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng,
nhu cầu và lợi ích của nhân dân. Cho nên, càng đề cao pháp luật bao nhiêu, càng
là sự đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng, của dân bấy nhiêu. Xét từ giác độ đó,
nêu cao vai trị của pháp chế, yêu cầu mọi tổ chức, mọi công dân đều phải tôn
22


trọng và tuân thủ pháp luật là một phương hướng quan trọng để tăng cường vai

trò lãnh đạo của Đảng, phát huy quyền dân chủ của nhân dân.
Hơn nữa, trong chế độ có Nhà nước pháp quyền, thì mọi tổ chức, mọi
thiết chế chính trị - xã hội, trong đó có Đảng cầm quyền, cũng phải hoạt động
trong khn khổ của Hiến pháp, pháp luật.Đồng thời để phát huy dân chủ trong
điều kiện hiện nay Đảng cần lãnh đạo đẩy mạnh quá trình phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế đó, thị trường vừa là
căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch; kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng
và đặc biệt quan trọng trên bình diện vĩ mơ, thị trường có vai trị trực tiếp hướng
dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản
xuất, kinh doanh. Hoạt động kinh tế của doanh nghiệp và của nhân dân hồn
tồn mang tính tự chủ; chấp nhận cạnh tranh; quyền của người sở hữu, quyền
của người sử dụng tư liệu sản xuất được xác định, mọi tư liệu sản xuất đều có
người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả
kinh doanh của mình... Đó là những nội dung rất quan trọng của dân chủ trên
lĩnh vực kinh tế.
Ba là, vận dụng hiệu quả những thành tựu của khoa học công nghệ vào
việc lãnh đạo, quản lý đất nước, dân chủ hố về thơng tin, nâng cao trình độ văn
hóa, dân trí của nhân dân.
Khoa học tự nó mang bản chất cách mạng và dân chủ. Việc vận dụng
những tựu về khoa học công nghệ vào lãnh đạo, quản lý là yêu cầu cần thiết để
sự lãnh đạo, quản lý đó mang tính cách mạng và dân chủ. Ngày nay, ở nhiều
nước phát triển đã và đang khoa học hố hoạt động của Chính phủ, từ đó hình
thành “Chính phủ điện tử”, hoạt động, quản lý đất nước qua mạng. Muốn vậy,
mọi văn bản quản lý (trừ một số trường hợp thật đặc biệt liên quan tới bí mật
quốc gia chưa có khả năng bảo mật tốt bằng kỹ thuật) đều được cơng khai hố
lên mạng. Sự độc quyền thông tin sẽ được giảm tới mức tối thiểu. Mọi người
dân không chỉ nắm được những quyết định quản lý, mà còn giám sát được các
cơ quan quản lý trong việc thực hiện những quy định đó. Hơn nữa, người dân có
thể bày tỏ ý kiến qua mạng về sự đồng tình hay khơng đồng tình với những
23



×