Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tài liệu Đô thị làng quê bền vững ở châu Âu & Kinh nghiệm phát triển Việc phát triển docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.55 KB, 5 trang )

Đô thị làng quê bền vững ở châu Âu
Kinh nghiệm phát triển
Việc phát triển đô thị nhằm đạt được chất lượng của đô thị làng quê theo yêu cầu đề ra,
thì chúng ta phải đối mặt với mật độ tăng cao là rõ ràng. Tuy nhiên, tăng mật độ cũng là
một vấn đề nghiêm trọng đe dọa tới chất lượng sống hiện nay tại vùng ngoại ô. Vì thế,
việc thảo luận về vấn đề mật độ một cách chi tiết là một cách tích cực ở các thành phố.
Qua việc tìm hiểu vài đặc trưng của những làng quê Châu Âu giúp ta có cái nhìn về một
đô thị làng quê ở Việt Nam trong tương lai.

Đặc trưng của đô thị làng quê châu Âu

- Sử dụng đất mật độ cao để
mọi người có thể tới mọi nơi
trong làng trong khoảng cách
đi bộ hoặc đi xe đạp.

- Sử dụng đất kết hợp với văn
phòng, cửa hàng, kinh doanh
và các tiện nghi công cộng
trên các trục xương sống
chính hay các nút, được bao
quanh bởi các khu nhà ở.

- Nhà ga, tàu điện nhẹ và tàu
hạng nặng gần trung tâm.

- Cảnh quan rộng khắp bao
gồm vườn trên mái công trình và ở ban công và các khu vườn hấp dẫn ở không gian
công cộng.

- Kết hợp giữa nhà ở công cộng, tư nhân hay nhà ở hợp tác có sự tập trung vào nơi các


gia đình có thể tới và không gian ở bên trong rộng lớn và các khu vực công cộng rộng
rãi.

- Dự trữ diện tích rộng cho trẻ em như sân chơi, các loại hình không gian vui chơi sáng
tạo và an toàn khác có tầm nhìn đẹp về nhà ở.

- Các tiện nghi giải trí như công trình thể thao (bể bơi, sân tennis, các môn thể thao
trong nhà…).

- Các công trình công cộng như trường học, thư viện, trung tâm chăm sóc trẻ em, trung
tâm cho người già, trung tâm giải trí và trong một số trường hợp là các trang trại đô thị
nhỏ. Nếu như các công trình này không nằm trong làng, thì chúng cũng nằm ngay ở khu
vực lân cận.

- Một số khu đặc biệt để làm nhà kho chứa dụng cụ.

- Những đường đi bộ và đi xe với bãi đỗ ô tô được đặt ngầm và tốc độ lưu thông trên
các con đường ngoại vi. Mục tiêu là môi trường hướng tới con người, giao thông tự do,
không phải được thiết kế xoay quanh nhu cầu không gian của các bãi đỗ xe.

- Không gian công cộng với đặc trưng thiết kế mạnh (mặt nước, tiện nghị đường phố,
điêu khắc, sân chơi)

- Độc lập ở mức cao đối với cộng đồng vì nhu cầu của địa phương, nhưng có hệ thống
xe buýt và tàu điện gắn kết với thành phố rộng hơn phục vụ cho làm việc và giáo dục
cao hơn.

Để phát triển đô thị nhằm đạt
được chất lượng của đô thị
làng quê đề ra ở phần trên,

mật độ tăng cao là rõ ràng.
Tuy nhiên, tăng mật độ cũng
là một vấn đề nghiêm trọng đ
dọa tới chất lượng sống hiện
nay tại vùng ngoại ô. Vì thế,
việc thảo luận về vấn đề mật
độ một cách chi tiết là một
cách tích cực ở các thành phố.
e

Ảnh bên : Khu đô thị vườn Chemin-Vert nhìn từ trên cao (Ảnh : Ashui.com)
Vấn đề mật độ
uy hoạch đô thị và ngành công nghiệp phát triển cần phối hợp với nhau để tìm ra các



Q
trung tâm và các hành lang xác định là đô thị làng quê tại các thành phố hiện đại dựa
trên số lượng ô tô chúng ta đã quy hoạch. Đã có nhiều hiện tượng tái đô thị hoá xuất
hiện ở các khu phố cổ tại Australia và trung tâm, có lẽ hiện nay đã chuyển ra các vùng
ngoại ô phía ngoài và giữa đối với các nút và hành lang. Ở các thành phố của Mỹ, các
đô thị làng quê rất cần đối với các thành phố, đặc biệt ở các địa phương có khu phố cổ
bị bỏ quên. Những thành phố dựa trên ô tô cần đảm bảo rằng hệ thống quá cảnh được
xây dựng ở trung tâm các làng. Và họ cần cho phép tất cả nguồn nhân lực sáng tạo của
người dân đô thị, những người muốn sống, làm việc và đi lại ở các làng quê đô thị này
hướng tới việc tái xây dựng quy mô con người nơi mật độ và sử dụng kết hợp là các vấn
đề mong muốn.

Đ
nhất để tới bất kỳ đâu. Hiển nhiên là sử dụng xe hơi bị hạn chế. Điều quyết định là gắn

kết các đô thị làng quê lại với nhau, tốt nhất là bằng xe chạy điện, để mọi người tới các
nơi họ cần mà địa phương không được đáp ứng được.

C
những nơi thành công về mặt kinh tế và có hỗ trợ cộng đồng. Thường có các chươn
trình của nhà nước tìm cách thực hiện điều này (ví dụ Chương trình về đô thị làng quê
cho các thành phố tốt hơn của Australia). Các lý do không xác thực đối với lo ngại về
mật độ đã đề cập ở phía trên mà gợi ra rằng nó là cái gì đó vốn xấu xa và xa lạ đối với
tinh thần con người. Một phần của phong trào quy hoạch đô thị thế kỷ XIX (chủ yếu ở
Anh) xác định mọi căn bệnh về môi trường và xã hội của các thành phố công nghiệp đề
gắn với mật độ. Vì nó, họ cố gắng thiết kế các vùng ngoại ô vườn có mật độ thấp mới
và các thị trấn mới có mật độ thấp, mà trên thực tế không theo tầm nhìn Thành phố
Vườn ban đầu của Ebenezer Howard. Chúng có một số đặc trưng môi trường tích cự
như các khu vườn ngoại ô ở London đều xanh, gần với nhà ga xe lửa và có phần đông
đúc hơn, con cháu chủ yếu dựa vào xe ô tô của mình. Tuy nhiên cái mà họ mất đi đó là
quy mô con người, bởi vì có
quá ít lối đi bộ còn lại.
ô thị làng quê cơ bản là quy mô ở dân số khuyến khích đi bộ hay đạp xe là cách tốt
ác khu vực phát triển mới sử dụng chất lượng của các vùng đó nói chung cũng là
g


c








Ảnh bên : Welwyn Garden City được thiết kế bởi Ebenezer Howard (Ảnh :
Mặc dù cả 2 thành phố này đều được tuyên bố là chịu tác động bởi truyền thống thành

ã
Ashui.com)
phố vườn, chỉ có Almere là có mọi thứ giống với mật độ mà Ebenezer Howard đã gợi ý
100 năm trước. Giới quy hoạch đô thị Anh (sau Howard) tin rằng họ có thể có thành
phố xanh mà không có mật độ cao hơn cần thiết cho chất lượng đi bộ thuận tiện - họ đ
sai lầm và những khác biệt ở phần đầu bài viết đã cho thấy điều này. Sự khác biệt đáng
buồn về tự do của trẻ em được đánh dấu đặc biệt.


Sử dụng đất kết hợp
ột trong những khác biệt dễ thấy giữa thành phố tiền hiện đại và các thành phố nhiều
sử

hế

âu chuyện của vùng Arabella, Munich
ùng Arabella, hay Trung
ê



i


M
ô tô là mức độ sử dụng đất kết hợp. Thành phố cổ, đặc biệt các vùng nội đô của nhiều
thành phố được xây dựng quanh hệ thống xe điện (ví dụ nội đô Philadelphia, San

Francisco hay Sydney), và thậm chí ngoại ô quá cảnh cuối thế kỷ XIX đều có việc
dụng đất kết hợp cao. Kết quả của cơ cấu đô thị phức tạp là đi lại bằng ô tô giữ ở mức
tối thiểu nhờ khoảng cách ngắn hơn, làm giảm nhu cầu đi lại bằng các phương thức
khác và mọi người ưa thích phương thức không sử dụng ô tô. Khoảng cách ngắn có
nghĩa là cơ hội nhiều hơn cho đi bộ và đi xe đạp, cũng như quá cảnh; có nhiều hoạt
động có thể đến trong phạm vi nhỏ vì thế khả thi đối với đi bộ hoặc xe đạp, thậm chí
thể có một số chỗ dừng đối với xe buýt hay tàu hoả. Mục đích đi lại khác nhau như mua
bán, đi làm, hay kinh doanh cá nhân có thể kết hợp thành chuyến đi riêng ở các vùng sử
dụng đất kết hợp, thường nhờ vào việc quá cảnh kết hợp với đi bộ. Ở các vùng đô thị đã
quy vùng, những chuyến đi tương tự thế này yêu cầu phải là các chuyến đi riêng, và
thêm nhiều km đi xe. Holtzclaw (1990) và Neff (1996) xác định số lượng những lợi t
đi lại của việc liên kết các chuyến đi trong môi trường đông đúc, sử dụng kết hợp bằng
cách cho thấy rằng có những tác động “đòn bẩy quá cảnh” hay “thay thế quá cảnh” ở
chỗ làm việc nơi một km đi lại quá cảnh có thể thay cho tới 10km đi xe phụ thuộc vào
điều kiện cụ thể (trung bình khoảng 5km).

C

V
tâm Quận Bogenhausen, là
một tiểu trung tâm quan trọng
ở Munich và là ví dụ tuyệt vời
về khái niệm đô thị làng qu
cả về sức mạnh lẫn kết hợp
các hoạt động và chất lượng
cao của thiết kế đô thị cũng
như quy mô dân số. Các
không gian công cộng giao
thông tự do và giao thông
tĩnh, mà khu phát triển này

nằm trong. Đó là sự nhấn
mạnh vào cảnh quan và mô
trường xanh nói chung. Toàn
bộ khu phát triển đặt quanh nh
thành phố và các văn phòng phức hợp từ 8 - 10 tầng bố trí ngay sát với nhà ga. Vùng
à ga quá cảnh nhanh ngầm ở Quảng trường Market của
Arabella có nhà ở cho 10.000 người dân sống trong các căn hộ thuê hoặc sở hữu, chỗ
làm cho 18.000 công nhân và 2.000 phòng khách sạn. Kết quả là sự kết hợp sống động
và tuyệt vời của việc sử dụng đất bao gồm văn phòng, cửa hàng, nhà hàng, bệnh viện,
rạp chiếu phim, câu lạc bộ đêm, trường buổi tối, thư viện thành phố, bưu điện, bể bơi,
trung tâm giải trí, công trình thể thao cũng như rất nhiều các công trình ngoại vi và
công ty dịch vụ.

T
thuộc nhiều lứa tuổi có thể đi bộ hoặc đi xe, sử dụng các đại lộ xanh và khu vực chợ để
nói chuyện và nghỉ ngơi. Một số chi tiết thiết kế đô thị như các vùng nhỏ có nước chảy
qua và điêu khắc tạo nên các điểm trọng tâm hữu ích cho hoạt động này. Ở đây cũng có
dòng người kinh doanh đi bộ qua khu vực này. Cha mẹ và ông bà cùng trẻ em đạp xe
hay chơi ở các không gian công cộng rất ấn tượng.

K
đường nhỏ ở vùng ngoại vi. Các con đường dốc và công trình nhà kho xe đạp hình
thành nên bậc cho người đi xe hoặc tản bộ.


rong không gian công cộng của Arabella, có nhiều tương tác xã hội với những người

hu vực văn phòng của khu phát triển đặt tại vùng giao thông tự do kết hợp với các con
ff Kenworthy - Viện nghiên cứu chính sách công nghệ và bền vững, ĐH Murdoch


Je

×