Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

noi dung boi duong he 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.48 KB, 19 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>I. Những giải pháp khắc phục học sinh yếu kém và chống tụt bậc. *Nhóm giải pháp 1: Đối với BGH + Ngay từ đầu năm học nhà trường đã tổ chức khảo sát phân học sinh ở từng khối lớp. Nhà trường thường xuyên báo cáo về những phụ huynh không quan tâm hoặc để con em ở nhà đi học không chuyên cần. Từ đó thôn, UBND xã có biện pháp nhắc nhở, động viên những phụ huynh này. + Trong các cuộc họp BTCbộ, các ngành ỡ xã đ/c HT thường xuyên báo cáo học sinh yếu kém ở các thôn để các đ/c nắm được và có hướng khắc phục. + BGH Có kế họach nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý, giáo viên và nhân viên để đáp ứng yêu cầu của từng vị trí công tác một cách tốt nhất + Gửi danh sách HSY kém về các thôn, kết hợp với hội khuyến học, hội phụ huynh học sinh để trao đổi như những học sinh học còn yếu. + Việc chọn giáo viên phụ đạo rất quan trọng vì có thể nói giáo viên là yếu tố quyết định về kết quả phụ đạo học sinh yếu. BGH chọn được những thầy cô tâm huyết, có kinh nghiệm dạy học sinh yếu, tận tụy với từng học sinh thì kết quả mới khả quan được. + BGH nhà trường thành lập ra 5 khối 5 lớp để dạy phụ đạo học sinh yếu kém với số buổi là 1 khối 1buổi/ tuần. + BGH nhà trường phải phối hợp thật tốt với các tổ chức đoàn thể và ban đại diện hội cha mẹ học sinh, đặc biệt là những phụ huynh có con em thuộc diện phải phụ đạo. Phải trao đổi, giải thích rõ cho cha mẹ học sinh hiểu được sức học cụ thể của con em họ, biết được sự lo lắng, quan tâm và trách nhiệm của nhà trường để phối hợp, tạo điều kiện cho con em mình đi học đầy đủ. Làm thế nào để họ thấy rằng việc phụ đạo là việc làm giúp đỡ những học sinh yếu kém không theo kịp bạn bè, không theo kịp chương trình học. + Nhà trường cần có những hình thức khen thưởng những học sinh tiến bộ như: có chế độ điểm thưởng cho học sinh tiến bộ, bồi dưỡng thỏa đáng cho giáo viên phụ đạo. ( Kinh phí cấp cho giáo viên dạy phụ đạo HSY kém 40.000đ/buổi.) + Đồng thời cần quan tâm theo dõi và đáp ứng nguyện vọng chính đáng của.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> giáo viên và học sinh về phòng học, photo bài học, bài tập… + Nếu gặp trường hợp học sinh yếu không chịu học, ban giám hiệu, giáo viên chủ nhiệm cần phải tiếp xúc với phụ huynh học sinh để giải thích, thuyết phục. Học sinh học phụ đạo các lớp được miễn phí hoàn toàn. + Tổng hợp danh sách học sinh yếu theo khối lớp báo cáo UBND xã, BCH hội phụ huynh, Phòng GD. + Họp hội đồng sư phạm để tìm biện pháp tối ưu nhất khắc phục học sinh yếu. + Mời phụ huynh có học sinh yếu, BCH hội, đại diện UBND xã, các thôn trưởng, giáo viên có học sinh yếu, Tổ Khối Trưởng để bàn biện pháp khắc phục học sinh yếu, đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng không chỉ của nhà trường mà toàn xã hội. ( 1 tháng/lần) + Duyệt kế hoạch giảng dạy và phụ đạo học sinh yếu. + Sổ theo dõi HSY kếm, nhận xét đánh giá và nâng bậc hàng tháng ( sổ này phảI đồng nhất từ gv dạy phụ đạo HSY kém + Thường xuyên kiểm tra việc giáo viên phụ đạo ở trường, ở nhà. + Giao ban GVCN và giáo viên phụ đạo học sinh yếu (2tuần/lần) + Tổ chức chuyên đề “khắc phục học sinh yếu”. + Có biện pháp hỗ trợ vật chất cho học sinh, như sách vở, bút …. + Thường xuyên họp với BCH hội, UBND xã, thôn trưởng, giáo viên, phụ huynh có học sinh yếu để đánh giá kết quả đạt được, từ đó có kế hoạch điều chỉnh cho phù hợp. + Hàng tháng chuyên môn phối hợp với tổ trưởng trực tiếp khảo sát HS yếu rồi tổng hợp đáng giá kết quả dạy của giáo viên được giao nhiệm vụ. + Chỉ đạo đoàn đội tổ chức phong trào “Đôi bạn cùng tiến” có phần thưởng cho HS yếu trong mỗi tháng. + Thường xuyên báo cáo cho Phòng GD về tiến độ chất lượng học sinh yếu. (theo lịch) * Giải pháp 2: Đối với GV + Trên những giờ học chính khoá gvcn thường xuyên phân loại bài tập, kíên thức phù hợp với từng đối tượng học sinh..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> + GV luôn quan tâm đến học sinh yếu trong giờ dạy, hướng dẫn, động viên học sinh + Gặp phụ huynh trao đổi về việc học tập của HS, cùng với phụ huynh tìm biện pháp khắc phục. + HSYK trời mưa hoặc vì một lí do nào đó mà không đi học được thì GV trường chúng tôi vào nhà lai ra trường để học + Có sổ theo dõi từng buổi dạy nhận xét đánh giá từng tuần của học sinb. + Tiếp theo giáo viên lập kế hoạch phụ đạo học sinh yếu ngoài giờ học chính khóa có thể ở trường, ở nhà (đề xuất với Tổ Khối Trưởng, nhà trường, phụ huynh...) + Đối với giáo viên được phân công dạy phụ đạo HSYK trong tiết dạy giáo viên nhất thiết phải có kế hoạch dạy học cho những học sinh yếu. Kế hoạch dạy học cho học sinh yếu phải phù hợp với trình độ học sinh đó, không nên dạy những vấn đề hoặc kiến thức của lớp đó mà có thể dạy kiến thức của lớp dưới. + Phân công HS khá, giỏi giúp đỡ bạn ở trường, ở nhà. Tạo ra các nhóm học tập, thi đua trong các nhóm có học sinh yếu. + GV phải thường xuyên chấm chữa bài và sửa lỗi cẩn thận đối với học sinh yếu + Động viên, tuyên dương kịp thời học sinh có tiến bộ. + Trong buổi sinh hoạt chuyên môn hàng tháng (2 tuần/lần) giáo viên chủ nhiệm báo cáo tiến độ tiếp thu bài của những học sinh yếu cho Tổ Khối Trưởng và giáo viên trong khối, từ đó giáo viên nào còn vướn mắc thì được tập thể giáo viên trong khối góp ý bổ sung. * Nhóm giải pháp 3: Đối với tổ trưởng chuyên mônTập hợp danh sách học sinh yếu báo cáo Nhà trường. - Họp tổ khối để cùng phân tích nguyên nhân, bàn kế hoạch khắc phục học sinh yếu. - Đề xuất với nhà trường về cách khắc phục học sinh yếu..

<span class='text_page_counter'>(4)</span> - Tổ chức chuyên đề “khắc phục học sinh yếu”. - Thường xuyên đôn đốc, kiểm tra các biện pháp khắc phục HS yếu. - Giao trách nhiệm cho từng giáo viên và báo cáo thường xuyên cho nhà trường. - Hàng tháng sinh hoạt chuyên môn với nhà trường (họp tổ khối) thì Tổ Khối Trưởng báo cáo tiến độ tiếp thu của những em học sinh yếu.. * Nhóm giải pháp 4: Đối với học sinh+ Đi học phải chuyên cần, nghỉ học phải có lý do chính đáng. + Học bài, làm bài, chuẩn bị bài trước khi đến lớp. +Trong giờ học tập trung nghe thầy cô giáo giảng bài, tích cực tham gia xây dựng bài. +Tham gia đầy đủ các buổi học phụ đạo do nhà trường tổ chức . +Thực hiện tốt đôi bạn cùng tiến * Nhóm giải pháp 5: Đối với BCH hội phụ huynh+ BCH hội mời phụ huynh có con em học yếu họp bàn về cách khắc phục. + BCH hội có biện pháp hỗ trợ về vật chất cho giáo viên, học sinh (nếu có). + BCH hội thường xuyên trao đổi với phụ huynh có con em học yếu, với giáo viên, với nhà trường. - Đặc biệt thường xuyên động viên, đôn đốc phụ huynh đưa con đi học chuyên cần. * Nhóm giải pháp 6: Đối với Trưởng thôn, UBND xã - Nhà trường thường xuyên báo cáo về những phụ huynh không quan tâm hoặc để con em ở nhà đi học không chuyên cần. Từ đó thôn, UBND xã có biện pháp nhắc nhở, động viên những phụ huynh này. - Cần có biện pháp hỗ trợ vật chất cho những gia đình gặp khó khăn. * Nhóm giải pháp 7: Công tác phối hợp các đoàn thể trong nhà trườn.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Ngay từ đầu năm BGH nhà trường đã giao cho các đồng chí trong BCH Đoàn, Tổng phụ trách đội tổ chức các hoạt động tập thể, ngoại khóa gây hứng thú học tập cho học sinh + Đoàn đội đã phân công theo dõi những lớp có học sinh yếu xây dựng hình thức như: “Đôi bạn cùng tiến”, giúp nhau trong công tác học tập, em giỏi hướng dẫn cho em yếu, em biết hướng dẫn cho em chưa biết với phương châm là: Không còn học sinh không biết đọc + Hàng tuần TPT đội tổng hợp và nêu gương những học có nhiều tiến bộ trong học tập + Có những phần thưởng cho học sinh học tập tiến bộ sđồng thời cũng động viên những em chưa cố gắng vươn lên trong học tập.+ Đánh giá xếp loại thi đua của lớp trên buổi chào cờ đầu tuần.. HSG Chọn học sinh có năng khiếu 1. Các tiêu chuẩn : a. Thông minh , trí tuệ : Là những học sinh có năng lực tư duy tốt ở mọi vấn đề - Có hiểu biết và khá thông tuệ mọi vấn đề . - Có khả năng nhớ lâu, khả năng suy diễn , giải quyết xử lý tình huống linh hoạt hiệu quả cao . b. Khả năng sáng tạo - Luôn có phát hiện mới mẻ độc đáo - Luôn chủ động độc lập trong tư duy - Có khả năng tự học và tự tìm tòi c. Tinh thần say mê ham học - Là những học sinh có chính kiến , biết bảo vệ chính kiến Trung thực , điềm đạm và nhạy cảm.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> - Khiêm tốn học hỏi . Say mê và yêu thích môn học. Có ý chí vươn lên để khẳng định mình . 2. Tổ chức phát hiện và tuyển chọn Bước 1 : Căn cứ vào điểm và kết quả của năm học trước, nhất là điểm qua các kỳ thi mà nhà trường tổ chức đánh giá một cách nghiêm túc và trung thực . Tất nhiên điểm số không phải là cơ sở và căn cứ chủ yếu càng không phải là điều kiện quyết định để lựa chọn học sinh có năng khiếu nhưng nó vẫn là kết quả trực quan ban đầu để đánh giá và đưa các em vào danh sách tuyển chọn . Bước 2 : Xem xét kết quả của quá trình học tập ở nhà trường . Một học sinh liên tục cả năm và nhiều năm đạt học sinh giỏi trong các kỳ thi thì đó chính là một căn cứ tin cậy và nó cũng thể hiện đầy đủ những khả năng phẩm chất đáng quí của một học sinh có năng khiếu . + Thông tin từ giáo viên đã từng giảng dạy ở các lớp + Dựa vào thực tế quá trình học tập bồi dưỡng . Đây là những cơ sở thực tiễn có chiều sâu chính xác và sác xuất cao vì qua đó các em được bộc lộ và thể hiện đầy đủ những khả năng của mình . Bước 3 : Tuyển chọn bằng cách trực tiếp phỏng vấn trao đổi đối với từng cá nhân học sinh . Qua thực tế thì cách này mang lại hiệu quả khá cao bởi vì người dạy sẽ phát hiện được những học trò thích và ham mê bộ môn của mình bởi trong quá trình học tập và giảng dạy giữa thầy và trò bao giờ cũng có sự đồng cảm và ăn ý với nhau . ( Cách đặt câu hỏi có thể là : Bộ môn học trong nhà trường mà em yêu thích nhất ? Vì sao ? . Điều mà em thấy lý thú và hấp dẫn ở bộ môn này ? ... ) Bước 4 : Kiểm tra đánh giá sau thời gian bồi dưỡng và tổ chức điều chỉnh thành lớp đội tuyển . Bước này được coi là bước cuối cùng trong khâu tuyển chọn . Trong 4 khối trường Quảng Tiến năm nào cũng thành lập mỗi khối một lớp Ngữ văn và Toán . Riêng năm học 2010- 2011 Khối 9 có 10 đội tuyển . Khối 8 cũng có 10 đội truyển được thành lập từ tháng 11 của năm học . Cuối mỗi kỳ các lớp đội tuyển được kiểm tra khảo sát chất lượng bằng một bài thi chuẩn bị cho các đội tuyển của năm học tiếp theo . B. Công tác bồi dưỡng học sinh năng khiếu . 1. Công tác tổ chức Sau khi tuyển chọn học sinh giáo viên thực hiện giảng dạy theo qui định của nhà trường do Hiệu trưởng quyết định thành lập cho từng khối môn ..

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Phân công giáo viên trực tiếp dạy ở các lớp . 2. Điều kiện phục vụ cho công tác bồi dưỡng - Xây dựng thời khóa biểu bồi dưỡng hợp lý - Phòng học đảm bảo theo tiêu chuẩn - Các điều kiện như tài liệu , sách giáo khoa, sách tham khảo và các điều kiện khác phải đầy đủ công tác giảng dạy. 3. Tuyển chọn giáo viên giảng dạy Là khâu hết sức quan trọng quyết định chất lượng và hiệu quả các lớp đội tuyển vì phải có thầy giỏi thì mới có trò giỏi . Chính vì vậy cần chú ý đến các tiêu chuẩn sau : - Phải là giáo viên có phẩm chất tốt . - Có trình độ năng lực chuyên môn và sư phạm giỏi . - Phải có trách nhiệm cao nhiệt tình say mê với công việc, có kiến thức và hiểu biết sâu rộng . - Có kinh nghiệm và phương pháp dạy phù hợp . - Thầy phải biết hướng cho các em động cơ thái độ học tập đúng đắn tạo niềm say mê yêu thích và niềm hứng thú trong học tập cho các em . Người thầy giỏi là người thầy dạy cho các em biết cách học . Thầy phải biết trò cần gì ? Thiếu gì trong kiến thức và phương pháp học tập để biết cách giúp các em lấp đầy lỗ hổng và thiếu sót . Tóm lại : Việc phát hiện bồi dưỡng học sinh có năng khiếu có thể coi là một quá trình . Hiện nay ở các nhà trường THCS không còn tồn tại trường chuyên lớp chọn nên công tác bồi dưỡng phát hiện học sinh năng khiếu phải được tiến hành đồng thời trong những tiết dạy đại trà : Thông qua hệ thống câu hỏi, các bài tập ở những cấp độ khác nhau. Từ đó căn cứ vào năng lực từng em mà giáo viên có những tác động sư phạm đến với các em : Quan tâm hơn đưa nhiều nội dung học tập có yêu cầu cao để thêm các bài tập khó hơn . Sau đó phải dành thời gian chấm và chữa bài một cách chi tiết tỉ mỉ, nên có những lời động viên khích lệ để các em phát huy tốt hơn khả năng của mình . 4. Nội dung và phương pháp bồi dưỡng Việc bồi dưỡng học sinh năng khiếu phải dựa trên nền tảng vững chắc của chất lượng đại trà . Những học sinh có năng khiếu có quyền được học tập và phát triển năng lực theo sở trường của mình, các em sẽ được học những tài liệu giáo trình nâng cao, chuyên sâu hơn ..

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Quá trình học bao gồm cả quá trình tự học : Tự học là điều kiện tốt nhất để phát triển tư duy độc lập và cao hơn nữa là tư duy phát hiện rồi đến tư duy sáng tạo . Năng lực tư duy và khả năng tự học của học sinh là những vấn đề cực kỳ quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách sáng tạo của học sinh . Chính vì vậy cả thầy và trò phải nhận thức rõ việc dạy và học có mục đích ở học chứ không phải có mục đích ở dạy . Cho nên trong bồi dưỡng đội tuyển trước hết thầy giáo cần tạo cho học sinh tinh thần tự giác trong tự học giúp học sinh đạt hiệu quả . a. Việc dạy của Thầy + Trong việc bồi dưỡng học sinh năng khiếu cần tôn trọng nguyên tắc " dân chủ " và " bình đẳng " . Cần trang bị cho học sinh các tri thức kỹ năng nội dung như học sinh bình thường . + Muốn giảng dạy có hiệu quả thầy phải lấy hoạt động học của học sinh làm trung tâm nên chú ý tới những đặc trưng cơ bản đó là : - Tính sáng tạo và tính tự giác - Tính độc lập tự chủ - Khả năng ý chí nghị lực của người học + Cần sử dụng các phương pháp tích cực cụ thể như : - Chú trọng rèn phương pháp tự học - Tăng cường học tập cá thể với học tập hợp tác - Kết hợp tổ chức nhiều các hoạt động học + Thầy dạy phải hiểu nhu cầu và nguyện vọng của người học chú ý cả những đặc điểm tâm sinh lý, tư duy của người học để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, khả năng tự giải quyết vấn đề và hướng đến những vấn đề cao hơn . + Biết hướng dẫn tổ chức cho học sinh tự mình khám phá kiến thức mới và đặc biệt là nắm vững phương pháp học tập bộ môn . Phân hóa mức độ giờ học theo đối trượng, động cơ người học để có cách bồi dưỡng hợp lý . Luyện cho các em thói quen khai thác đề ở nhiều góc độ, phương diện khác nhau, biết đặt giả thiết và tìm được nhiều cách giải khác nhau . b. Việc học của trò + Thực hiện và nắm kỹ nội dung và các thao tác của bộ môn dưới sự hướng dẫn của thầy . + Tích cực chủ động sáng tạo trong quá trình học ..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Điều quan trọng là quá trình tự học của trò . Tự học là điều kiện tốt nhất để phát triển tư duy độc lập và cao hơn nữa là tư duy phát hiện rồi đến tư duy sáng tạo . Nếu học sinh có tư duy tốt thì sự hiểu biết ngày càng thêm phong phú và vững chắc . Tư duy càng phong phú và càng sắc sảo thì hiệu quả càng chính xác càng cao . Vì vậy việc học trước hết là học tư duy và thầy dạy cũng cần đến dạy tư duy Thực tế giảng dạy bồi dưỡng học sinh năng khiếu đã minh chứng một quan điểm về năng lực tự học tự sáng tạo có vai trò quyết định trong toàn bộ quá trình học tập của học sinh . Tự học là phương tiện nhưng cũng là mục đích ý nghĩa tự giác trong phương pháp học tập của học sinh cũng chính là sự biểu hiện về sự hình thành và phát triển nhân cách sáng tạo tình yêu trong sáng và say mê của các em đối môn học của mình . + Trong quá trình cùng nhau hợp tác học tập học sinh có thể tự chấm và chữa bài cho nhau để các em có được sự mạnh dạn và quyết tâm trong xử lý vấn đề và tình huống và gây được không khí thoải mái thúc đẩy tính tích cực trong học tập , các em sẽ học được cái hay cái được của bạn và biết cần tránh những nhược điểm mà các em hay mắc phải .. III. NỘI DUNG CỦA KINH NGHIỆM: 1/ Vai trò người thầy: Trước hết, ta phải xác định vai trò của người thầy là hết sức quan trọng. Bởi vì người thầy có vai trò chỉ đạo và hướng dẫn.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> học sinh, gợi ý, dẫn dắt học sinh để đi đến các phương pháp học nói chung và giải toán nói riêng. Nếu học sinh có kiến thức cơ bản tốt, có tố chất thông minh mà không được bồi dưỡng, nâng cao tốt thì sẽ ít có hiệu quả hoặc không có hiệu quả. Đồng thời giáo viên lại phải lựa chọn đúng đối tượng học sinh vào bồi dưỡng và phải soạn thảo chương trình bồi dưỡng một cách hợp lí, khoa học và sáng tạo. Thực tế cho thấy một số em có tố chất tốt nhưng ý thức học tập không cao, ẩu thả, thiếu nỗ lực cố gắng thường thi đạt kết quả thấp. Vì thế, để học sinh luôn cố gắng hết khả năng của mình, giáo viên cần thường xuyên tác động tới ý thức học tập của học sinh bằng nhiều hình thức khác nhau, như : Nêu gương các anh chị những năm trước, kể cho các em nghe một số kì thi tiêu biểu,…; cho các em thấy được nếu nỗ lực cố gắng sẽ đạt giải cao trong các kì thi là niềm vinh dự tự hào không chỉ cho mình mà còn cho cả bố mẹ, thầy cô, bạn bè , trường, lớp,…; ngược lại nếu thiếu cố gắng một chút thôi có thể không đem lại kết quả gì. 2/ Lựa chọn đúng đối tượng học sinh: Giáo viên phải đánh giá học sinh một cách khách quan, chính xác, lựa chọn đúng đối tượng học sinh để bồi dưỡng. Việc lựa chọn đúng không chỉ nâng cao hiệu quả bồi dưỡng mà còn tránh được việc bỏ sót những em học giỏi, hoặc chọn nhầm những em không có tố chất theo học sẽ bị quá sức. * Những căn cứ để lựa chọn: + Lựa chọn các đối tượng học sinh thông qua các giờ học: - Những học sinh sáng dạ thường chú ý nghe giảng, hăng hái phát biểu ý kiến, ý kiến thường đúng và có sáng tạo. - Cũng cần phân biệt với những em hăng hái nhưng không thông minh thì thường phát biểu trệch hướng dẫn dắt của giáo viên, có khi không đâu vào đâu. - Ngược lại có những em tuy ít phát biểu nhưng khi gọi tên và yêu cầu trình bày thì những em này thường trả lời chính xác hoặc có những ý hay. + Lựa chọn dựa vào việc chấm, chữa bài: Những em thông minh, chắc chắn thường có ý thức học tập tốt, làm bài đầy đủ, trình bày bài thường chặt chẽ, khoa học và thường có ý thức xung phong chữa bài tập cũ hoặc có ý kiến hay, góp phần cho bài tập phong phú hơn. + Lựa chọn thông qua các vòng thi kiểm tra: - Để việc thi, kiểm tra, đánh giá đúng chất lượng học sinh thì ngoài việc thực hiện đúng quy chế thi cử như: sắp xếp chỗ ngồi (theo thứ tự a,b,c), giám sát.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> chặt chẽ, quán triệt học sinh không được nhìn bài của bạn, đồng thời cũng không để cho bạn nhìn bài của mình; cũng cần chú ý sắp xếp những em hàng ngày ngồi gần nhau thì đến khi thi hay kiểm tra phải ngồi xa nhau. - Khi chấm bài thi, giáo viên cần phải vận dụng biểu điểm linh hoạt. Cần ưu tiên điểm cho những bài làm có sự sáng tạo, trình bày bài khoa học. - Tuy nhiên để việc thi cử, kiểm tra đạt hiệu quả, giáo viên cần phải ra đề trên cơ sở những dạng bài tập đã được ôn và cần có một bài khó, nâng cao hơn đòi hỏi học sinh vận dụng những kiến thức đã học để làm bài. Trên cơ sở đó, giáo viên đánh giá được những em nào có năng lực thực sự trong học tập. - Để đánh giá một cách chính xác và nắm được mức độ tiếp thu cũng như sự tiến bộ của học sinh thì cần tổ chức thi, kiểm tra và sàng lọc qua nhiều vòng. 3/ Xây dựng chương trình bồi dưỡng: Hiện nay, chương trình bồi dưỡng không có sách hướng dẫn chi tiết, cụ thể từng tiết, từng buổi học như trong chương trình chính khóa. Hơn nữa, hầu hết sách nâng cao, sách tham khảo hiện nay không soạn thảo theo đúng trình tự như chương trình học chính khóa, mà thường đi theo các dạng. Trong khi đó, các trường thường tổ chức học sinh vừa học chính khóa vừa phối hợp nâng cao. Vì thế soạn thảo chương trình bồi dưỡng là một việc làm hết sức quan trọng và rất khó khăn nếu như chúng ta không có sự tham khảo, tìm tòi và chọn lọc tốt. Điều cần thiết là giáo viên cần phải nắm vững nội dung, chương trình học, cần phải soạn thảo nội dung dẫn dắt học sinh từ cái cơ bản của nội dung chương trình học chính khóa, tiến tới chương trình nâng cao (tức là, trước hết phải khắc sâu kiến thức cơ bản của nội dung học chính khóa, từ đó vận dụng để nâng cao dần). Cần soạn thảo chương trình theo vòng xoáy: Từ cơ bản đến nâng cao, từ đơn giản đến phức tạp. Đồng thời cũng phải có ôn tập, củng cố. Ví dụ: Cứ sau 2 đến 3 tiết củng cố kiến thức cơ bản và nâng cao thì cần có 1 tiết luyện tập, củng cố và cứ 6 đến 7 tiết thì cần có 1 tiết ôn tập hay luyện tập chung để củng cố khắc sâu. * Cần soạn thảo 1 tiết học có những nội dung sau: - Kiến thức truyền đạt (lí thuyết, ví dụ, …) - Bài tập vận dụng. - Bài tập về nhà luyện thêm (tương tự như bài ở lớp)..

<span class='text_page_counter'>(12)</span> - Cần phải soạn thảo nội dung chương trình cho việc bồi dưỡng đảm bảo thời lượng: Tiết, Tuần, tháng, Học kì, Cả năm. Tuy nhiên, việc soạn thảo chương trình còn tùy thuộc vào mức độ tiếp thu của từng học sinh (làm sao cho các em có thể “tiêu hóa” được). Cần giúp các em tổng hợp các dạng bài, các phương pháp giải. Vì hầu hết các em chưa tự mình tổng hợp được mà đòi hỏi phải có sự hướng dẫn, giúp đỡ của giáo viên. Để các em vững vàng kiến thức, mở rộng được nhiều dạng bài tập thì mỗi dạng bài cần phải luyện tập nhiều lần, đưa ra nhiều cách giải. Đồng thời thỉnh thoảng phải củng cố, tổng hợp lại để khắc sâu. Giáo viên cần phải đầu tư nhiều thời gian, tham khảo nhiều tài liệu để đúc rút và cô đọng nội dung chương trình bồi dưỡng, phù hợp với đối tượng học sinh và thời gian ôn luyện. 4/ Dạy như thế nào cho đạt hiệu quả: Trước hết phải chọn lọc những phương pháp giải dễ hiểu nhất để hướng dẫn học sinh. Không nên máy móc theo các sách giải. Cần vận dụng và đổi mới phương pháp dạy học, tạo cho học sinh có cách học mới, không gò bó, không áp đặt, tôn trọng và khích lệ những sáng tạo mà học sinh đưa ra. Những bài kiến thức mới, giáo viên cần lấy ví dụ và ra bài tập mang tính chất vui chơi để gây hứng thú học tập cho học sinh, đồng thời giúp các em ghi nhớ được tốt hơn. Ví dụ: Ra bài toán vui, bài toán là một bài thơ, bài toán lấy tên học sinh hay đáp số là ngày, tháng có ý nghĩa, đáng ghi nhớ, hoặc lấy ví dụ mang tính chất thực tiễn, dễ hiểu, … Tuy nhiên những bài toán như thế, giáo viên cần tìm hiểu kĩ, thử và kiểm tra kết quả nhiều lần. Giáo viên tung các bài tập cho học sinh phải luôn theo hướng “mở”, có như vậy mới phát huy và làm phong phú sự sáng tạo của học sinh. Hầu hết ở các bài luyện tập, giáo viên chỉ nên gợi mở để học sinh tự tìm ra cách giải, không nên làm thay học sinh, giải cho học sinh hoàn toàn hoặc để cho các em bó tay rồi chữa. Ngược lại, khi chữa bài, giáo viên cần phải giải một cách chi tiết, tỉ mỉ (không giải tắt). Đồng thời uốn nắn những sai sót và chấn chỉnh cách trình bày của học sinh một cách kịp thời. Cần theo dõi và chấm bài làm của học sinh hàng ngày thật kĩ để kịp thời phát hiện, uốn nắn những thiếu sót cho các em..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Một số bài để khắc sâu kiến thức cho các em, giáo viên có thể gợi ý để các em tìm ra nhiều cách giải, hiểu sâu sắc được bản chất của bài toán. Như thế vừa phát huy được tính độc lập sáng tạo của học sinh, vừa gây được hứng thú học tập với các em. Để giúp học sinh học tốt môn toán nói chung và môn toán ở Tiểu học nói riêng, giáo viên cần giúp học sinh nắm bắt và vận dụng quy trình giải một bài toán, phương pháp kiểm tra kết quả vào việc làm toán. + Các bước giải một bài toán: - Bước 1. Đọc kĩ đề (3 - 5 lần), xác định dự kiện đã biết và cái phải tìm rồi tóm tắt bài toán. - Bước 2. Xác định bài toán thuộc dạng nào đã học, tìm tòi cách giải và giải ra giấy nháp. - Bước 3. Thử lại kết quả. - Bước 4. Ghi vào vở rồi đọc lại bài làm. * Các phương pháp kiểm tra kết quả: - So sánh với thực tiễn. - Làm phép tính ngược lại. - Giải theo cách khác. - Thay kết quả vào để kiểm tra. 5/ Phương pháp đánh giá : Trong một số tiết dạy, tôi có thể cho HS đổi chéo bài để tự kiểm tra và đánh giá bài của nhau. Mỗi tuần, mỗi tháng đều có bài kiểm tra tuần, kiểm tra tháng để theo dõi và đánh giá sự tiếp thu bài học và kết quả học tập của các em.Từ đó, tôi có kế hoạch và điều chỉnh cách dạy cho phù hợp. 1.Các nội dung và phương pháp dạy học Toán theo hướng tích cực: 1.1 .Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH vấn đáp kết hợp với một số PPDH khác trong hình thành tri thức mới. Học sinh muốn tiếp thu tri thức mới cần có sự hướng dẫn của giáo viên bắng một hệ thống câu hỏi phù hợp. Giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học nhằm chuyển giao ý đồ sư phạm của thầy thành nhiệm vụ học tập của trò..

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Ví dụ trong bài: “Phép nhân phân số”. Hình thành phép tính nhân của 2 phân số và . Hình thành phép tính nhân của 2 phân số và cho học sinh là một vấn đề mới. nếu giáo viên chỉ giới thiệu quy tắc tính sau đó áp dụng vào luyên tập thì không phát huy được tính tích cực, tư duy, sáng tạo của học sinh. Do đó, giáo viên cần suy nghĩ, chuẩn bị hệ thống câu hỏi phù hợp để hướng dẫn học sinh tiếp thu tri thức mới một cách tích cực, sáng tạo. Với bài học này, giáo viên có thể tổ chức hoạt động dạy học bằng hệ thống câu hỏi sau: Dựa vào cách tính diện tích hình chữ nhật bằng đồ dùng trực quan hãy cho biết x = ? (HS nêu: x = ) Quan sát hình và cho biết 8 là gì của hình chữ nhật mà ta phải tính diện tích? (8 là tổng số ô của hình chữ nhật.) * HS giải thích: Chiều dài HCN bằng 4 ô và được xếp thành 2 hàng nên tính được tổng số ô bằng cách lấy 4 x 2 = 8. - 4 và 2 là gì của các phân số trong phép nhân x ? ( 4 và 2 là tử số của các phân số trong phép nhân x ). - Để tính số ô vuông có trong hình vuông diện tích 1 m 2 ta làm thế nào? ( lấy 5 x 3 = 15 (ô)). - Vậy 5 và 3 là gì của các phân số trong phép nhân x ? ( 5 và 3 là mẫu số của các phân số trong phép nhân x ). - Như vậy, khi muốn nhân hai phân số với nhau ta làm thế nào? ( ... ta lấy tử số nhân tử số, mẫu số nhân mẫu số). - Giáo viên nêu công thức tổng quát: = và yêu cầu học sinh nêu quy tắc nhân hai phân số, sau đó tổ chức: luyện tập, củng cố. 1.2.Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề, kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt động dạy học. Ví dụ trong bài: “ Phép cộng phân số ” ( tiếp theo )..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> * Bài toán: Có một băng giấp màu, bạn Hà lấy băng giấy, Bạn An lấy băng giấy. Hỏi cả 2 bạn lấy bao nhiêu phấn băng giấy màu? ( Toán 4 trang 127 ). Sau khi học xong học sinh biết cách cộng hai phân số khác mẫu số và rèn luyện kỹ năng tính toán cho học sinh. Hướng dẫn giải như sau: Muốn tìm số phần băng giấy của 2 bạn Hà và An đã lấy, cần thực hiện phép tính gì? ( phép cộng: + ). Như vậy, việc yêu cầu học sinh tính tổng hai phân số khác mẫu số là một tình huống gợi vấn đề, là một yêu cầu nhận thức mà học sinh chưa thể giải quyết được bằng vốn kiến thức và kinh nghiệm sẵn có của mình (học sinh chỉ mới biết tính tổng hai phân số có cùng mẫu số). Tuy nhiên nếu học sinh chịu khó suy nghĩ hoặc được giáo viên hướng dẫn tìm cách biến đổi để đưa hai phân số đã cho thành hai phân số có cùng mẫu số (Quy đồng mẫu số) thì học sinh có thể giải quyết vấn đề kết hợp với PPDH vấn đáp để tổ chức hoạt động dạy học hình thành phép cộng 2 phân số khác mẫu số. 1.3. Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH hợp tác theo nhóm nhỏ và kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo, hợp tác của học sinh. Mục tiêu, nội dung bài học yêu cầu hình thành tri thức mới cho học sinh. Tri thức mới đó cần có sự kiểm nghiệm kết quả qua nhiều học sinh khác nhau, cần có sự phát hiện, đóng góp trí tuệ. Tập thể học sinh cần phải đo đạc, thu thập các số liệu điều tra thống kê. Ví dụ bài: Diện tích hình thoi. - Yêu cầu tính diện tích hình thoi ABCD, khi biết 2 đường chéo AC = m, BD = n (hình a) - Để tìm công thức tính diện tích hình thoi theo độ dài 2 đường chéo, học sinh có thể thực hiện theo nhiều cách khác nhau: * Cách 1: Cắt hình tam giác AOD và hình tam giác COD rồi ghép với hình tam giác ABC để được hình chữ nhật AMNC (hình b). Ta có: Diện tích( hình thoi ABCD) = diện tích ( hình chữ nhật AMNC ) = m. =. ..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> * Cách 2: Cắt hình tam giác COB và hình tam giác COD rồi ghép với hình tam giác ABC để được hình chữ nhật MNBD (hình c). Ta có: Diện tích ( hình thoi ABCD ) = diện tích (hình chữ nhật MNBD) ( Hình a ) ( Hình b ) ( Hình c ) Do đó để kiểm nghiệm kết quả, phát huy tính chủ động sáng tạo và tinh thần hợp tác của học sinh. Giáo viên yêu cầu học sinh hợp tác theo nhóm nhỏ để tổ chức hoạt động dạy học. 1.4. Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các bài toán là cơ sở giải loại toán sắp học. Giải các bài toán có tính chất chuẩn bị này, học sinh có thể tính ra được kết quả dễ dàng nhằm tạo điều kiện cho các em tập trung suy nghĩ vào các mối quan hệ toán học và các từ mới chứa trong đầu bài toán: Ví dụ 1: Để chuẩn bị cho việc học loại toán: “Tìm 2 số biết tổng và tỉ số của 2 số đó”. Có thể cho học sinh giải bài toán sau: “ Cô có 30 bút chì, chia thành 3 phần bắng nhau. Bạn nam được 1 phần, bạn nữ được 2 phần. Hỏi bạn nam được mấy bút chì?”. Ví dụ 2: Để chuẩn bị cho việc học loại toán: “Tìm 2 số biết tổng và hiệu của 2 số đó”. Có thể cho học sinh giải bài toán sau: “Hai bạn Nam và Hùng có tất cà 15.000 đồng, Nam có nhiều hơn Hùng 5.000 đồng. Hỏi mỗi bạn có bao nhiêu tiền?”. - Tổ chức cho học sinh làm việc trên đồ dùng học tập: +Mỗi học sinh lấy 15 que tính (tượng trưng cho 15.000 đồng ). Chia bảng con làm 2 phần, phần lớn là số tiền của Nam, phần nhỏ là số tiền của Hùng. +Nam nhiều hơn Hùng 5.000 đồng. Vậy ta lấy 5 que tính cho Nam trước rồi chia đôi phần còn lại:! Học sinh lấy 5.000đồng cho nam trước (đặt 5 que tính vào phần lớn). - Còn mấy nghìn đồng ? (15.000 – 5.000 = 10.000 đồng ). - Vậy chia đều cho 2 bạn, mỗi bạn được mấy nghìn ? ( 10.000 : 2 = 5.000 đồng ). - Bỏ vào hai phần mỗi phần 5.000 đồng ( 5 que tính ) - Vậy Hùng được mấy nghìn ? ( 5.000 đồng ). - Còn Nam được mấy nghìn ? ( 5.000 +5.000 = 10.000 đồng ). - Tương tự hướng dẫn bài toán trên sơ đồ và giải..

<span class='text_page_counter'>(17)</span> 1.5.Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các bài toán phát huy tính trực quan cụ thể trong tư duy của học sinh. Để giải được các bài toán này giáo viên cần triển khai các hoạt động mang tính chất thực tiễn, học sinh phải được thao tác trên đồ dùng trực quan. Từ đó các em sẽ tự phát hiện và tự giải quyết nhiệm vụ bài học. Ví dụ: Trong bài “Phép cộng phân số”. Để hình thành phép cộng hai phân số có mẫu số bằng nhau, giáo viên và học sinh cùng thực hành trên băng giấy – Chia băng giấy thành 8 phần bằng nhau, bằng cách gấp đôi ba lần theo chiều ngang: + Tô màu vào. băng giấy. + Tô màu vào. băng giấy. Nhìn vào băng giấy HS dễ nêu được hai lần đã tô màu được. băng. giấy. Học sinh nêu: + = = . Kết luận: Nêu được cách cộng hai phân số bằng cách lấy tử số cộng với nhau và giữ nguyên mẫu số. 1.6. Khi dạy thực hành luyện tập GV cần lưu ý giúp mọi học sinh đều tham gia vào hoạt động thực hành, luyện tập theo khả năng của mình, bằng cách: – Cho các em làm các bài theo thứ tự trong sách giáo khoa, không bỏ bài nào, kể cả bài dễ, bài khó. - Không bắt học sinh chờ đợi nhau trong khi làm bài. Làm xong chuyển sang bài tiếp theo. - Học sinh này có thể làm nhiều bài hơn học sinh khác: - Ví dụ: Khi dạy bài : “ Tính bằng cách thuận tiện nhất ” - + + = +( + )= + = Có thể một số em vẫn thực hiện theo thứ tự của các phép tính trong biểu thức, ra kết quả đúng nhưng chưa nhanh và chưa hợp lí. Giáo viên nên hướng dẫn học sinh các tính chất đã học của phép cộng để tìm ra cách giải thuận tiện..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Hoặc trong bài luyện tập của phép nhân thì giáo viên phải dẫn dắt học sinh nhớ lại kiến thức đã học đó là: v Tính chất giao hoán của phép nhân. v Tính chất kết hợp của phép nhân. v Tính chất nhân một số với một tổng ( Hoặc một tổng nhân với một số ). v Tính chất nhân một hiệu với một số ( Hoặc một số nhân với một hiệu ). Học sinh phải vận dụng nhanh các tính chất này vào giải toán: Khi nào vận dụng tính chất này, khi nào vận dụng tính chất kia: Ví dụ: 2 10 + 10 5 = 10 ( 2 + 5 ) = 10 10 = 20 ( Áp dụng tính chất nhân một số với một tổng ). 2. Giải pháp đã thực hiện: 1. Đối với học sinh: - Chủ yếu là xây dựng phương pháp học tập và phong cách học kết hợp tự rèn luyện và hình thành mạng lưới học nhóm, học tổ, học bất kì nơi nào, dù ở nhà, ở trường cũng luôn phải nghiêm túc và tập trung trong khi học tập. - Không được bỏ qua hay lơ là dù một bài tập nhỏ, dù một bài tập đơn giản, hay một nội dung ngắn gọn. - Từ kiến thức toán đã học phải rèn luyện kĩ năng thực nghiệm, tư duy, sáng tạo. - Mỗi học sinh đều phải có vở ghi chép những kiến thức trọng tâm của từng phần, từng chương, hoặc ghi chép những công thức, những ý tưởng sáng tạo, những gì mà học sinh cảm thấy cần phục vụ cho việc học môn Toán,… - Mỗi học sinh đều phải có sách Sách giáo khoa, vở, dụng cụ học tập đầy đủ. - Chuẩn bị cho một tiết học, từng đối tượng học sinh được giao nhiệm vụ cụ thể. Trưởng nhóm học tập giúp giáo viên kiểm tra đôn đốc, nhắc nhở bước đầu và có nhiệm vụ báo cáo việc chuẩn bị của các thành viên cho thầy cô giáo. - Trong mỗi bài học mỗi học sinh đều phải thực hành được những phép tính , bài tính (tùy theo đối tượng) để đặt ra yêu cầu thấp hay cao nhằm kích thích sự tập trung và tinh thần hưng phấn của học sinh trong giờ học và nêu ra phát minh mới mà học sinh tìm được. - Chú ý quan tâm đến từng đối tượng học sinh, không để học sinh đứng ngoài lề bài giảng..

<span class='text_page_counter'>(19)</span> 2. Đối với giáo viên: Gồm một chuỗi hệ thống những công việc phải chuẩn bị như trong quá trình lên lớp đó là: - Xác định nội dung yêu cầu kiến thức kĩ năng cần cung cấp truyền đạt và rèn luyện cho học sinh. - Nắm bắt được trình độ, khả năng từng đối tượng để có những yêu cầu đặt ra cho phù hợp. - Nghiên cứu nội dung bài soạn, bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng và Hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học; nghiên cứu sách tham khảo,… để có biện pháp đưa ra PPDH hợp lí và hữu hiệu phát huy tính tích cực của học sinh. - ĐDDH cũng hết sức lưu ý phù hợp với tâm sinh lí của từng đối tượng học sinh, từ ngữ, ngôn ngữ phải trong sáng, rõ ràng, dễ hiểu. Bài soạn phải thay đổi linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực, sự chủ động học tập của học sinh, kích thích mỗi học sinh đều phải tham gia xây dựng bài ngay tại lớp và có nội dung thực nghiệm, phát minh cái mới. Tránh hiện tượng thụ động của học sinh .“ Thầy hướng dẫn, trò tìm tòi nghiên cứu” phát minh cách giảng giải tranh luận và đi đến thống nhất kết quả chung. - Kiểm tra bài học là một việc thường xuyên không thể thiếu dù thời gian và lượng kiến thức nào cũng bố trí kiểm tra đầy đủ để có cơ sở nắm chắc được mức độ hiểu bài của học sinh, củng cố kịp thời kiến thức cũ, khắc sâu kiến thức mới. Đồng thời tổ chức nhiều hình thức trò chơi toán học. - Công tác luyện tâp thực hành là nhiệm vụ hàng đầu trong môn học Toán. Người giáo viên cần phải hướng dẫn gợi ý để các em có điều kiện thực hành và thực nghiệm sáng kiến cái mới. - Mặt khác hết sức coi trọng công việc học nhóm, đôi bạn học tập, học ở nhà của học sinh, khai thác tốt sự hổ trợ, giúp đỡ của bạn bè, của gia đình..

<span class='text_page_counter'>(20)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×