Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Tài liệu Thăng long Hà Nội trong ca dao ngạn ngữ (phần 7) pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 23 trang )

Thăng long Hà Nội trong ca dao ngạn ngữ - 7
Nhà xuất bản Hà Nội - 2002

Giang Quân sưu tầm, biên soạn
(In lần thứ hai có bổ sung, sửa chữa)
Phần 7 - Ca Dao
410. Ngồi vui kể chuyện quê nhà
Rau tươi quả ngọt đồng ta ngoại thành
Làng Đăm cải biếc màu xanh
Làng Hàn cà bát trĩu cành xum xuê
Rau thơm đất Láng quen nghề
Hành tươi Mai Động, Yên Khê đầy đồng
Bắp cải Phù Dực sớm trồng
Yên Mỹ nổi tiếng cà hồng xưa nay
Yên Viên có món măng tây
Lại thêm cải tiếu ngọt thay hỡi mình!
Nhất cay là giống ớt Đình
Nhất thơm là mướp làng Quỳnh, làng Mai
Su hào Quảng Bá hơn ai
Hoa lơ Phú Diễn chen vai trắng ngà
Cải canh mát bãi Duyên Hà
Đông Dư cải nén mặn mà hương quê
Nhật Tân cải trắng ven đê
Muốn thăm cải củ thì về Lĩnh Nam
Tỏi tây, xà lách Xã Đàn
Đạu trạch, đậu vàng, đậu đũa Vĩnh Tuy
Muống non xơ mới Thanh Trì
Rau cần làng Sét xanh rì bờ sông
Bí xanh, bí đỏ đầy đồng
Cổ Loa, Tầm Xá, Nam Hồng chứ đâu
Khoai tây mời tới làng Ngâu


Thôn Quang dưa chuột giữ mầu quê hương.
Vùng rau đã kể tỏ tường
Bây giờ đất quả đưa đường vào thăm
Cam Canh, bưởi Cáo, vải Bằng
Tiếng đồn xưa vẫn còn vang quê nhà,
Chuối Giang Biên, chuối Trung Hà
Sông Hồng, sông Đuống phù sa đắp bồi
Cổ Loa mít chín thơm trời
Thành tiên lại có trám bùi trên cây
Song mai Đông Mỹ quý thay
Rừng dừa Hải Bối khen tay người trồng.
Thôn Văn ngọt nước nhãn lồng
Trưa hè Hoàng Liệt, Bắc Hồng xem dưa
Bưởi đường Vạn Phúc tìm mua
Vườn chanh Trung Phụng hoa đua trắng cành
Tây Hồ quất đỏ trời xanh
Mễ Trì chín mọng cam sành làm duyên
Xuân Đỉnh tốt giống hồng xiêm
Dâu tây ở Dịch Vọng Tiền mình ơi
Nghi Tàm lắm táo, nhiều roi
ổi ngon Quảng Bá, Quỳnh Lôi mời vào
Trung Hà đã quý chanh đào
Lại sai đu đủ ngọt ngào quê ta
Mấy vần chắp nhặt nôm na
Hoa thơm quả ngọt ai mà chẳng yêu.
Mình về ươm hạt cho nhiều
Chiết cành gây giống, sớm chiều ta sang
Trồng cây cho rợp đường làng
Xe rau chạy giữa hai hàng cây xanh
Rau tươi, quả ngọt ngoại thành

Bốn mùa xanh bãi, đỏ cành quê hương.

411. Vừa nghe tàu điện rung chuông
Leng keng đánh thức màn sương Tây Hồ.
Đường vui rộn bánh xe bò,
Lao xao Yên Phụ tiếng hò gọi nhau.
Hỏi mình: - Chuyên chở về đâu
Ngụy trang xanh ngắt một màu thế kia?
Rằng: - Rau Quảng Bá đây mà,
Rau vào xí nghiệp, rau ra chiến trường.
Rau tình, rau nghĩa quê hương
Lại đây, đẩy một đoạn đường hộ rau.


412. Chẳng thơm cũng ngát hoa chanh
Chẳng giỏi cũng gái ngoại thành Thủ đô.
Ra tay chẳng phải tay vừa
Làm chiêm chiêm vượt, làm mùa mùa hơn.
Chăn nuôi vừa khéo vừa khôn
Quanh năm gà lợn xuất chuồng quanh năm.
Thao trường cũng gắng cũng chăm
Veo veo đường đạn thằng băng vòng mười.
Việc quân nào chịu thua người
Cũng tay súng thép giữ trời quê hương.
Điện về điện sáng làng thôn
Cũng tay điều khiển máy bơm máy nghiền.
Siêng làm thì học cũng siêng
Người vào lớp bảy, người lên lớp mười.
Mấy kỳ đấu kiếm, thi bơi
Chưa tài mà cũng khối người vỗ tay.

Đêm chèo giọng hát chưa hay
Vẳng qua sông Đuống đã say sông Hồng.

Bốn mùa tươi áo nâu sồng
Việc nhà việc nước gánh gồng đôi vai.
Trai tài gái đã kém ai
Chẳng thơm cũng ngát hoa nhài hoa chanh.
Chẳng giỏi cũng gái ngoại thành
Gái mà như thế, khối anh giật mình!

413. Rau Lĩnh Nam nấu suông mà ngọt
Bưng bát cơm đơm một muốn hai
Trưa nay vừa bức vừa oi
Hái nhanh cho kịp gửi nơi trận tiền
Cà muối xổi, rau dền, cải trắng
Tuy đơn sơ nhưng thắm tình dân
Sớm chiều em tưới em chăm
Cho rau mượt lá, anh ăn mát lòng
Anh giữ súng phòng không vững chắc
Em trồng rau xanh ngắt trên đồng
Rau tiếp luống, đạn lên nòng
Giặc nào thoát khỏi trong vòng tay ta.

414. Nhắm ai hoa thắm lòng tay
Ngát hương Hữu Tiệp mà say Ngọc Hà.
Hoa thơm dải áo sẻ tà
Thơm thơm lá phiếu của ta của mình.

Nhắn ai ươm ngọn dâu xanh
Tơ vàng Tầm Xá uốn quanh sông Hồng.

Ví dù con bế con bồng
Phiếu tươi nét chữ đẹp lòng cả đôi.

Nhắn ai chèo lái ngược xuôi
Thuyền qua Thái Thủy dừng nơi bến Chèm.
Cắm sào quen lại thêm quen
Hẹn năm ba hẹn: chờ quên phiếu bầu.

Nhắn ai se chỉ bấy lâu
Tây Hồ vấn vít trăm mầu tơ vương.
Có đi chung lối chung đường
Chờ chung lá phiếu mà vương chỉ hồng.

Nhắn ai quê ở bên sông
Phú Viên cau thắm trầu không mấy mùa.
Phiếu bầu buổi sớm hay trưa
Để trầu cau gửi cho vừa lòng ai.

Nhắn lời xin giữ lấy lời
Mừng ngày bầu cử thêm vui xóm làng.
Ước gì nắng đỡ hanh vàng
Để ai nghiêng nón qua làng cùng đi...

415. Ai về Giáp Nhị năm xưa
Chê ao thối đặc, chê mưa ngập làng.
Chê nhà mái dột, vách tàn
Chê lúa mọc mậm đầu làng cuối thôn.
Giờ về Giáp Nhị một hôm
Khen rau muống tốt nhiều hơn lá rừng.


Khen ao lắm cá vẫy vùng,
Khen nhà ngói đỏ như vung hàng nồi!
Khen trường mới dựng xinh tươi, Khen loa đã bắc từng nơi từng nhà.
ấm no vui trẻ vui già
Sản xuất càng mạnh còn là đổi thay.

416. Đố ai đếm được lúa vàng
Để ta tính gạch Bát Tràng xây sân
Sân ta mở rộng mấy lần
Mà sao lúa cứ lấn dần, đòi thêm!

417. Tháng tám nắng rám trái bòng
Bồ không hạt thóc, trông mong từng ngày...
Vui sao tháng tám ngày nay:
Thóc chiêm vừa vợi đã đầy Nam Ninh.

Bén mầu luống cải lên xanh
Ngô thơm mùi nắng để dành riêng hai.
Mới ra mẻ gạch lò ngoài
Nhà ai cuối xóm đã tươi mái hồng.
Đầm trong sen hái vừa xong.
Đầy sân hợp tác sen hong nắng vàng.

418. Quê ta đẹp quất Tây Hồ,
Tơ vàng kén mượt đầy bồ Tứ Liên.
Hữu Hưng dệt lụa hoa hiên
Cò bay bướm lượn in trên lụa đào.
Cam Canh, bưởi Mỗ ngọt ngào,
Mát lòng cải bắp, su hào Trung Kiên.
Mình về Nguyên Xá mà xem

Vườn hồng trĩu quả, chuối nêm kín làng.
Mễ Trì thơm gạo tám xoan.
Dự hương, gié cánh thóc vàng như tơ.
Gửi người dệt bộ bài thơ
Phùng Khoang gấm đẹp còn chờ tay ta.

Cốn Vòng nức tiếng gần xa,
Cau non Dịch Vọng, tiếng gà thôn Viên.
Đường vào Cổ Nhuế vẫn quen
Máy khâu rộn rã, mía chen vai người.
Hai Xuân như đẻ sinh đôi
Cánh diều chung sáo, mương khơi chung đào
Trên mình xanh thắm bí đao
Dưới ta lúa tốt khác nào rừng xanh
Vải thiều đỏ rực đầu cành
Thơm mùi cam Cáo, ngọt canh đậu Giàn.
Xuân La lợn béo bao đàn,
Trắng phau cá lội, dịu vàng khoai tây
Mình về ta nắm lấy tay
Ta dặn câu này mình chớ có quên:
Khỏa chèo mình ngược bến Chèm
Viếng Lý Ông Trọng, hoa chen mái đình
Giò Chèm ai gói xinh xinh
Nắm nem làng Vẽ đậm tình quê hương.
Chuối Sù mập quả trăm vườn
Sang thu hương chuối quện hương cốm Vòng.
Hoa đào dệt lối Nhật Tân
Yêu quê hoa nở đầy sân lụa đào.
ở đâu hợp tác công cao
Rẽ vào Quảng Bá xem nào đâu hơn.


Rau xanh kín bãi kín vườn
Hương sen thoang thoảng cho thơm tóc mình
Tung tăng đàn cá lượn quanh
Ta giăng lưới bạc rung rinh mặt hồ.
Quên sao giấy điệp Nghĩa Đô
Tiếng chày nện sợi, câu hò nhặt khoan
Ai xeo cho giấy mịn màng
Đẹp màu tranh mới xuân sang quê nhà.
An Phú dẻo kẹo mạch nha
Lợn hồng da mượt như là trong tranh.
ở đâu thơm húng thơm hành
Có về làng Láng cho anh theo cùng
Theo ai vai gánh vai gồng
Rau xanh níu gót bóng lồng sông Tô.
Trời cao lồng lộng sao cờ
Phi lao vi vút đôi bờ Nhuệ Giang
Trập trùng nhà máy công trường
Đỏ tươi mái ngói, mây vờn khói bay.
Lòng ta như tỉnh như say
Mình nghe! Kìa tiếng máy cày xa xa...
Quê ta đẹp lắm quê ta
Trăm mầu nghìn sắc quê nhà: Từ Liêm.

419. Hà Nội là trái tim ta
Trái tim đất nước, gần xa giữ gìn.
Mày mà đụng đến trái tim,
Sóng căm thù sẽ nhận chìm mày ngay.
Đã chôn hăm mốt máy bay
Vẫn còn sẵn hố đợi mày ở đây


420. Hai ngày rụng sáu máy bay
Chết cha thằng Mỹ hai ngày lỗ to!
Như gà phải gió
Như chó bị mưa
Mặt mày ngơ ngác như cua gãy càng.
Cua gãy càng lang thang bụi cỏ,
Tổng Giôn ngồi như chó cụt đuôi.
Leo vào Hà Nội mà chơi
Gãy càng còn lắm, cụt đuôi còn nhiều!

421. Giặc Mỹ mò vào Thủ đô
Như cá vào trúm như cua vào lờ
Cá vào trúm nằm trơ thân cá
Cua vào lờ đừng có hòng ra
Trận thì rơi bốn
Trận thì rụng ba
Năm mươi tư chiếc đã ra đất bùn.

422. Vỉ ruồi lốm đốm là “con ma” ép bốn
Tiếng rít như lợn là thằng “thần sấm” ep trăm linh năm
ép gì thì ép
Thần gì thì thần
Năm mươi tư chiếc
Tao ep dưới chân
Tao còn đang đợi ép thần một trăm!

423. Hoan hô sông Đuống sông Hồng
Khép vành đai lửa phòng không diệt thù.
Cháu con Thánh Gióng rất cừ

Quật rơi bốn quạ đứ đừ chết ngay.
Tóm cổ giặc lái máy bay
Giỏi đi rong phố, biết tay anh hùng.

424. Trên trời trăng sáng như gương
Dưới trời đèn thắp đỏ đường số Năm
Vui như tháng tám hội rằm.
Rào rào tiếng cuốc tiếng đầm hòa vang.
Ta đào hầm hố sẵn sàng
Như ngày kháng chiến cả làng đánh Tây.
Giặc Mỹ mà lẻn vào đây.
Người chôn xác lũ chúng mày là ta!
Rộn ràng tiếng cuốc gần xa,
Hố sâu theo nhịp lời ca câu hò.
Giặc Mỹ mày còn thua to.
Thua từ nhát cuốc, câu hò thua đi.

425. Bom nào dọa nổi Gia Lâm
Lửa cao cháy bỏng hờn căm trong lòng.
Chiến công thôi thúc ruộng đồng
Đường bừa chống Mỹ trâu vòng thêm nhanh.
Mau lên tay cấy lúa xanh,
Thép mai thủy lợi, biến thành nhát gươm.
Tay cày tay súng căm hờn
Đánh cho giặc Mỹ rụi xương đất này.

426. Nghe đồn mình giỏi làm bèo,
Tiền Phong, Thuận Tốn mình theo kịp rồi.
Quê ta đang kén một người,
Nuôi bèo mùa nực muốn mời mình sang.

Mình - thanh niên ba sẵn sàng,
Chẳng lo xa xóm lạ làng mà chê.
Mình sang ta đẵn thêm tre,
Đóng xe Bốn Bắc khi về tặng theo.
Phải đâu vì quê mình nghèo,
Đôi vai giải phóng chưa theo kịp người.
Xe này chả đáng mấy mươi,
Mình muốn học đóng, ta thời chỉ cho.
Có bèo, lúa tốt bông to,
Có xe thêm sức vui mùa lập công.
Quê ta chống Mỹ, chung lòng,
Đánh giặc trên đồng, kinh nghiệm giúp nhau.

427. Thạch Bàn năm ngoái tốt đay
Đay trồng chống Mỹ năm nay tốt nhiều.
Năm ngoái mậu dịch trói heo
Sợi mành đay đứt nó kêu váng đồng.
Năm nay trói giặc phi công
Quấn mấy mươi vòng chẳng phải nối thêm!

428. đay Cầu Bây tưởng cây tre mọc,
Ngô To Khê vượt nóc đình làng.
Cá Sủi sánh với quạt nan,
Cà Hàn quả tựa bát đàn, kém chi!
Rau Gióng mơn mởn xanh rì
Khiến xe mậu dịch đi về ngày đêm.
Lợn thôn Hội đánh tiếng ghen
Kêu lên, các huyện bốn bên giật mình!

429. Cầu Long Biên qua trái về phải

Bãi sông Hồng thoai thoải ngàn dâu.
Qua sông nhớ mấy nhịp cầu
Được tằm nhờ mấy lứa dâu sông Hồng.
Nhớ công mẹ bón em trông
Tằm lai tốt giống, dâu trồng tốt phân.
Trăng ngà rải lụa sóng Ngân
Tơ vàng mượt bóng lụa vân sông Hồng.

430. Guồng ươm vang khắp gần xa
Vang lên Ngọc Thụy vang qua Bồ Đề.
ầm ầm pháo chuyển trên đê
Sông Hồng chảy réo vẫn nghe tiếng guồng.
Khách đi ngơ ngẩn trên đường
Hỏi đây nhà máy hay trường luyện kim?
- Thạch Cầu chính thực thôn em
Nghề tằm, tay ngọc vốn quen se vàng.

431. Bèo lan khắp cánh đồng Cầu,
Như ai ném cốm đậm mầu xanh xanh.
Gió đưa bèo cuốn vòng quanh,
Bèo ôm chân lúa, lúa xanh che bèo.
Nhờ hôm rét rúm vẳng mèo,
Chân lội xuống nước, rét trèo tận tai.
Tổ bèo không vắng một ai
Ngại chi sương ướt áo ngoài, vẫn tươi.
Những chiều hanh nứt làn môi,
Hết san lại vỗ gấp đôi mọi ngày.
Tin về bắn rụng máy bay,
Bèo ôm kín ruộng, nở đầy đồng ta.
Đồng Cầu ai có thăm qua,

Túi rong mang nặng lời ca tổ bèo.

432. Người đi những ngắm cùng trông
Chị Học đi học, học không ngại ngùng
Vào Thanh học đắp bờ vùng,
Xuống Phòng xin giống chiêm Phòng về gây.
Sang Đào học cấy chăng dây,
Lên Xuân Đỉnh học vung tay ươm bèo.
Chị đi làng xóm trông theo
Chị về Thuận Tốn lúa reo rộn ràng.
Tiếng đồn chị Học đảm đang
Đi một ngày đàng học mấy sàng khôn.

433. Tằm ơi tằm cứ ngủ say
Tan nhà, lấy lá thưng dầy ta che.
Ta làm nhà mới tằm nghe
Buồng tằm có cả mành tre, láng sàn.
Thiếu dâu ta xuống Quảng An,
Ta về Tứ Tổng, ta sang Bắc Cầu.
Ngủ rồi tằm dậy ăn dâu
Vương đầy bụng kén, khắc sâu căm thù.

434. Bạc màu là đất Đông Anh
Làm theo lời Bác vẫn xanh ruộng đồng.
Tưng bừng trống giục, cờ giong
Con mương chống Mỹ, bờ vùng “đảm đang”.
Ai về Dục Tú tham quan
Khen đây thủy lợi gần ngang Phương-Trù.
Ai về thăm Cổ Loa xưa
Thi đua nuôi lợn giỏi như thôn Nhồi.

Nghìn năm mơ ước đây rồi
Thay chân giã gạo, thay trời làm mưa.
Điện về, máy chạy sớm trưa.
Mẹ già sáng mắt, con thơ sáng lòng,
Kim Chung, Uy Nỗ, Nam Hồng...
Đôi vai nhẹ gánh, thêm công cày bừa.
Nhớ sao nhớ mãi năm xưa
Bác về thăm huyện đến giờ chưa quên
Chưa quên lời hứa - niềm tin
Đã ghi vào dạ, đã in vào lòng
Sao cho đồi bãi, ruộng đồng
Thành vựa thóc lúa, thành rừng cây xanh.
Bạc màu là đất Đông Anh
Làm theo lời Bác, đất thành tốt tươi.

435. Đường hào luồn giữa xóm Đình,
Xuyên qua xóm Nội uốn quanh xóm Hà.
Súng trường đón hướng cây đa,
Đại liên ngóc cổ vươn ra phía cầu
Đường hào, ụ súng nối nhau
Giữ đồng lúa thắm, giữ bầu trời xanh.
Đất này là đất Đông Anh
“Thần sấm” mà đến sẽ thành... thần thiêu!

436. Thấy em là gái Thụy Lôi
Chăn nuôi dù khó gấp mười vẫn chăn
Mới đầu lợn thiếu thức ăn
Như trâu đòi cỏ, như tằm đói dâu
Quê em giờ đã dẫn đầu
Lợn nuôi trên đất bạc màu vẫn to.

Anh về năm liệu bảy lo
Thời này nuôi lợn không to cũng hèn!

437. Sương reo lắc rắc cành tre,
Mặt hồ lấp lánh sao khuya đỉnh trời.
Đoàn trâu đủ mặt đây rồi,
Tỏa trăm mặt ruộng sục sôi bùn lầy.
Trâu ơi! Ta bảo trâu này,
Quê ta giặc bắn ban ngày ban đêm.
Căm thù giặc Mỹ chất thêm
Cùng trâu tranh thủ làm đêm làm ngày.

Trâu ờ trâu ơi.
Thuở xưa Thành ốc ta xây.
Nỏ thần ta bắn tan thây quân thù.
Ngày nay vâng lệnh Bác Hồ,
Cổ Loa rầm rập tiếng hò xuất quân.

Trâu ờ trâu ơi.
Cày đêm, trâu chớ ngại ngần,
Đất này dâng thóc theo chân anh hùng.
Vầng dương sáng tỏa phía đông,
Bác Hồ chắc cũng đèn chong đêm dài.
Mùa này thắng Mỹ, thắng trời,
Lại nghe tiếng Bác ấm vui quê nhà.
Bác vừa kêu gọi hôm qua,
Sáng nay ruộng đã thấm ba lượt cày.

438. Xách khoai ra đến làng Sằn,
Nhìn khoai, mấy chị cứ lăn ra cười:

- Khoai đâu to quá bình vôi?!
Thưa rằng: “Khoai của xóm Nhồi mẹ cho.
Năm nay khoai được mùa to
Sào gần bảy tạ ních kho, chật nhà”.
Xách khoai mỏi cánh... ái chà!
Nặng như đạn pháo, khoai ra chiến trường.

439. Anh vươn đôi cánh che dâu
Em canh tằm ngủ cho sâu cho già
Kẻ thù đến phá quê ta
Anh như én bạc, em là pháo binh
Quê em Tằm Xá, Đông Anh
Tơ vương mát lối, cửi canh rộn nhà
Bắn tan “thần sấm”,
Nghiêng cánh anh qua
Bóng anh soi bóng lụa là quê em.

440. Ai về Dục Tú cùng em
Mà ngắm bờ thửa, mà xem bờ vùng.

×