Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

BAI THU HOACH BDTX 20132014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.17 KB, 28 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>TRƯỜNG TIỂU HỌC VÕ THỊ SÁU TỔ 4. CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM. Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Ea Rốk, ngày … tháng 4 năm 2014. BÀI THU HOẠCH BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN NĂM HỌC 2013 – 2014 Họ và tên: Phạm Văn Bảy Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường tiểu học Võ Thị Sáu Ngày sinh: 1982 Ngày vào ngành: 2004 Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm. Chuyên ngành: Giáo dục Tiểu học. Mô đun TH1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TÂM LÍ HỌC DẠY HỌC Ở TIỂU HỌC 1. Tâm lí học về sự phát triển trí tuệ học sinh tiểu học: a. Khái niệm trí tuệ: - Trí tuệ là vấn đề phức tạp của cả Triết học, Tâm lí học và Giáo dục học. Ở đây, chỉ xem xét trí tuệ dưới góc độ Tâm lí học và Giáo dục học. Cũng như nhiều khái niệm vốn có còn mang nặng màu sắc “đời sống”, thuật ngữ “trí tuệ” cũng được hiểu theo nhiều cách khác nhau. - Trí tuệ biểu hiện ra nhiều mặt và liên quan đến nhiều hiện tượng tâm lí khác nhau. Trí tuệ có thể biểu hiện ở mặt nhận thức như nhanh biết, nhanh hiểu, mau nhớ hoặc biết suy xét, tìm ra nhanh các quy luật, có óc tưởng tượng phong phú, hình dung ngay và đúng điều người khác nói, đến hành động nhanh trí, sáng tạo tháo vát, linh hoạt; đến các phẩm chất: óc tò mò, lòng say mê, sự kiên trì miệt mài. b. Những đặc điểm của trí tuệ: - Nhận thức được đặc điểm bản chất của tình huống mới do người khác đưa ra hoặc tự mình nêu ra vấn đề cần giải quyết. - Sáng tạo công cụ mới, phương pháp mới, cách thức mới, phù hợp với hoàn hoàn cảnh mới (tất nhiên trên cơ sở những tri thức và kinh nghiệm tiếp thu được trước đó). Do đó, trí tuệ không chỉ bộc lộ qua nhận thức mà qua cả hành động. Đa số các hành động đều được tổ chức trong óc trước khi đưa vào thực hiện. c. Một vấn đề về hình thành trí tuệ: - Thực chất của việc hình thành trí tuệ là phát triển năng lực suy nghĩ, sáng tạo mà bước đầu là nhận thức “bài toán”, giải các “bài toán” thực tiễn ở các mức độ khác nhau. - Việc hình thành và phát triển trí tuệ phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, thống nhất và có hệ thống đặc biệt khi trẻ em ở tiểu học..

<span class='text_page_counter'>(2)</span> - Hình thành và phát triển trí tuệ không tách rời việc rèn luyện năng lực quan sát, phát triển trí nhớ. - Hình thành trí tuệ phải đi song song với việc giáo dục tình cảm đẹp, rèn luyện ý chí và bồi dưỡng những phẩm chất khác của nhân cách. - Muốn hình thành trí tuệ cho trẻ em, đặc biệt ở bậc Tiểu học, cần phải thay đổi cấu trúc, nội dung tài liệu dạy học. Trong dạy học nếu nội dung còn là những trí tuệ cũ, có tính chất kinh nghiệm chủ nghĩa thì dù phương pháp giảng dạy có được đổi mới, thì cũng không ảnh hưởng đến sự phát triển trí tuệ của học sinh. Phải xây dựng nội dung dạy học sao cho nó không phải “thích nghi” với trình độ sẵn có của trẻ, mà đòi hỏi trẻ phải có trình độ cao hơn, có phương thức hoạt động trí tuệ phức tạp hơn. Nếu trẻ thực sự nắm được nội dung thì đó là chỉ tiêu rõ nhất về trình độ trí tuệ của trẻ. - Tất cả giáo viên đều có nhiệm vụ và có thể góp phần vào việc phát triển trí tuệ của học sinh bằng cách tạo ra các điều kiện để học sinh suy nghĩ chủ động, độc lập sáng tạo trong việc đề ra và giải quyết các “bài toán” nhận thức và thực tiễn. Nhiệm vụ này cần được thực hiện thường xuyên, liên tục và có hệ thống trong từng giờ lên lớp 2. Tâm lí học về sự hình thành kĩ năng học tập của học sinh tiểu học: a. Sự hình thành kĩ năng: - Kĩ năng là khả năng vận dụng kiến thức để giải quyết một nhiệm vụ mới. Việc hình thành kĩ năng phụ thuộc vào nội dung của nhiệm vụ, bài tập…Thực chất của sự hình thành kĩ năng là hình thành cho học sinh nắm vững một hệ thống phức tạp các thao tác nhằm làm sáng tỏ và làm biến đổi những thông tin chứa đựng trong bài tập. Giúp học sinh hình thành mô hình khái quát để giải quyết các bài tập . - Kĩ xảo là hành động đã được củng cố và tự động hóa. Kĩ xảo ít có sự tham gia của ý thức, nhưng ý thức luôn thường trực để xuất hiện kịp thời khi có vấn đề. Các động tác thừa và phụ bị loại trừ, những động tác cần thiết ngày càng chính xác hơn, nhanh hơn tiết kiệm năng lượng và thời gian, đảm bảo chất lượng tốt. - Kĩ xảo không gắn với một tình huống cụ thể, có thể di chuyển dễ dàng tùy theo mục đích và tính chất của hành động. Muốn hình thành kĩ xảo cho học sinh thì cần phải làm cho học sinh hiểu biện pháp hành động. Luyện tập thường xuyên để trở thành hành động tự động hóa, thói quen. b. Một số kĩ năng, kĩ xảo cần có của học sinh tiểu học: - Những kĩ năng, kĩ xảo học tập gồm những kĩ năng, kĩ xảo: đọc, viết, tính toán... Trong đó, đọc là hoạt động phức tạp đối với học sinh lớp 1. Kĩ xảo viết cũng không phải đơn giản, đòi hỏi các em phải nắm quy tắc chính tả, tự động hoá mọi động tác, kiểm tra nhanh và tinh những chữ đã viết, đồng thời tiếp tục viết những chữ mới... - Những kĩ năng, kĩ xảo lao động: chủ yếu là lao động tự phục vụ, lao động đơn giản như kĩ năng kĩ xảo sử dụng các công cụ lao động... - Những kĩ năng, kĩ xảo vệ sinh như biết đánh răng rửa mặt... - Những kĩ năng, kĩ xảo về hành vi như các kĩ năng, kĩ xảo đi đứng, ngồi ngay ngắn, biết ra vào đúng lối, biết cách chào thầy cô giáo....

<span class='text_page_counter'>(3)</span> c. Một số yêu cầu đối với việc hình thành kĩ năng, kĩ xảo và thói quen : - Làm cho học sinh ham thích luyện tập. Luyện cho học sinh có thói quen giữ vở sạch viết chữ đẹp, vượt khó trong học tập. - Làm cho học sinh hiểu được cách thức luyện tập. Khi hướng dẫn một hành động hoặc một công việc gì đó cho học sinh đòi hỏi giáo viên phải nghiên cứu tỉ mỉ để hướng dẫn từng thao tác sau đó mới luyện tập cho nhanh cho khéo - Cần phải chỉ ra kịp thời những sai sót của học sinh. Những chỉ dẫn của giáo viên về những sai sót trong phương pháp hành động và sự đánh giá mức độ phù hợp giữa kết quả đạt được với mục đích đề ra có ý nghĩa quan trọng. Biết kết quả và hiểu nguyên nhân của sự sai sót trong hành động là một trong những điều kiện chủ yếu để chuyển từ kĩ năng sang kĩ xảo nhanh chóng. - Phải tiến hành luyện tập có hệ thống và liên tục, việc luyện tập phải đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Ví dụ: Từ chỗ dạy cho các em đọc được, đọc đúng đến đọc lưu loát và diễn cảm - Phải kiểm tra và đánh giá kết quả luyện tập. Khi luyện tập giáo viên phải theo dõi, uốn nắn kịp thời những sai sót của học sinh ngay từ đầu. Quan trọng giáo viên phải làm đúng mẫu. Sau đó để các em tự làm và giáo viên theo dõi đánh giá. Điều quan trọng là giáo viên phải dạy cho các em tự kiểm tra, dần dần sẽ hình thành thói quen tự kiểm tra, tự đánh giá hành động của mình. - Phải củng cố những kĩ năng kĩ xảo và thói quen đã được hình thành. Ở tuổi học sinh tiểu học, kĩ năng kĩ xảo, thói quen dễ hình thành nhưng chưa bền vững nên việc củng cố kĩ năng, kĩ xảo là một điều cần thiết. 3. Tâm lí học về giáo dục đạo đức học sinh tiểu học: a. Khái niệm về đạo đức: - Trong quá trình quan hệ qua lại với nhau và với xã hội con người đã đưa ra yêu cầu cho bản thân, nó được diễn đạt bằng những mệnh đề hay một thuật ngữ nào đó và được gọi là những chuẩn mực đạo đức. - Đạo đức là hệ thống những chuẩn mực biểu hiện thái độ đánh giá quan hệ giữa lợi ích của bản thân với lợi ích của người khác và của xã hội. b. Vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học: - Giáo dục đạo đức cho học sinh là một trong những nhiệm vụ của nhà trường tiểu học hiện nay. Nó có một ý nghĩa chiến lược quan trọng. Bởi lẽ: “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”. Cùng với gia đình, xã hội, nhà trường có trách nhiệm phải chăm lo giáo dục đạo đức cho học sinh. - Muốn giáo dục học sinh thì phải hiểu học sinh, giáo viên chỉ có thể hiểu được học sinh khi người giáo viên biết tôn trọng và gần gũi học sinh. Những lời than phiền người lớn không hiểu trẻ em từ phía trẻ em không phải là không có lý. Sự vội vàng, không biết lắng nghe, không muốn tìm hiểu những gì đang diễn ra trong thế giới nội tâm của học sinh, mà chỉ tin tưởng một cách tự mãn vào kinh nghiệm của mình chính là nguyên nhân tạo nên hàng rào tâm lý ngăn cách giữa nhà giáo dục với trẻ em và chính những yếu tố này góp phần tạo ra khảnăng “tự vệ tâm.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> lý” mà thể hiện rõ nhất ở tính bất cần, sự hung hăng, sự không tiếp nhận... của trẻ em với người lớn kể cả những người thân như cha mẹ, anh chị em... - Cung cấp những tri thức đạo đức cho học sinh. Giáo viên phải cung cấp cho các em tri thức đạo đức về: hiểu biết đạo đức, nghĩa vụ, bổn phận, trách nhiệm phải làm, về thái độ phải có... Đây là một khâu quan trọng của giáo dục đạo đức. Việc làm này có tác dụng làm cho đạo đức của học sinh được xây dựng trên cơ sở lý trí, từ đó các em có thể nhìn ra và đánh giá được cái thiện, cái ác, cái xấu, cái cao thượng, cái nhỏ nhen, cái ti tiện. Giáo dục đạo đức cho trẻ thông qua các giờ học môn đạo đức, môn tự nhiên xã hội, hoạt động ngoài giờ chưa đủ làm cho những tri thức hiểu biết về chuẩn mực đạo đức bắt rễ sâu vào trí tuệ của học sinh, chứ đừng nói đến việc hình thành tình cảm đạo đức, động cơ đạo đức và niềm tin đạo đức... Đồng thời, các môn học khác của nhà trường cũng phải góp phần cung cấp những tri thức về đạo đức cho học sinh. - Biến tri thức đạo đức thành niềm tin và tình cảm đạo đức, đồng thời chú trọng học tập hành vi đạo đức và thói quen đạo đức. Muốn biết tri thức đạo đức thành niềm tin và tình cảm đạo đức không thể không tìm mọi cách tác động vào tình cảm đạo đức và ý chí học sinh. Tác động vào tình cảm, sự học tập, thái độ và chuyển được tri thức đạo đức thành niềm tin đạo đức. Việc tổ chức cho học sinh tiếp xúc với người thực, việc thực, với chính chủ thể của các hành vi đạo đức có thật sẽ tác động nhiều hơn so với lý thuyết dài dòng, khô khan, cứng nhắc về những điều phải làm và không làm được. Việc thực và người thực có khả năng đi thẳng vào niềm tin của mỗi học sinh, của nhóm và tập thể mà học sinh là thành viên. Những hành vi đó là mẫu mực để học sinh noi theo. - Tận dụng tác động tâm lý của nhóm, tập thể, trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội thể hiện một thái độ đánh giá của xã hội. Kinh nghiệm đạo đức của nhóm và tập thể được xem là chuẩn mực đạo đức xã hội đối với các em. Học sinh có thể tham gia vào các nhóm khác nhau, nhưng trong phạm vi nhà trường thì có thể kể ra 3 nhóm chính: tổ học tập (lớp), chi đội và nhóm học sinh ở nơi ở. - Việc giáo dục đạo đức cho học sinh, giáo viên phải biết tìm ra những tình huống trong cuộc sống thực tế để các em lựa chọn giải pháp, phân tích, phê phán, cổ vũ và cuối cùng giáo viên đưa ra kết luận. Cách làm này có sức khắc sâu, lắng đọng và tâm hồn các em. **=**=**=**=** Mô đun TH7 XÂY DỤNG MÔI TRƯỜNG HỌC TẬP THÂN THIỆN A. Nội dung: Xanh – Sạch – Đẹp và an toàn. * Giải thích một số khái niệm: 1. Thế nào là trường học xanh, sạch, đẹp và an toàn? Xanh, sạch, đẹp và an toàn cho học sinh là những yêu cầu quan trọng của một môi trường thân thiện trong trường học, cụ thể là:.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> - Có nhiều cây xanh, thường xuyên được chăm sóc và bổ sung. Khuôn viên nhà trường, các nhà làm việc, lớp học, phòng bộ môn, sân chơi, nhà vệ sinh… lúc nào cũng được giữ sạch sẽ, đảm bảo yêu cầu cảnh quan sự phạm. - Học sinh được giáo dục cách sống khoẻ mạnh và có sự hỗ trợ về y tế, về tâm lý. - Học sinh được đảm bảo sự an toàn về thể xác và tinh thần. Không có bạo lực trong nhà trường và ngoài khu vực trường học, cũng như những hiện tượng lăng mạ, sỉ nhục làm tổn thương đến danh dự và lòng tự trọng của học sinh. Trường học XSĐ&AT đã thật sự tạo ra môi trường học tập, sinh hoạt, vui chơi an toàn, thú vị, hấp dẫn đối với học sinh và giúp các em càng thêm yêu quý trường lớp, thầy cô, bạn bè. Nhiều ngôi trường đã để lại những dấu ấn và kỷ niệm đẹp trong lòng học sinh bởi những lối đi dưới hàng cây râm mát, những bồn hoa, thảm cỏ xanh tươi nhìn ra từ cửa sổ lớp học mỗi ngày. Trường học XSĐ&AT còn có ý nghĩa thiết thực trong việc giáo dục học sinh có ý thức, có thói quen giữ gìn bảo vệ môi trường và tạo sự lan tỏa đến môi trường gia đình cộng đồng các em đang sống, đồng thời góp phần hình thành mầm mống nhân cách tốt đẹp và lối sống văn minh, văn hóa cho thế hệ trẻ ngay từ tuổi học đường. Vừa qua, các cấp quản lý giáo dục, đặc biệt là những thầy cô hiệu trưởng đã quan tâm việc làm này, xem đây là nhiệm vụ quan trọng trong từng năm học. Tuy nhiên trong thực tế, một số trường vẫn chưa tạo được cảnh quan môi trường tốt đẹp để cuốn hút học sinh. 2. Thế nào là Xanh? - Trồng cây có bóng mát như: bằng lăng, phượng, xà cừ, me tây, móng bò, keo tai tượng,… Chú ý trồng loại cây có tán, bóng mát nhiều mùa; không trồng cây có nhiều sâu hoặc có vỏ, lá, hoa chứa chất độc hại và có mùi khó chịu. - Trồng một ít cây cảnh, chậu cảnh như: tùng, sứ, cau cảnh, gừa tàu, mai chấn thủy, nguyệt quế, … - Có thể trồng cây bụi mọc tự nhiên được cắt tỉa chu đáo. - Trồng cỏ: Trồng thành thảm cỏ hình vuông, hình chữ nhật, trồng thành hàng dài hai bên lối đi; trồng dưới gốc cây bóng mát … (chọn loại cỏ dễ trồng và dễ kiếm ở địa phương như: cỏ đậu phộng, cỏ lông heo …) để học sinh có thể chơi đùa được. Chú ý độ bao phủ cây xanh trong sân trường tối thiểu khoảng 40%, thảm cỏ khoảng 25 – 30%. Hạn chế bê tông hóa sân trường. 3. Thế nào là Sạch? - Xử lý rác thải: Thùng rác có nắp đậy, để ở hành lang và sân trường với vị trí thuận lợi cho học sinh sử dụng. Nếu có điều kiện, có thể phân loại rác theo 3 nhóm (các loại giấy vụn; nhựa ni lông, kim loại; lá cây, trái cây) - Xử lý hệ thống cống rãnh, nước thải: Xử lý ngầm chống mùi hôi; cống rãnh phải có tấm đậy an toàn, không có hố nước đọng gây ô nhiễm và muỗi sinh sản. - Có nguồn nước sạch: Đủ nước uống cho học sinh hàng ngày (bình nóng lạnh, bình nước khoáng, bình nước đun sôi để nguội…); nước rửa mặt, tay chân cho học sinh trước khi vào lớp học (khoảng 10 vòi cho 300 học sinh). - Giải quyết tốt khu vệ sinh: Nhà vệ sinh phải thoáng mát, đủ ánh sáng, có mái che và lối đi sạch sẽ nối với hành lang lớp học. Có thể chọn trồng một ít cây.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> cảnh xung quanh khu vực vệ sinh để tạo cảm giác nhẹ nhàng và ý thức sử dụng bảo quản cho học sinh. Chú ý hố tiêu, hố tiểu đáp ứng đủ cho số lượng học sinh sử dụng, không có mùi hôi, có thể sử dụng máng tiểu bằng loại tôn inox để dễ giội rửa. Cần tách riêng nhà vệ sinh giáo viên và học sinh. - Xử lý tiếng ồn: Sắp xếp bố trí hợp lý về thời gian, vị trí sân chơi bãi tập, phòng học, phòng làm việc, giờ ra chơi, giờ học nhạc, giờ chuyển tiết để đảm bảo cho hoạt động dạy học và sinh hoạt của trường diễn ra một cách thuận lợi và hiệu quả. - Đảm bảo bầu không khí trong lành không bị ô nhiễm trong sân trường, lớp học. 4. Thế nào là Đẹp? Trước hết phải tạo được môi trường xanh và sạch, có cảnh quan hài hòa và tính thẩm mỹ trong mô hình kiến trúc tổng thể. Trường có quy hoạch hợp lý, đảm bảo sự phát triển bền vững trong quá trình xây dựng cơ sở vật chất cảnh quan môi trường. Một số bồn hoa với nhiều màu sắc rực rỡ sẽ làm tăng vẻ đẹp của trường, chọn trồng loài hoa nở được nhiều mùa trong năm. Xây dựng những quy định, biểu bảng, áp phích về nếp sống văn minh, lối sống tiết kiệm để nhắc nhở học sinh chú ý thực hiện. Trang phục học sinh cần giản dị, gọn gàng, sạch sẽ, màu sắc không loè loẹt. Áo trắng quần xanh là trang phục tương đối trung hoà phù hợp với học sinh phổ thông, được nhiều người đồng tình chấp nhận. Đồng phục học sinh có thể thực hiện theo trường, theo lớp, theo ngày, theo mùa. Có môi trường bạn hữu thân thiện giữa học sinh với học sinh, học sinh với thầy cô giáo, giữa học sinh với cây xanh thảm cỏ bồn hoa, bàn ghế, lớp học, sân trường. 5. Thế nào là an toàn? An toàn được thể hiện qua các yêu cầu và quy định: phòng chống học sinh đánh nhau, bạo lực; phòng chống điện giật, cháy nổ; phòng chống ngộ độc, đuối nước, té ngã; phòng chống tai nạn giao thông; có lối đi của xe lăn từ sân trường vào hành lang lớp học cho học sinh khuyết tật; độ cao bàn ghế phù hợp và phòng học đủ ánh sáng để giảm thiểu bệnh cong vẹo cột sống và cận thị trong học sinh. B. Giải pháp thực hiện trường học Xanh – Sạch – Đẹp và an toàn. I. Các bước thực hiện: - Hướng dẫn cho học sinh học tập và thực hiện việc giữ gìn vệ sinh cá nhân hàng ngày như thường xuyên tắm, gội, rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn cũng như sau khi đi vệ sinh …Và thường xuyên theo dõi kiểm tra trong các giờ sinh hoạt lớp. - Song song với những biện pháp chăm sóc cảnh quan và giữ gìn vệ sinh trường học, nhà trường cần tăng cường giáo dục học sinh bằng một số hình thức khác như : pano, áp phít bằng những câu khẩu hiệu hành động. - Hàng ngày giao cho đội sao đỏ có nhiệm vụ kiểm tra và thúc nhắc các lớp làm vệ sinh đúng thời gian quy định, nếu ngày nào sân trường dơ bẩn nhà trường sẽ trừ điểm thi đua của đội sao đỏ. Từ đó đã giúp nhà trường quản lý tốt phong trào xanh, sạch, đẹp được thường xuyên . - Hướng dẫn, tổ chức cho học sinh tham gia một số trò chơi dân gian gần gũi với địa phương đã tạo cho học sinh khả năng tự rèn, nhanh nhẹn, chịu khó như: bịt.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> mắt bắt dê, chơi ô ăn quan, giựt cờ, nhảy dây, bắn bi, v.v…và cuối mỗi học kỳ vào các ngày sinh hoạt ngoại khóa chung toàn trường nhà trường cần tổ chức cho học sinh tham gia thi các trò chơi theo đợn vị khối lớp và trao giải thưởng cho những học sinh có thành tích cao trong các trò chơi, nhờ đó mà trong nhà trường học sinh thường xuyên tập luyện và tham gia các trò chơi một cách tự giác . - Ngoài ra để tạo cho học sinh có thói quen mạnh dạn trong việc nói năng, ứng xử linh hoạt, văn minh, nhà trường nên xây dựng một số quy định về việc giao tiếp, ứng xử như dùng những từ ngữ phù hợp, những cử chỉ, thái độ đúng đắn giữa HS với HS, giữa HS với GV, giữa GV với GV trong học tập giảng dạy cũng như trong sinh hoạt hàng ngày ở gia đình, và tổ chức kiểm tra, thi đua khen thưởng dưới hình thức cho học sinh thuyết trình và tạo tình huống trong các buổi chào cờ đầu tuần . II. Giải pháp cụ thể: 1. Đối với học sinh: Học sinh phải có ý thức và hành động tự giác giữ gìn môi trường XSĐ&AT ngay từ ngày đầu tiên bước chân đến trường và thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi. Học sinh từng em, từng nhóm được trực tiếp tham gia các việc làm cụ thể hàng ngày, hàng tuần về xây dựng lớp học trường học của mình ngày càng XSĐ&AT hơn (trồng cây, chăm sóc cây, vệ sinh trường lớp,…). Trong năm học, các em tích cực tham gia một số hoạt động ngoại khóa của trường để tạo ra các sản phẩm về giáo dục môi trường như bài viết, tranh vẽ, ảnh chụp, sưu tầm… Cuối mỗi học kỳ và cuối năm học, các em được tham gia nhận xét đánh giá về cái tốt, cái chưa tốt, đề xuất việc cần làm tiếp theo về môi trường của trường dù là một ý kiến rất nhỏ hoặc chưa đúng, chưa đầy đủ. 2. Đối với giáo viên: Tùy theo đối tượng học sinh từng lớp, từng cấp học, giáo viên giúp học sinh hiểu rõ một số yêu cầu về xây dựng và giữ gìn trường học XSĐ&AT; thực hiện có hiệu quả việc khai thác nội dung kiến thức giáo dục môi trường thông qua các môn học trong chương trình giảng dạy. Ngoài kế hoạch của trường, giáo viên chủ động thực hiện các hoạt động XSĐ&AT của lớp phụ trách; gương mẫu trước học sinh về việc giữ gìn bảo vệ môi trường XSĐ&AT. 3. Đối với cán bộ quản lý nhà trường: Triển khai cụ thể đến từng giáo viên nội dung yêu cầu, tiêu chí trường học XSĐ&AT; cuối năm học tự đánh giá theo kế hoạch của trường đã đề ra. Hoàn chỉnh bản đồ quy hoạch của trường, hình thành ban XSĐ&AT. Tổ chức một số hoạt động nội khóa và ngoại khóa về giáo dục môi trường theo từng chủ đề cho học sinh. Giao trách nhiệm cụ thể cho các lớp về việc giữ gìn và chăm sóc cây xanh, thảm cỏ, bồn hoa, trường lớp. Thực hiện những cách đánh giá đo nghiệm như ảnh chụp, băng hình, nhật ký để làm rõ sự thay đổi cảnh quan môi trường của trường qua mỗi năm học. 4. Đối với Phòng Giáo dục: Phổ biến, cung cấp đầy đủ kịp thời đến các trường những văn bản chỉ đạo về giáo dục môi trường và trường học XSĐ&AT. Kết hợp nhiều hình thức kiểm tra.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> đánh giá các trường (thường xuyên, định kỳ, đột xuất) và đưa vào tiêu chí thi đua năm học. Chỉ đạo điểm một số đơn vị xây dựng trường học XSĐ&AT với mô hình mới nâng cao hơn. Dành một khoảng kinh phí nhất định hàng năm để các trường triển khai các hoạt động XSĐ&AT. Tổng hợp số liệu trường đạt XSĐ&AT trong từng năm học và biểu dương khen thưởng những đơn vị làm tốt. Nếu có điều kiện, có thể tổ chức tham quan học tập một số trường học trong và ngoài tỉnh cho cán bộ quản lý các trường. Việc tách các nhóm đối tượng như trên chỉ mang tính tương đối nhằm làm rõ hơn trách nhiệm và công việc cụ thể trong quá trình thực hiện. Giải pháp xây dựng trường học XSĐ&AT cần được tiến hành thường xuyên, có sự hợp tác và phối hợp đồng bộ của nhiều đối tượng và lực lượng tham gia. Ba việc làm cần được thực hiện tốt đó là: xây dựng kế hoạch, tổ chức hoạt động và giám sát đánh giá trường học XSĐ&AT. Trong quá trình thực hiện trường học XSĐ&AT và giáo dục môi trường cho học sinh cần kết hợp chặt chẽ, đồng bộ ba nội dung: - Thứ nhất là cung cấp cho học sinh và cả giáo viên một số kiến thức cơ bản ban đầu về môi trường, mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, tác động tích cực và tiêu cực của môi trường đến đời sống con người. - Thứ hai là mỗi trường học phải là một trung tâm XSĐ&AT; học sinh được học tập vui chơi trong môi trường này thì chắc chắn các em sẽ biết giữ gìn bảo vệ môi trường. - Thứ ba là quá trình hoạt động XSĐ&AT chủ yếu phải xuất phát từ học sinh, giáo viên dự kiến kế hoạch và hướng dẫn, hỗ trợ giúp học sinh tự nhận thấy, tự thảo luận đề xuất và chủ động tham gia công việc. III. Thế nào là trường học thân thiện? - Trường học thân thiện, trước hết là nơi tiếp nhận tất cả trẻ em trong độ tuổi quy định, đến trường. Nhà trường phải tạo điều kiện để thực hiện bình đẳng về quyền học tập cho thanh, thiếu niên. - Trường học thân thiện là trường học có chất lượng giáo dục toàn diện và hiệu quả giáo dục không ngừng được nâng cao. Các thầy, cô giáo phải thân thiện trong dạy học, thân thiện trong đánh giá kết quả rèn luyện, học tập của học sinh, đánh giá công bằng, khách quan với lương tâm và trách nhiệm của nhà giáo. Các thầy, cô giáo trong quá trình dạy học phải thân thiện với mọi năng lực thực tế của mọi đối tượng học sinh, để các em tự tin bước vào đời. - Trường học thân thiện là trường học có môi trường sống lành mạnh, an toàn, tránh được những bất trắc, nguy hiểm đe dọa học sinh. - Trường học thân thiện là trường học có cơ sở vật chất đảm bảo các quyền tự nhiên thiết yếu con người: đủ nước sạch, ánh sáng, phòng y tế, nhà vệ sinh, sân chơi, bãi tập v.v… - Trường học thân thiện là trường tạo lập sự bình đẳng giới, xây dựng thái độ và giáo dục hành vi ứng xử tôn trọng bình đẳng nam nữ. Trường học thân thiện phải chú trọng giáo dục kỹ năng sống, giáo dục cho học sinh biết rèn luyện thân thể, biết tự bảo vệ sức khỏe, biết sống khỏe mạnh, an toàn. - Trường học thân thiện là nơi huy động có hiệu quả sự tham gia của học sinh, thầy cô giáo, cha mẹ học sinh, của chính quyền, các tổ chức đoàn thể, các đơn.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> vị kinh tế và nhân dân địa phương nơi trường đóng cùng đồng lòng, đồng sức xây dựng nhà trường. IV. Mục đích, ý nghĩa của phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” - Quan trọng nhất là tạo nên một môi trường giáo dục (cả về vật chất lẫn tinh thần) an toàn, bình đẳng, tạo hứng thú cho học sinh trong học tập, góp phần đảm bảo quyền được đi học và học hết cấp của học sinh, nâng cao chất lượng giáo dục trên cơ sở tập trung mọi nỗ lực của nhà trường vì người học, với các mối quan tâm thể hiện thái độ thân thiện và tinh thần dân chủ. - Trong môi trường trường học thân thiện, trẻ em sẽ cảm nhận được sự thoải mái khi việc học của mình vừa gắn với kiến thức trong sách vở, vừa thông qua sự thâm nhập, trải nghiệm của chính bản thân trong các hoạt động ngoại khóa, trong các trò chơi dân gian, các hoạt động tập thể vui mà học. Như thế, “Mỗi ngày trẻ em đến trường là một ngày vui”. Trường học thân thiện gắn bó chặt chẽ với việc phát huy tính tích cực của học sinh. Trong môi trường phát triển toàn diện đó, học sinh học tập hứng thú, chủ động tìm hiểu kiến thức dưới sự dìu dắt của thầy cô giáo, gắn chặt giữa học và hành, biết thư giãn khoa học, rèn luyện kỹ năng và phương pháp học tập, trong đó những yếu tố hết sức quan trọng là khả năng tự tìm hiểu, khám phá, sáng tạo. - Trong cuộc vận động “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, vai trò các thầy cô giáo có ý nghĩa hết sức quan trọng. Thực hiện kế hoạch này, chúng ta từng bước xây dựng đội ngũ giáo viên có phẩm chất đạo đức, năng lực quản lý, đáp ứng yêu cầu của giáo dục trong thời kỳ phát triển mới. Theo đó, các thế hệ học sinh năng động, tích cực dưới sự dạy dỗ của các thầy cô giáo được học tập trong môi trường trường học thân thiện, sẽ là nhân tố quyết định sự phát triển bền vững của đất nước. V. Nội dung phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” xác định 5 nội dung gồm: 1. Xây dựng trường, lớp xanh, sạch, đẹp, an toàn; 2. Dạy và học có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của học sinh ở mỗi địa phương, giúp các em tự tin trong học tập; 3. Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh; 4. Tổ chức các hoạt động tập thể, vui tươi, lành mạnh; 5. Học sinh tham gia tìm hiểu, chăm sóc và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng ở địa phương. VI. Thực hiện: Để phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong trường phổ thông giai đoạn 2013 – 2018 đạt kết quả tốt đẹp, chúng tôi thấy cần thực hiện các việc sau: 1. Cần huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong và ngoài nhà trường, xây dựng môi trường giáo dục an toàn, thân thiện, hiệu quả, phù hợp điều kiện của địa phương, đáp ứng nhu cầu xã hội..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> 2. Khắc phục tính thụ động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập và các hoạt động xã hội một cách phù hợp, hiệu quả. 3. Xây dựng, chỉnh trang trường, lớp xanh hơn, sạch hơn, đẹp hơn. Bảo đảm trường sạch sẽ, có cây xanh, thoáng mát, lớp học đủ ánh sáng, thoáng đãng, bàn ghế hợp lứa tuổi học sinh. 4. Trường tổ chức cho học sinh trồng cây (dịp đầu xuân) và chăm sóc cây thường xuyên. Có đủ nhà vệ sinh và giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, không ảnh hưởng xấu đến lớp học và cảnh quan môi trường. Học sinh tích cực tham gia giữ vệ sinh các công trình công cộng, nhà trường, lớp học và cá nhân. 5. Giáo viên dạy học có hiệu quả, giúp các em tự tin trong học tập, có phương pháp dạy, giáo dục và hướng dẫn học sinh học tập nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên, góp phần hình thành khả năng tự học của học sinh... 6. Bên cạnh đó, trường tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh; tổ chức các trò chơi dân gian, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh, kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, sinh hoạt, ứng xử văn hóa, loại bỏ bạo lực và tệ nạn xã hội trong học đường. Hình thành thói quen làm việc theo nhóm... 7. Có kế hoạch phối hợp với ngành khác trong địa bàn trường, nhằm mục đích huy động nhân lực và hệ thống cơ sở vật chất của các ngành và tổ chức liên quan để phối hợp thực hiện và huy động sự tham gia, đóng góp của toàn xã hội triển khai phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong nhà trường. VII. Một số suy nghĩ: Xây dựng môi trường trường học thân thiện về mặt tinh thần. “Thân thiện” là có tình cảm tốt, đối xử tử tế và thân thiết với nhau. Bản thân khái niệm “thân thiện” đã hàm chứa sự bình đẳng, dân chủ về pháp lý và sự đùm bọc, cưu mang đầy tình người về đạo lý. “Trường học thân thiện” đương nhiên phải “thân thiện” giữa tập thể sư phạm với học sinh, thân thiện với địa phương (địa bàn hoạt động của nhà trường); phải “thân thiện” trong tập thể sư phạm với nhau; 1. Trước hết, trường học phải thân thiện với địa bàn hoạt động, mà nội dung chủ yếu của sự thân thiện là: - Nhà trường phải phấn đấu trở thành trung tâm văn hóa, giáo dục ở địa phương. Phải gương mẫu trong việc gìn giữ môi trường tự nhiên và môi trường xã hội ở địa phương. Từ đó, địa phương sẽ đồng thuận, đồng lòng, đồng sức tham gia xây dựng nhà trường, xây dựng quan hệ tốt đẹp giữa đôi bên. - Một nội dung trọng tâm về trường học thân thiện với địa phương: mỗi trường học nhận chăm sóc công trình văn hóa, lịch sử ở địa phương, và tích cực chăm lo xây dựng các công trình công cộng, trồng cây, chăm sóc cho đường phố, ngõ xóm sạch sẽ. 2. Thân thiện trong tập thể sư phạm với nhau. Điều này rất quan trọng, vì nó là “cái lõi” để thân thiện với mọi đối tượng khác. Ở đây, vai trò của hiệu trưởng, của lãnh đạo tổ chức Đảng và các đoàn thể là cực kỳ quan trọng. Muốn vậy, trong.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> quan hệ quản lý, phải thực thi dân chủ, phải thực hiện bằng được quy chế dân chủ ở cơ sở. Trong quan hệ tài chính, phải trong sáng, công khai, minh bạch đối với mọi thành viên trong nhà trường. Về mặt tâm lý, phải thực sự tôn trọng lẫn nhau. Không thể có thân thiện, nếu trong trường mất dân chủ, bất bình đẳng, nếu thiếu tôn trọng lẫn nhau, hiệu trưởng hống hách, quát nạt nhân viên dưới quyền. Cũng không thể có thân thiện, nếu mọi khoản thu chi trong nhà trường cứ “mờ mờ ảo ảo”. 3. Thân thiện giữa tập thể sư phạm, nhất là các thầy, cô với các em học sinh. Thầy cô cùng các bộ phận khác trong nhà trường đều hoạt động theo phương châm: “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Từ đó, trò sẽ quý mến, kính trọng thầy cô giáo. Sự thân thiện của các thầy, cô với các em là “khâu then chốt”, và được thể hiện ở các mặt sau: - Tận tâm trong giảng dạy và giáo dục các em. Muốn vậy, hãy mạnh dạn chuyển lối dạy cũ thụ động “thầy đọc, trò chép”, “thầy giảng, trò nghe” sang lối dạy “thầy tổ chức, trò hoạt động”, “dạy học lấy học sinh làm trung tâm”. Có vậy mới phát huy được tính tự giác, tích cực học tập của các em, mới thực hiện được việc quan tâm đến từng em học sinh, nhất là đối với các em có hoàn cảnh khó khăn, các em học sinh “cá biệt”. - Công tâm trong quan hệ ứng xử. Thầy, cô giáo phải công tâm trong quan hệ ứng xử, công tâm trong việc đánh giá, cho điểm (nghĩa là phải công bằng, khách quan với lương tâm và thiên chức nhà giáo). - Phải coi trọng việc giáo dục bình đẳng giới để các học sinh nam, nữ biết quý trọng nhau, sống hòa đồng với nhau. Phải rèn kỹ năng sống cho học sinh thích ứng với xã hội, bởi cuộc sống nhà trường là cuộc sống thực, ngay ngày hôm nay, bây giờ, chứ không chỉ chuẩn bị cho tương lai. Đừng để trò phải “ngơ ngác” trước cuộc sống xã hội đang từng ngày thay đổi. 4. Nhà trường thân thiện phải đảm bảo cơ sở vật chất đáp ứng không chỉ yêu cầu của sự nghiệp giáo dục, mà còn cho cuộc sống an toàn, văn minh, phù hợp với tâm lý của đối tượng thụ hưởng. Trường học thân thiện thì không thể thiếu sân chơi, bãi tập đối với lứa tuổi “học mà chơi, chơi mà học”; ánh sáng như đom đóm, bàn ghế không đúng quy cách, nhà vệ sinh buộc trẻ phải bịt mũi, bặm môi mà vào... Ngược lại, trường học phải được xây dựng khang trang, xanh, sạch, đẹp, đúng yêu cầu sư phạm. * Tất cả những nội dung trên, trước mắt được gói gọn vào 3 điểm trọng tâm: a. Học tốt. b. Đẩy mạnh việc “chơi mà học”. c. Mỗi trường học là một địa chỉ nhận chăm sóc công trình văn hóa, lịch sử. * Tóm lại, trường học thân thiện phải là nơi mà mọi thành viên đều là bạn, là đồng chí, là anh em; giáo viên nêu cao tinh thần “càng yêu người bao nhiêu, càng yêu nghề bấy nhiêu”; :mọi hoạt động giáo dục trở nên nhẹ nhàng, vui tươi, hấp dẫn mọi người, nhất là người học”; trường học gắn bó mật thiết với địa phương, và có chất lượng giáo dục toàn diện với hiệu quả giáo dục không ngừng được nâng cao. * Cụ thể: Xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực” không phải là điều quá mới mẻ. Nói như vậy là bởi vì, khoảng vài năm trở lại đây, cùng với việc.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy học, Bộ GD-ĐT đã nhấn mạnh đến việc yêu cầu học sinh phát huy tính chủ động, tham gia trong các hoạt động giảng dạy của giáo viên. Vì thế, phong trào “trường học thân thiện, học sinh tích cực” thực ra là sự phát triển một hoạt động đã triển khai từ trước đó ở mỗi trường học. Trên quan điểm như vậy: - Phải tăng cường kiểm tra, phát vấn, giao việc cho các em, qua đó góp phần giúp các em có khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ nói một cách có hệ thống, tự tin khi trình bày trước tập thể. - Phát động trong học sinh tham gia dự thi làm ĐDDH sau các tiết học. Đây là cách để kiểm tra mức độ vận dụng của học sinh đồng thời cũng là cơ hội để các em tham gia cải tiến giờ dạy có chất lượng cao hơn. - Thầy, cô giáo phải có phương pháp giảng dạy tích cực để cho HS tích cực. Bởi vì trong một lớp học, số “HS tích cực” rất là ít, thường là những em có học lực và hạnh kiểm khá - giỏi, còn đa số là thụ động. - Đổi mới phương pháp giảng dạy sao cho có thể lôi cuốn tất cả học sinh tham gia. - Tổ chức một số hoạt động sáng tạo, phát huy trí tuệ và năng lực hoạt động của học sinh như thuyết trình, lập báo cáo, làm mô hình kỹ thuật, viết phần mềm tin học, sáng tác thơ văn… - Các tổ bộ môn cũng sẽ giao một số đề tài nghiên cứu nhỏ cho học sinh thực hiện như: sưu tầm tranh ảnh, tài liệu theo chủ đề… - Để tạo thêm sân chơi cho học sinh, tuỳ vào sở trường của mình, các em có thể tham gia các CLB như CLB Tin học, CLB Thơ văn,... - Trong những buổi ngoại khoá, chào cờ đầu tuần… nhà trường tổ chức lồng ghép kể chuyện về tấm gương các danh nhân, anh hùng liệt sĩ tiêu biểu của quê hương; giới thiệu các hình thức diễn xướng đặc trưng của quê hương… - Hoàn thiện nhân cách cho học sinh bằng cách phát động các phong trào “Không nói tục chửi thề”, “Gọi bạn xưng tên”, “Kính trên nhường dưới, lễ phép với thầy cô giáo, người lớn tuổi”… - Tạo điều kiện học sinh được tham gia các hoạt động trong nhà trường một cách chủ động, được bộc lộ quan điểm, rèn luyện các kỹ năng và hình thành quan hệ tốt trong giao tiếp với thầy cô và bạn bè. Tổ chức những hoạt động như hội chợ (vào dịp lễ, tết), hội thảo về phương pháp học tập, các buổi văn nghệ, trò chơi… để học sinh tự tham gia nhằm rèn luyện kỹ năng mềm để ứng dụng vào cuộc sống như thuyết trình, xây dựng hình ảnh bản thân, phương pháp làm việc nhóm… Từ phong trào xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực”, xây dựng một môi trường sư phạm thực sự lành mạnh, trong đó, học sinh biết bảo vệ danh dự của nhà trường, của tập thể lớp và của chính bản thân mình; biết bảo vệ cái đúng, phê phán cái sai… Và để làm được điều này, cần phải có sự chung tay của cả gia đình và cộng đồng. **=**=**=**=** MÔ ĐUN TH 12.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> LẬP KẾ HOẠCH DẠY HỌC TÍCH HỢP CÁC NỘI DUNG GIÁO DỤC Ở TIỂU HỌC I. Đặt vấn đề: Xây dựng kế hoạch dạy học theo hướng tích hợp đó là một trong những nội dung trọng tâm Bộ GD&ĐT yêu cầu trong hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục Tiểu học năm học 2013-2014. Dạy học theo hướngtích hợp là một trong những quan điểm giáo dục đã trở thành xu thế trong việc xác định nội dung dạy học trong nhà trường phổ thông và trong chương trình xây dựng môn học. Quan điểm tích hợp được xây dựng trên cơ sở những quan niệm tích cực về quá trình học tập và quá trình dạy học. Thực tiển đã chứng tỏ rằng, việc thực hiện quan điểm tích hợp trong giáo dục và dạy học sẽ giúp phát triển những năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp và làm cho việc học tập trở nên có ý nghĩa hơn đối với học sinh so với việc các môn học, các mặt giáo dục được thực hiện riêng lẽ. Tích hợp là một trong những quan điểm giáo dục nhằm nâng cao năng lực của người học, giúp đào tạo những người có đầy đủ phẩm chất và năng lực để giải quyết các vấn đề của cuộc sống. Tích hợp là một tiến trình tư duy và nhận thức mang tính chất phát triển tự nhiên của con người trong mọi lĩnh vực hoạt động khi họ muốn hướng đến hiệu quả của chúng (...), là vấn đề của nhận thức và tư duy của con người, là triết lý chi phối, định hướng và quyết định thực tiễn hoạt động của con người. Lý thuyết tích hợp được ứng dụng vào giáo dục trở thành một quan điểm lý luận dạy học phổ biến trên thế giới hiện nay. Xu hướng tích hợp còn được gọi là xu hướng liên hội đang được thực hiện trên nhiều bình diện, cấp độ trong quá trình phát triển các chương trình giáo dục. * Tích hợp là một tiến trình tư duy và nhận thức mang tính chất phát triển tự nhiên của con người trong mọi lĩnh vực hoạt động khi họ muốn hướng đến hiệu quả của chúng (...), là vấn đề của nhận thức và tư duy của con người, là triết lý chi phối, định hướng và quyết định thực tiễn hoạt động của con người. + Tích hợp: Là sự hòa trộn nội dung giáo dục môi trường và sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả vào nội dung bộ môn thành một nội dung thống nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau. II. Nội dung 1. Các yêu cầu của một kế hoạch dạy học theo hướng tích hợp. - Trang bị cho học sinh hiểu biết những kiến thức cần thiết, cơ bản về những nội dung cần được tích hợp để từ đó giáo dục các em có những cử chỉ, việc làm, hành vi đúng đắn. - Phát triển các kĩ năng thực hành, kĩ năng phát hiện và ứng xử tích cực trong học tập cũng như trong thực tiển cuộc sống. - Giúp học sinh hứng thú học tập, từ đó khắc sâu được kiến thức đã học. - Nội dung tích hợp phải phù hợp với từng đối tượng học sinh ở các khối lớp thông qua các môn học và hoạt động giáo dục khác nhau. - Tránh áp đặt, giúp học sinh phát triển năng lực..

<span class='text_page_counter'>(14)</span> 2. Các nội dung cần tích hợp giáo dục trong các môn học và hoạt động giáo dục ở tiểu học. * Ý nghĩa của dạy học theo quan điểm tích hợp: Tích hợp là một khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực. Trong lĩnh vực khoa học giáo dục (GD), khái niệm tích hợp xuất hiện từ thời kì khai sáng, dùng để chỉ một quan niệm GD toàn diện con người, chống lại hiện tượng làm cho con người phát triển thiếu hài hòa, cân đối. Tích hợp còn có nghĩa là thành lập một loại hình nhà trường mới, bao gồm các thuộc tính trội của các loại hình nhà trường vốn có. Trong dạy học (DH) các bộ môn, tích hợp được hiểu là sự kết hợp, tổ hợp các nội dung từ các môn học, lĩnh vực học tập khác nhau (Theo cách hiểu truyền thống từ trước tới nay) thành một “môn học” mới hoặc lồng ghép các nội dung cần thiết vào những nội dung vốn có của môn học, ví dụ: lồng ghép nội dung GD dân số, GD môi trường, GD an toàn giao thông trong các môn học Đạo đức, Tiếng Việt hay Tự nhiên và xã hội… xây dựng môn học tích hợp từ các môn học truyền thống. Tích hợp là một trong những quan điểm GD đã trở thành xu thế trong việc xác định nội dung DH trong nhà trường phổ thông và trong xây dựng chương trình môn học ở nhiều nước trên thế giới. Quan điểm tích hợp được xây dựng trên cơ sở những quan niệm tích cực về quá trình học tập và quá trình DH. Dạy học theo hướng lồng ghép tích hợp thực hiện ở một số nội dung môn học và các hoạt động giáo dục: nội dung tích hợp được bao gồm những nội dung như Tích hợp giáo dục đạo đức, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; giáo dục phòng chống tham nhũng; sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; bảo vệ môi trường; giáo dục về dân số, đa dạng sinh học và bảo tồn thiên nhiên; giáo dục về tài nguyên và môi trường, chủ quyền biển đảo theo hướng dẫn của Bộ GDĐT. Mức độ tích hợp tùy theo từng môn học, nội dung để lựa chọn mức độ tích hợp, đối với bộ môn tích hợp nội dung Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thì mức độ tích hợp từ liên hệ ( chỉ khai thác nội dung bài học và liên hệ với kiến thức về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, mức độ hạn chế), tích hợp bộ phận ( chỉ một phần của bài học, hoạt động thực hiện nội dung giáo dục về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, mức độ trung bình) đến tích hợp tòan phần (cả một bài có nội dung trùng khớp với nội dung giáo dục về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, mức độ cao nhất) Thực tiễn ở nhiều nước đã chứng tỏ rằng, việc thực hiện quan điểm tích hợp trong GD và DH sẽ giúp phát triển những năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp và làm cho việc học tập trở nên ý nghĩa hơn đối với HS so với việc các môn học, các mặt GD được thực hiện riêng rẽ. Tích hợp là một trong những quan điểm GD nhằm nâng cao năng lực của người học, giúp đào tạo những người có đầy đủ phẩm chất và năng lực để giải quyết các vấn đề của cuộc sống hiện đại. Nhiều nước trong khu vực Châu Á và trên thế giới đã thực hiện quan điểm tích hợp trong DH và cho rằng quan điểm này đã đem lại hiệu quả nhất định..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Ở Việt Nam, Thời Pháp thuộc, quan điểm tích hợp được thể hiện trong một số môn ở trường tiểu học như môn «Cách trí », sau đổi thành môn « Khoa học thường thức ». Môn học này còn được dạy một số năm ở trường cấp I của miền Bắc nước ta. Từ những năm 1987, việc nghiên cứu xây dựng môn “Tìm hiểu Tự nhiên và xã hội” theo quan điểm tích hợp đã được thực hiện và môn học này được thiết kế để đưa vào DH ở trường cấp I từ lớp 1 đến lớp 5. Chương trình năm 2000 đã được hoàn chỉnh thêm một bước, quan điểm tích hợp đã được thể hiện trong CT & SGK và các hoạt động DH ở tiểu học. Tuy nhiên khái niệm tích hợp vẫn còn mới lạ với nhiều GV. Một số đã có nhận thức ban đầu nhưng còn hạn chế về kĩ năng vận dụng. Hiện nay, trên toàn thế giới mỗi ngày có khoảng 2000 cuốn sách được xuất bản, điều ấy đủ thấy không thể học tập như cũ và giảng dạy như cũ theo chương trình và sách giáo khoa (CT&SGK) gồm quá nhiều môn học riêng rẽ, biệt lập với nhau. Mặt khác, sự phát triển của khoa học trên thế giới ngày càng nhanh, nhiều vấn đề mới DH cần phải đưa vào nhà trường như: Bảo vệ môi trường, GD dân số, GD pháp luật, phòng chống ma túy, GD sức khỏe, an toàn giao thông…, nhưng quỹ thời gian có hạn, không thể tăng số môn học lên được. Việc tích hợp nội dung một số môn học là giải pháp có thể thực hiện được nhiệm vụ GD nhiều mặt cho HS mà không quá tải. Tích hợp là quan điểm hòa nhập, được hình thành từ sự nhất thể hóa những khả năng, một sự quy tụ tối đa tất cả những đặc trưng chung vào một chỉnh thể duy nhất. Khoa học hiện nay coi trọng tính tương thích, bổ sung lẫn nhau để tìm kiếm những quan điểm tiếp xúc có thể chấp nhận đựợc để tạo nên tính bền vững của quá trình DH các môn học. Trong một số môn học, tư tưởng tích hợp được tiếp nhận với các mức độ thấp và khác nhau như: Lồng ghép - là đưa thêm nội dung cần học tương tự với môn học chính; tích hợp - là sự kết hợp tri thức của nhiều môn học tạo nên môn học mới Quan điểm tích hợp và phương pháp dạy học theo hướng tích hợp đã được GV tiếp nhận nhưng ở mức độ thấp. Phần lớn GV lựa chọn mức độ tích hợp “liên môn hoặc tích hợp “nội môn. Các bài dạy theo hướng tích hợp sẽ làm cho nhà trường gắn liền với thực tiễn cuộc sống, với sự phát triển của cộng đồng. Những nội dung dạy HS nhỏ tuổi theo các chủ đề “Gia đình”, “Nhà trường”, “Cuộc sống quanh ta”, “Trái đất và hành tinh”…làm cho HS có nhu cầu học tập để giải đáp được những thắc mắc, phục vụ cho cuộc sống của mình và cộng đồng. Học theo hướng tích hợp sẽ giúp cho các em quan tâm hơn đến con người và xã hội ở xung quanh mình, việc học gắn liền với cuộc sống đời thường là yếu tố để các em học tập. Những thắc mắc nảy sinh từ thực tế làm nảy sinh nhu cầu giải quyết vấn đề của các em. Chẳng hạn “vì sao có sấm chớp?’, “vì sao không được chặt cây phá rừng?”, “Vì sao….?.” Thực tế ở một số trường tiểu học cho thấy, các bài sọan để DH theo hướng tích hợp đã giúp cho GV tiếp cận tốt nhất với CT & SGK mới. Bài dạy linh hoạt, HS học được nhiều, được chủ động tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức và rèn luyện kĩ năng. Muốn tiến hành có hiệu quả, cần phải chú trọng đến việc bồi dưỡng GV. GV.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> phải hiểu được thế nào là tích hợp, phải nghiên cứu chương trình, tài liệu xem nó dựa trên môn khoa học xác định nào, có thể mở rộng quan hệ tương tác với các khoa học khác như thế nào, mức độ tích hợp thể hiện ra sao?... Từ thực tiễn GD tiểu học ở nhiều nước và Việt Nam cho thấy, DH theo hướng tích hợp là xu thế mà nhiều nước trên thế giới đã áp dụng, đặc biệt là các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. GV tiểu học khi đã quen với cách dạy tích hợp thì việc xử lí các tình huống GD trở nên mềm dẻo hơn. DH theo hướng tích hợp phát huy được tính tích cực của HS, góp phần đổi mới nội dung và phương pháp DH ở trường tiểu học. 3. Phương pháp lựa chon địa chỉ tích hợp và xác định mức độ tích hợp trong các bài học của từng môn học và hoạt động giáo dục của tiểu học. a. Phương pháp Phương pháp dạy học theo hướng tích hợp là lồng ghép nội dung tích hợp vào các bài dạy, tùy theo từng môn học mà lồng ghép tích hợp ở các mức độ như liên hệ, lồng ghép bộ phận, toàn phần,...từ đó giáo dục và rèn kĩ năng sống, giá trị sống cho học sinh. * Phương pháp. - Phương pháp trực quan. - Phương pháp điều tra. - Phương pháp thảo luận. - Phương pháp đóng vai. * Việc phát triển và thực hiện chương trình sau 2000 theo định hướng dạy học tích cực đã làm thay đổi quan niệm và cách biên soạn, cách sử dụng sách giáo khoa: chuyển từ quan niệm là “pháp lệnh”, là một tài liệu chứa đựng kiến thức có sẵn để giáo viên truyền đạt cho học sinh” sang là “phương tiện chính thức để định hướng cho giáo viên tổ chức hoạt động học tập nhằm giúp học sinh tự học, tự phát hiện, tự chiếm lĩnh tri thức mới, biết vận dụng chúng theo năng lực của từng cá nhân” (Đỗ Đình Hoan 2002, tr.75). Sự thay đổi quan niệm về sách giáo khoa đòi hỏi các nhà biên soạn sách giáo khoa phải thay đổi cấu trúc nội dung theo hướng tích hợp nhằm: - Giải quyết sự mất cân đối giữa khối lượng, mức độ nội dung từng giai đoạn học tập - Tăng cường sự hỗ trợ nhau giữa các nội dung trong từng môn học và giữa các môn học, xoá bỏ những trùng lặp, tăng khả năng thực hành, vận dụng. - Gia tăng các hoạt động thực hành. Định hướng tích hợp của chương trình tiểu học sau 2000 được thể hiện ở những mức độ khác nhau: (1) Hình thành các môn học tích hợp: Tự nhiên – Xã hội (1991-1996 ); tích hợp môn Sức khỏe với môn Tự nhiên- xã hội và môn Khoa học (2001); tích hợp Mỹ thuật với Kỹ thuật thành môn Nghệ thuật. (2) Tích hợp các mạch kiến thức, kỹ năng trong một số môn học: tích hợp 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết và kiến thức văn hoá, xã hội, tự nhiên, tích hợp giữa phát triển năng lực sử dụng ngôn ngữ với phát triển nhân cách trong môn Tiếng.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> Việt; tích hợp các yếu tố đại số vào mạch số học trong môn Toán, tích hợp cung cấp kiến thức sơ giản toán học và phát triển năng lực tư duy và giải quyết vấn đề ; tích hợp các nội dung giáo dục khác vào các môn học như giáo dục môi trường, giáo dục quyền trẻ em, giáo dục giới tính, giáo dục dân số; giáo dục các giá trị sống; phòng chống các bệnh tật và tệ nạn xã hội. Mục đích của giải pháp tích hợp được phát biểu trong tài liệu chương trình tiểu học là nhằm làm giảm sự năng nề, gia tăng khả năng vận dụng thực hành và tính thực tiễn của chương trình, tạo điều kiện cho người học phát triển năng lực (Đỗ Đình Hoan, 2002). Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 đã nêu rõ: “…thực hiện đổi mới chương trình SGK từ sau năm 2015 theo định hướng phát triển năng lực học sinh”. Chương trình hướng tới mục tiêu phát triển năng lực không chỉ dựa vào tính hệ thống, logic của khoa học tương ứng khi xác định nội dung học tập mà còn gắn với các tình huống thực tiễn, chú ý đến khả năng học tập và nhu cầu, phong cách học của mỗi cá nhân học sinh. Các yêu cầu này đòi hỏi chương trình cần được phát triển theo định hướng tích hợp nhằm tạo điều kiện cho người học liên tục huy động kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực môn học và hoạt động giáo dục khác nhau để thực hiện các nhiệm vụ học tập. Qua đó, các năng lực chung cơ bản cũng như năng lực chuyên biệt của người học được phát triển. Theo báo cáo kết quả của nhóm nghiên cứu thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam trong Hội thảo “Dạy học tích hợp- Dạy học phân hóa trong chương trình giáo dục phổ thông” vừa được Bộ GD-ĐT tổ chức vào tháng 12/2012, CTGDGPT sau 2015, “Dạy học tích hợp là quá trình dạy học trong đó giáo viên tổ chức hoạt động để học sinh huy động nội dung, kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập, thông qua đó hình thành những kiến thức, kĩ năng mới từ đó phát triển những năng lực cần thiết” Nhóm nghiên cứu Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, 2012). Định hướng tích hợp sẽ thực hiện trong chương trình GDPT theo hình thức và mức độ tích hợp trong phạm vi hẹp và tích hợp trong phạm vi rộng. Hai hướng tích hợp này phần nào tương thích với định hướng tích hợp đa môn và tích hợp liên môn như đã đề cập ở trên. Phương án tích hợp đã được đề xuất cho việc phát triển chương trình giáo dục phổ thông ViệtNam sau 2015 ở cả ba cấp: tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông như sau: Ở tiểu học, tương tự như chương trình tiểu học hiện hành, tăng cường tích hợp trong nội bộ môn học Toán, Tiếng Việt, Đạo đức, Tự nhiên và Xã hội (các lớp 1, 2, 3) và lồng ghép các vấn đề như môi trường, biến đổi khí hậu, kĩ năng sống, dân số, sức khỏe sinh sản…, vào các môn học và hoạt động giáo dục. Bên cạnh đó, hai môn học mới được ra đời trên cớ sở kết hợp các môn học có nội dung liên quan với nhau. Đó là môn Khoa học và Công nghệ được xây dựng trên cơ sở hai môn Khoa học và môn Công nghệ (Kĩ thuật) ở các lớp 4 và 5 trong chương trình hiện hành. Môn thứ hai là Tìm hiểu xã hội được xây dựng từ môn Lịch và Địa lý của chương trình tiểu học hiện hành và bổ sung một số vấn đề xã hội). Các môn học này dự kiến sẽ được xây dựng theo mô hình: cơ bản đảm bảo tính logic hệ thống của các phân môn, nội dung chương các phân môn được sắp xếp sao cho có sự hỗ trợ lẫn nhau.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> tránh trùng lắp; đồng thời hệ thống các chủ đề liên kết giữa các phân môn sẽ được phát triển tạo điều kiện cho các kiến thức, kĩ năng, năng lực chung được rèn luyện. 4. Kỹ năng lựa chọn PP – Kỹ thuật dạy học phù hợp với việc dạy học tích hợp. * Kỹ năng lựa chọn phương pháp: Lựa chọn nội dung bài học phù hợp với các PP: Học theo góc; Học theo hợp đồng; Học theo dự án và các hoạt động phù hợp với các kĩ thuật dạy học Thiết kế bài học áp dụng PPDH: Học theo góc, theo hợp đồng, theo dự án và các kỹ thuật DH mang tính hợp tác Tổ chức, hướng dẫn HS: Học theo góc, theo hợp đồng, theo dự án và các kĩ thuật DH. * Kỹ thuật dạy học phù hợp với việc dạy tích hợp: Tích hợp là một trong những quan điểm đã trở thành xu thế phát triển chương trình giáo dục phổ thông ở nhiều nước trên thế giới. Thực tiễn đã chứng tỏ, việc thực hiện quan điểm tích hợp sẽ làm tăng tính hiệu quả của hoạt động giáo dục. Đây cũng là một trong những quan điểm chỉ đạo trong việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam sau năm 2015. Tuy nhiên, vẫn có những nhầm tưởng tích hợp với phép “cộng” giản đơn nhiều môn học. * Có 3 hoạt động tích hợp cơ bản: 4.1. Tích hợp đa môn. Tiếp cận tích hợp đa môn tập trung trước hết vào các môn học. Các môn liên quan với nhau có chung một định hướng về nội dung và phương pháp dạy học nhưng mỗi môn lại có một chương trình riêng. Tích hợp đa môn được thực hiện theo cách tổ chức các “chuẩn” từ các môn học xoay quanh một chủ đề, đề tài, dự án, tạo điều kiện cho người học vận dụng tổng hợp kiến thức của các môn học có liên quan. 4.2. Tích hợp liên môn. Theo cách tiếp cận tích hợp liên môn, giáo viên tổ chức chương trình học tập xoay quanh các nội dung học tập chung: các chủ đề, các khái niệm, các khái niệm và kĩ năng liên ngành, liên môn. Tích hợp liên môn còn được hiểu như là phương án, trong đó nhiều môn học liên quan được kết lại thành một môn học mới với hệ thống những chủ đề nhất định xuyên suốt qua nhiều cấp lớp. Ví dụ: Địa lí, Lịch sử, Sinh học, Xã hội, Giáo dục công dân, Hoá học, Vật lí được tích hợp thành môn “Nghiên cứu xã hội và môi trường” tại Anh, Australia, Singapore, Thái Lan. 4.3. Tích hợp xuyên môn. Trong cách tiếp cận tích hợp xuyên môn, giáo viên tổ chức chương trình học tập xoay quanh các vấn đề và quan tâm của người học. Học sinh phát triển kĩ năng sống khi áp dụng các kĩ năng môn học và liên môn vào ngữ cảnh thực tế. Hai con đường dẫn đến tích hợp xuyên môn là học tập theo dự án và thương lượng chương trình học. Nhiều nhà nghiên cứu trong lĩnh vực giáo dục có nhiều quan điểm về dạy tích hợp: “Tích hợp chương trình giảng dạy nhằm tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa các môn học khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, hình thành hệ thống kiến thức thống nhất, từ đó bồi dưỡng năng lực khoa học và kĩ năng sống cho học sinh, tạo hứng thú.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> và động lực cho việc học”; “Khẳng định vốn tri thức của mỗi con người là sự tích hợp các lĩnh vực khoa học”; “Đổi mới Chương trình và SGK giáo dục phổ thông sau 2015 cho rằng, dạy học tích hợp đã trở thành nguyên lí cơ bản của giáo dục hiện đại. Từ quan điểm này, phần nội dung môn học trong mô hình câu trúc SGK không nên trình bày đơn vị bài học theo tiết học, mà nên theo chủ đề nội dung ứng với các tình huống tích hợp. Cố gắng để các chủ đề này được sắp xếp làm sao không phá vỡ quá nhiều logic nội tại của nội dung khoa học mỗi môn học, phân môn trong SGK”. * Tích hợp có lộ trình Để việc tích hợp đạt hiệu quả cao, nên có sự phối hợp đồng bộ giữa chương trình các môn học và vận dụng linh hoạt các phương pháp tích hợp với mỗi lĩnh vực kiến thức cần đạt được. Bên cạnh đó, tăng cường các giờ thực hành, hoạt động ngoại khoá theo chủ đề,... Giảm giờ dạy lí thuyết của giáo viên, tăng thời lượng hoạt động học tập của học sinh. Xây dựng hệ thống bài tập mở, bài tập gắn với thực tiễn, bài tập có nội dung vận dụng kiến thức liên môn... Đối với dạy học tích hợp, cần chuẩn bị những nội dung mang tính hướng dẫn cơ bản đến các thao tác cho giáo viên và học sinh; như xác định mục tiêu, chủ đề tích hợp, kĩ năng cơ bản; lời nói đầu giới thiệu cấu trúc các mạch nội dung, cách học, đặc thù, cách tìm kiếm thông tin... Và có danh mục các từ khóa, thuật ngữ, khái niệm cốt lõi hướng dẫn đánh giá, hướng dẫn tái tạo lại kiến thức đã học từ các môn học liên quan. Chỉ đề cập đến xây dựng chương trình các môn học thuộc lĩnh vực khoa học xã hội cấp tiểu học, ThS Nguyễn Hồng Liên (Viện Khoa học giáo dục Việt Nam) cho rằng, xây dựng chương trình tích hợp cần đảm bảo sự tích hợp về nội dung, những kĩ năng cốt lõi cần hình thành cho học sinh, đa dạng về phương pháp dạy học và chú trọng vào sự tham gia tích cực của học sinh. Đánh giá kết quả học tập cần nhấn mạnh vào quá trình tiến bộ của học sinh và tài liệu dạy học không bị bó hẹp trong tài liệu SGK. Việc lựa chọn nội dung cần chú ý hơn đến tính ứng dụng, thực tiễn, phù hợp và gần gũi hơn với cuộc sống của HS; tránh sự lệ thuộc quá lớn vào logic của khoa học bộ môn làm cho kiến thức đưa vào nhà trường quá mang tính hàn lâm, nặng nề... Khẳng định tích hợp là yêu cầu chung của quá trình dạy học, giúp giảm được nội dung kiến thức, tránh được sự chồng chéo, “cắt khúc” giữa các bộ môn, giữa các lớp học với nhau, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Vinh Hiển đồng thời lưu ý, xử lý vấn đề tích hợp phải phù hợp với điều kiện dạy học, năng lực dạy học của giáo viên. Vì vậy, trên thế giới có nhiều mức độ xử lý tích hợp khác nhau thông qua chương trình, SGK. “Chúng ta sẽ xử lý ở những bước ban đầu rồi dần dần trải qua thời gian sẽ tích hợp ở mức độ cao hơn” - Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển cho biết. 5. Thực hành lập kế hoạch dạy học tích hợp các nội dung giáo dục. Ví dụ lập kế hoạch dạy học tích hợp môn tập đọc các lớp tiểu học: I. Quan niệm về đổi mới phương pháp dạy học: Đổi mới PPDH là đưa các PPDH mới vào nhà trường trên cơ sở kế thừa và phát huy mặt tích cực của các phương pháp truyền thống để nâng cao chất lượng.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> dạy học, nâng cao hiệu quả đào tạo, góp phần đáp ứng những yêu cầu mới của mục tiêu giáo dục và đào tạo. II. Phương pháp dạy Tập đọc phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong giờ học: 1. Các phương pháp dạy Tập đọc: a. Phương pháp phân tích mẫu: Dưới sự hướng dẫn của GV, học sinh phân tích các vật liệu mẫu ( văn bản) để hình thành các kiến thức văn học, các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ. Từ những hiện tượng chứa đựng trong các văn bản, GV giúp HS phân tích theo các nhiệm vụ đã nêu trong SGK để các em hiểu bài. Để HS phân tích được mẫu dễ dàng, GV có thể tách các câu hỏi, các công việc trong SGK ra thành những câu hỏi, nhiệm vụ nhỏ hơn. Về hình thức tổ chức tuỳ từng bài, từng nhiệm vụ cụ thể, GV có thể cho HS làm việc độc lập, làm việc theo nhóm, sau đó trình bày kết quả phân tích trước lớp. b. Phương pháp trực quan: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát các tranh minh hoạ trong các bài tập đọc, các vật mẫu giúp các em hiểu thêm một số chi tiết, tình huống và nhân vật trong bài. c. Phương pháp thực hành giao tiếp: GV tổ chức các hoạt động trong giờ học sao cho mỗi HS trong lớp đều được đọc (đọc thành tiếng, đọc thầm, đọc đồng thanh, theo nhóm, cá nhân…) được trao đổi nhận thức của mình với thầy cô, bạn bè. d. Phương pháp cá thể hoá sản phẩm của học sinh: Giáo viên chú ý đến từng học sinh, tôn trọng những phát hiện và ý kiến riêng của từng em. Thận trọng khi đánh giá học sinh, tạo điều kiện để học sinh tự phát hiện và sửa chữa lỗi diễn đạt. e. Phương pháp cùng tham gia. Giáo viên tổ chức cho học sinh cùng cộng tác thực hiện nhiệm vụ học tập, cùng tham gia các trò chơi luyện đọc nhằm hình thành kiến thức, rèn kĩ năng và phát triển khả năng làm việc với cộng đồng. Các hình thức phổ biến để thực hiện, cùng tham gia luyện đọc và trao đổi theo nhóm, đóng vai, thi đua. g. Một số kĩ thuật dạy học rèn kĩ năng sống: g.1. Đọc sáng tạo. Học sinh đọc diễn cảm. hay đọc theo phân vai có sáng tạo trong giọng đọc, cách đọc. Khi đọc học sinh kết hợp tìm từ, ý của câu, đoạn bài. g.2. Thảo luận nhóm Dùng để thảo luận một vấn đề khó, hay đóng vai đọc bài. Có nhiều hình thức chia nhóm như đã học trong kĩ năng sống. g.3. Hỏi đáp trước lớp Học sinh hỏi và bạn trả lời. theo gợi ý của giáo viên. g.4. Đóng vai xử lý tình huống. Giáo vên nêu tình huống học sinh phân vai đóng để xử lí tình huống đó. g.5. Tự bộc lộ.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> Theo gợi ý của GV học sinh tự bộc lộ suy nghĩ của mình cho cả lớp biết về một vấn đề nào đó liên quan đến bài học. g.6. Gợi tìm Học sinh tự tìm kiếm những vấn đề do giáo viên yêu cầu. Như từ khó, câu khó, nội dung bài… III. Các biện pháp dạy Tập đọc: a. Đọc mẫu của GV: - Đọc toàn bài: nhằm giới thiệu, gây xúc cảm, tạo hứng thú và tâm thế đọc cho HS. GV căn cứ vào trình độ của HS lớp mình có thể đọc 1 hoặc 2 lần tuỳ mục đích đặt ra. - Đọc câu, đoạn: nhằm minh hoạ, hướng dẫn, gợi ý hoặc “tạo tình huống” để HS nhận xét, giải thích tự tìm ra cách đọc… (có thể đọc một vài lần trong quá trình dạy học). - Đọc từ, cụm từ: nhằm sửa lỗi phát âm và rèn cách đọc đúng cho HS. b. Hướng dẫn HS tìm hiểu nghĩa của từ và nội dung bài: b.1. Tìm hiểu nghĩa của từ: Những từ ngữ cần tìm hiểu nghĩa là những từ khó đối với HS được chú giải sau bài đọc, từ ngữ phổ thông mà HS địa phương mình chưa quen, từ ngữ đóng vai trò chìa khoá để hiểu nội dung bài đọc. Những từ ngữ còn lại, nếu HS nào chưa hiểu, GV giải thích riêng cho HS đó hoặc tạo điều kiện để HS khác giải thích giúp, không nhất thiết phải đưa ra giải thích chung cho cả lớp. b.2 . Cách hướng dẫn HS tìm hiểu nghĩa: - Đọc phần giải nghĩa trong SGK (thông thường). - Miêu tả sự vật, đặc điểm được biểu thị ở từ cần giải nghĩa (Có thể phối hợp động tác, cử chỉ. VD: Vòng vèo: GV có thể dùng tay uốn lượn) - Sử dụng hiện vật, tranh vẽ, mô hình … - Tìm từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa với từ cần giải nghĩa - Đặt câu với từ cần giải nghĩa: cần lưu ý là phải giới hạn việc giải nghĩa từ trong phạm vi nghĩa cụ thể của bài học, không mở rộng những nghĩa khác, nhất là những nghĩa xa lạ đối với HS, không nên bày ra những biện pháp giải nghĩa cồng kềnh gây quá tải, làm mất thời gian luyện đọc của HS. b.3. Tìm hiểu nội dung bài: * Phạm vi nội dung cần tìm hiểu: + Với văn bản văn chương: Nhân vật (số lượng, tên, đặc điểm), tình tiết câu chuyện,nghĩa đen, nghĩa bóng dễ nhận ra của các câu văn, câu thơ. Ý nghĩa của câu chuyện, bài văn, bài thơ. + Với các văn bản khác (khoa học, hành chính, báo chí …): Tìm hiểu các đoạn của văn bản, hình thức và bố cục, nội dung và ý nghĩa của văn bản, tác dụng... * Cách tìm hiểu nội dung bài đọc: SGK thường nêu những câu hỏi tái hiện, sau đó mới đặt ra những câu hỏi suy luận. Dựa vào câu hỏi đó GV tổ chức cho HS hoạt động trao đổi, thảo luận, trả lời.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> câu hỏi, báo cáo kết quả thảo luận … sao cho mỗi em đều được làm việc để tự nắm được bài. Trong quá trình giảng dạy GV có thể thêm những câu hỏi phụ, câu hỏi dẫn dắt, những yêu cầu, những lời giảng bổ sung (không lạm dụng việc thuyết giảng). Sau khi HS nêu ý kiến, GV sơ kết, nhấn mạnh ý chính và ghi bảng. Trong quá trình tìm hiểu bài, GV phải chú ý rèn cho HS cách trả lời câu hỏi, diễn đạt ý băng câu văn gọn, rõ. c. Hướng dẫn đọc và học thuộc lòng: c.1. Luyện đọc thành tiếng: - Hình thức: cá nhân, từng cặp, nhóm (đôi, lớn) đồng thanh, cả lớp đồng thanh, một nhóm HS đọc theo cách phân vai. GV lắng nghe để phát hiện khả năng đọc của từng HS để có cách rèn đọc thích hợp. c.2. Luyện đọc thầm: Dựa vào SGK, giáo viên giao nhiệm vụ cụ thể cho HS nhằm định hướng việc trước khi các em đọc “ đọc - hiểu” (Đọc câu, đoạn hay khổ thơ nào? Đọc để hiểu, biết nhớ điều gì?). Có đoạn văn, đoạn thơ cần cho HS đọc thầm 2-3 lượt với tốc độ nhanh dần và từng bước thực hiện các nhiệm vụ từ dễ đến khó, nhằm rèn cho HS kĩ năng đọc hiểu. Tránh đọc thầm chiếu lệ, hình thức (đọc lâm râm nhưng không nắm được nội dung, GV giao việc không cụ thể rõ ràng). c. 3. Luyện đọc thuộc lòng: Với những bài thuộc lòng GV cần cho HS luyện đọc kĩ hơn. Cần ghi bảng một số “từ chốt” để làm “điểm tựa”để HS đễ nhớ và thuộc sau đó xoá dần từ chốt; hoặc tổ chức trò chơi luyện HTL nhẹ nhàng tạo hứng thú cho HS. d. 4. Đọc lướt : Khi muốn cho học sinh tìm 1 từ, cụm từ, câu nào đó mà không phải phải tìm hiểu nội dung của câu đoạn đó, ta có thể cho học sinh đọc lướt cả đoan hay bài để tìm. Đọc lướt đòi hoit học sinh lướt mắt nhanh tìm và nêu lên những yêu cầu của giáo viên. (Chủ yếu dành cho học sinh lớp 4, 5) IV. Quy trình dạy Tập đọc: a. Đối với lớp 1: GV giới thiệu bài (có thể bằng tranh, ảnh…) "GV đọc mẫu bài "Hướng dẫn HS luyện đọc theo trình tự sau: Đọc tiếng, từ ngữ, (từ khó, phát âm dễ lẫn;giải nghĩa từ). Đọc từng câu (tiếp nối). Đọc từng đoạn (cá nhân, đồng thanh). Ôn và học một cặp vần. Đọc và trả lời câu hỏi về bài đọc. Luyện đọc lại (hoặc HTL). Luyện nói theo bài đọc. b. Đối với lớp 2-3: GV giới thiệu bằng lời, bằng câu hỏi (tranh, ảnh…) "GV đọc mẫu bài "Hướng dẫn HS luyện đọc kết hợp giải nghĩa từ theo các bước sau:.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> Đọc nối tiếp từng câu (bỏ qua giai đoạn đọc tiếng, từ). Mục đích của bước đọc này là nhằm chia nhỏ văn bản cho nhiều HS được đọc, giúp GV phát hiện cách đọc, cách phát âm của từng em. GV chỉ cho HS dừng lại khi cần giúp HS sửa lỗi nếu có em phát âm sai; khen ngợi những HS đọc tốt. Đọc tiếp nối từng đoạn trước lớp: Tạo điều kiện GV giúp HS đọc đúng những câu đặc biệt; nghỉ hơi đúng; hiểu đúng từ ngữ "làm mẫu cho HS đọc đúng khi đọc theo cặp, theo nhóm nhỏ. Đọc từng đoạn trong nhóm: Tạo điều kiện cho 100% HS được luyện đọc Thi đọc từng đoạn trước lớp đối với lớp 2. (Lớp 3 bỏ qua bước này). Chú ý: tích hợp trong khi rèn đọc đúng: từ khó, câu khó, giải nghĩa từ ở chú thích. Nhấn giọng một số từ ngữ cần thiết. - Hướng dẫn HS tìm hiểu bài: Khi tìm hiểu bài HS chủ yếu đọc thầm. GV giao nhiệm vụ cụ thể (đọc thầm phát hiện những từ ngữ, chi tiết hình ảnh; đọc thầm suy nghĩ trả lời câu hỏi) để kiểm soát đọc. - Luyện đọc lại (hoặc HTL). - GV đọc diễn cảm từng đoạn hoặc cả bài ; lưu ý HS về giọng điệu chung của đoạn hoặc bài, những câu cần chú ý. Đối với Lớp 2-3 đọc diễn cảm chưa phải là yêu cầu bắt buộc. Do đó, tuỳ trình độ HS, GV có thể xác định mức độ cho phù hợp - Từng HS hoặc nhóm thi đọc. b. Đối với lớp 4-5: - HS nối nhau đọc từng đoạn ; đọc 2-3 lượt (Với HS đọc tốt có thể cho 1 HS đọc cả bài trước khi đọc nối tiếp từng đoạn). - HS luyện đọc theo cặp. - Một - hai HS đọc cả bài. * Chú ý: tích hợp trong khi rèn đọc đúng: từ khó, câu khó, giải nghĩa từ ở chú thích. - GV đọc diễn cảm toàn bài. - GV hướng dẫn HS trao đổi, thảo luận tìm hiểu nội dung bài đọc. - GV hướng dẫn HS luyện đọc lại (hoặc đọc diễn cảm với những văn bản nghệ thuật). Để luyện học sinh đọc được diễn cảm giáo viên phải giúp học sinh tìm hiểu nội dung bài. Sau khi hiểu nội dung bài GV giúp học sinh tìm ra giọng đọc cả bài, giọng đọc từng đoạn. VD: Trong bài tiếng rao đêm: cần đọc với giọng kể chuyện phù hợp với tình huống mỗi đoạn : khi chậm, khi buồn, khi dồn dập, căng thẳng, bất ngờ. Để HS đọc diễn cảm tốt cần cho học sinh biết cách nhấn giọng một số từ ngữ trong bài. Tùy theo bài mà chúng ta có cách nhấn giọng khác nhau: như nhấn giọng tựn nhiên ở các dòng thơ. (bài Cao Bằng). Nhấn giọng các từ ngũ gợi cảm, nhấn giọng các từ ngữ diễn tả âm thanh, hình dáng, các danh từ, động từ chính trong câu vv… * Về phân bố thời gian: (tùy theo từng bài mà có sự phân bố thời gian hợp lí. - Phần kiểm tra bài cũ: 3-5 phút - Bài mới:.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> + Phần tìm hiểu nội dung bài: Từ 8- 10 phút + Ưu tiên cho phần luyện đọc và các hoạt động về đích: 20 phút. **=**=**=**=** Mô đun TH 14 THỰC HÀNH THIẾT KẾ KẾ HOẠCH BÀI DẠY THEO HƯỚNG DẠY HỌC TÍCH CỰC I. Sự cần thiết của việc thực hành thiết kế KHBD theo hướng DH tích cực trong phân môn LTVC (lớp 3): Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Chính vì vậy phân môn LTVC có nhiệm vụ vô cùng quan trọng. II. Mục đích của việc thực hành thiết kế KHBD theo hướng DH tích cực trong phân môn LTVC lớp 3: Hiện nay, nhà trường tiểu học đang từng bước ĐMPPDH lấy học sinh làm trung tâm, bám sát vào chuẩn kiến thức kĩ năng, dạy học phân hóa đối tượng, đưa CNTT vào bài giảng để nâng cao chất lượng giờ dạy. Bản thân tôi cũng như đồng nghiệp đều nhận thấy tầm quan trọng của việc dạy học LTVC. Bên cạnh những em tiếp thu nhanh, nắm chắc kiến thức thì vẫn còn có em lúng túng, chưa nắm chắc kiến thức. Chính vì vậy để thực hiện tốt việc thiết kế KHBD theo hướng tích cực, tôi xin đưa ra một số giải pháp để thống nhất quy trình lên lớp, phương pháp và hình thức dạy học LTVC. III. Nội dung dạy học và các hình thức luyện tập: 1. Nội dung dạy học: a. Mở rộng vốn từ. b. Ôn luyện về kiểu câu và các thành phần câu. c. Ôn luyện về một số dấu câu cơ bản. d. Làm quen với so sánh và nhân hóa. 2. Các hình thức luyện tập: a. Các bài tập về từ: b. Các bài tập về câu. c. Các bài tập về dấu câu d. Các bài tập về biện pháp tu từ. IV. Các biện pháp dạy học chủ yếu: 1. Hướng dẫn học sinh làm bài tập: Giáo viên giúp học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập (Bằng câu hỏi, lời giải thích). Giáo viên giúp học sinh chữa một phần của bài tập để làm mẫu. Giáo viên tổ chức cho học sinh làm bài. Giáo viên tổ chức cho học sinh trao đổi, nhận xét, rút ra ghi nhớ..

<span class='text_page_counter'>(25)</span> 2. Cung cấp cho học sinh một số tri thức cơ bản về từ, câu, dấu câu: Kiến thức rút ra qua các bài tập. V. Quy trình giảng dạy: 1. Kiểm tra bài cũ. 2. Dạy bài mới. a. GTB b. Hướng dẫn luyện tập. - Giáo viên tổ chức: + Đọc và xác định yêu cầu bài tập + Làm mẫu + Làm bài tập theo hướng dẫn của giáo viên. + Trao đổi, nhận xét, rút ra ghi nhớ về kiến thức. c. Củng cố dặn dò Chốt kiến thức, nêu yêu cầu về nhà. VI . Những khó khăn vướng mắc : 1. Giáo viên: - Chưa nghiên cứu kĩ sách giáo khoa và sách tham khảo. - Các PPDH và hoạt động dạy học chưa hay, chưa hiệu quả. - Gv còn làm thay học sinh nhiều. - Chưa phân bố thời gian hợp lí, hệ thống câu hỏi chưa ngắn gọn. 2. Học sinh: - Vốn từ còn nghèo. - Chưa xác định được yêu cầu bài tập. VII. Giải pháp: 1. Giáo viên: - Chuẩn bị tốt nội dung bài dạy. Định hướng cụ thể phương pháp và hình thức tổ chức cho từng hoạt động - Luôn gắn luyện tập với thực hành. - Tích cực sử dụng đồ dùng. - Ngôn ngữ giáo viên trong sáng. 2. Học sinh: - Tích cực đọc sách, báo. - Cho học sinh giao lưu trực tiếp với các bạn ở trong lớp. - Yêu cầu học sinh đọc kĩ bài trước khi làm. **=**=**=**=** THỰC HÀNH THIẾT KẾ BÀI GIẢNG MỞ RỘNG VỐN TỪ: GIA ĐÌNH. ÔN TẬP CÂU AI LÀ GÌ ? I. Môc tiªu: - Tìm đđược một số từ ngữ chỉ gộp những người trong gia đình (BT1). - XÕp được c¸c thµnh ng÷, tôc ng÷ vµo nhãm thÝch hîp (BT2). - §Æt đđược c©u theo mÉu Ai lµ g×? (BT3 a/b/c). - Có ý thức dùng từ, đặt câu chính xác..

<span class='text_page_counter'>(26)</span> II. Chuẩn bị: - B¶ng líp viÕt s½n BT2. III. Các hoạt động dạy- học chủ yếu. Hoạt động dạy A. KiÓm tra bµi cò: 5 phót 1. Tìm hình ảnh so sánh trong câu: Tóc bà trắng tựa mây bông Chuyện bà kể như giếng cạn xong lại đầy 2. Đặt một câu theo mẫu: Ai là gì? - Gọi HS nhận xét - Gv ghi điểm. B. Bµi míi: 27phót 1. Giíi thiÖu bµi: 1' (GV giíi thiÖu) 2. HD lµm BT: 26' a. Bµi tËp: - §äc yªu cÇu BT - Gv giải thích : Từ ngữ chỉ gộp (chỉ 2 người) - Gv ghi - Gv yêu cầu nhận xét - Gv yêu cầu đặt câu với từ tìm đợc. - Gv chốt. b. Bµi tËp 2: - Yêu cầu học sinh đọc + xác định yêu cÇu. - Gv gi¶ng: ThÕ nµo lµ thµnh ng÷ vµ tôc ng÷? + Trong c¸c c©u thµnh ng÷, tôc ng÷ nµy đã thể hiện tình cảm của cha mẹ đối với con cái, của con cháu đối với ông bà, cha mÑ, cña anh chÞ em víi nhau. + Gv gi¶i thÝch c©u: “ Con hiÒn, ch¸u th¶o”, con cã cha nh nhµ cã nãc, con c¸i kh«n ngoan vÎ vang cha mÑ. + Gv cho hs th¶o luËn theo nhãm bµn. + yªu cÇu b¸o c¸o + Gv chốt đáp án đúng.. Hoạt động học - HS lµm miÖng, nhận xét. - Đọc và xác định yêu cầu. - Đọc mẫu. - Nghe, tìm thêm - HS nêu - Nhận xét - §Æt c©u. - 1 HS đọc, lớp đọc thầm. - L¾ng nghe - L¾ng nghe + nh¾c l¹i. - Th¶o luËn - B¸o c¸o, nhËn xÐt - L¾ng nghe, nªu hiÓu biÕt cña m×nh vÒ nh÷ng c©u thµnh ng÷, tôc ng÷. - Lắng nghe, nêu những việc cần làm để thÓ hiÖn t×nh c¶m víi nh÷ng ngêi trong gia đình. - Thùc hiÖn. + Gv gi¶ng, liªn hÖ: Cha mÑ lµ ngêi yªu th¬ng ta nhÊt, lu«n che chë vµ b¶o vÖ ta. V× vËy mçi chóng ta cÇn ngoan ngoãn, học tập tốt để ông bà, cha mẹ vui lòng, để vẻ vang cha mẹ... - HSG c. Bµi tËp 3: - yêu cầu học sinh đọc và xác định yêu - 2 HS cÇu. - Gv mêi häc sinh nh¾c l¹i ng¾n gän nội dung các bài tập đọc. - Nhãm 4 - Gv gäi 1 HS lµm mÉu phÇn a..

<span class='text_page_counter'>(27)</span> - GV yªu cÇu häc sinh nãi cho nhau nghe những câu mình đặt. - YC HS nói câu vừa đặt. - GV chèt: mÉu c©u Ai lµ g× ? C. Cñng cè, dÆn dß: 3phót - GV nhËn xÐt tiÕt häc - GV nh¾c HS vÒ nhµ HTL 6 thµnh ng÷, tôc ng÷ ë BT2.. - HS đặt câu + lớp nhận xét. - L¾ng nghe.. Trên đây là bài viết thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên tiểu học năm học 2013-2014. Người viết bài thu hoạch. Phạm Văn Bảy.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> Xếp loại. Điểm TB. Nội dung bồi dưỡng Kiến thức bắt buộc Kiến thức tự chọn (NDBD3) Mô đun Mô đun Mô đun Mô đun NDBD1 NDBD2 TH1 TH7 TH12 TH14 Điểm XL Điểm XL Điểm XL Điểm XL Điểm XL Điểm XL. Tổng điểm. PHẦN NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA BGH. ...................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ..

<span class='text_page_counter'>(29)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×