Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Kỹ năng hoạt động nhóm trong học tập của sinh viên trường đại học sài gòn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (780.59 KB, 85 trang )

THƯ
VIỆN

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Ngọc Huyền

KỸ NĂNG HOẠT ĐỘNG NHĨM
TRONG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số:
60 31 80

LUẬN VĂN THẠC SỸ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ TỨ

Thành phố Hồ Chí Minh - 2010


LỜI CẢM ƠN

Tơi xin được bày tỏ lịng biết ơn chân thành và sâu sắc đến Tiến sỹ Nguyễn Thị Tứ, người
đã ln tận tình hướng dẫn, động viên, khích lệ tơi trong suốt q trình thực hiện đề tài.
Tơi xin chân thành cảm ơn:
- Ban Giám Hiệu, các Phòng ban, các Khoa, quý Thầy Cô, các đồng nghiệp và các bạn
sinh viên trường Đại học Sài Gòn đã tạo điều kiện, nhiệt tình hỗ trợ và tích cực tham gia cùng


chúng tơi trong q trình thực hiện đề tài.
- Q Thầy, Cơ đã giảng dạy, hướng dẫn, góp ý khoa học cho lớp cao học tâm lý K. 18 và
các anh chị cùng khóa học, người thân đã động viên, giúp đỡ tơi trong q trình học tập cũng
như khi thực hiện luận văn này.

Lê Ngọc Huyền


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ĐHSG

:

Đại học Sài Gịn

ĐLC

:

Độ lệch chuẩn

ĐTB

:

Điểm trung bình

GV


:

Giáo viên

HĐN

:

Hoạt động nhóm

KN

:

Kỹ năng

P.

:

Mức ý nghĩa

T – Test

:

Trị số kiểm nghiệm T

SV


:

Sinh viên


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xã hội hiện nay, với sự tồn cầu hóa ngày càng gia tăng, khoa học kỹ thuật phát
triển, khối lượng kiến thức của nhân loại càng gia tăng thì yêu cầu làm việc theo nhóm là một
xu thế làm việc rất phát triển và hiệu quả trong mọi lĩnh vực hoạt động. Bởi lẽ ngày nay khơng
ai có thể tự mình nắm vững tất cả các thông tin của mọi lĩnh vực, điều đó có nghĩa khơng phải
cơng việc nào, vấn đề nào hay tình huống nào…chúng ta đều có thể tự mình giải quyết hiệu
quả. Vì vậy, làm việc theo nhóm hay hoạt động cùng nhau trong nhóm giúp ta tập trung sức
mạnh của nhiều người nhằm đảm bảo tính hiệu quả của công việc, phát huy tối đa năng lực của
cá nhân, tìm ra giải pháp để giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng…Nhóm khơng chỉ là mơi
trường giúp cho cá nhân phát triển mà nó cịn là cơng cụ đổi mới và phát triển xã hội.
Giáo sư Viện sĩ Phạm Minh Hạc đã nói: “ Nhà trường hiện đại ngày nay là nhà trường
hoạt động, dùng phương pháp hoạt động… Hoạt động cùng nhau, hoạt động hợp tác giữa thầy
và trị, giữa trị và trị…có tác dụng rất lớn”. Nhà trường hiện nay phải coi trọng việc tổ chức
cho học sinh – sinh viên hoạt động độc lập theo nhóm. HĐN trong và ngồi giờ học là hoạt
động thiết thực, giúp SV tham gia tích cực vào q trình học tập, giúp họ nắm vững và đào sâu
tri thức, biết lắng nghe và học cách suy nghĩ về những ý kiến, quan điểm khác nhau của mọi
người, biết chia sẻ kinh nghiệm, đưa ra ý kiến và cùng nhau giải quyết những vấn đề chung.
HĐN là nơi mọi người thỏa mãn nhu cầu học hỏi, khuyến khích sự độc lập, tự chủ, thái độ có
trách nhiệm, kích thích tinh thần hợp tác, giúp SV nâng cao và chia sẻ nhận thức của mình.
HĐN cịn phát huy sức mạnh tập thể: cơng việc được hồn thành nhanh hơn, tốt hơn, sáng tạo
hơn và phong phú hơn, nâng cao khả năng làm việc của từng cá nhân, phát huy tối đa ưu thế
của mỗi người.
Với quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm: phát huy tính tích cực, chủ động sáng
tạo của người học nghĩa là phải thay đổi vai trò của người thầy và cách học của SV. Nếu trước

kia, vai trị chính của thầy là truyền đạt kiến thức còn trò là người tiếp thu kiến thức chủ yếu từ
thầy một cách thụ động, thì ngày nay vai trò chủ yếu của thầy là tổ chức, hướng dẫn SV học,
người học phải là chủ thể tự giác tích cực, chủ động để chiếm lĩnh tri thức, hình thành KN.
Chính người học phải tự thể hiện mình và hợp tác với bạn, học từ bạn và xã hội hóa việc học
của mình. Ngày này, dạy học quan trọng không phải là truyền đạt cho SV bao nhiêu kiến thức,
mà là trang bị cho SV khả năng tự thu nhận kiến thức, hình thành cho họ các KN thực hành, tư


duy phê phán và sáng tạo, năng lực tự giải quyết vấn đề, KN giao tiếp, KN làm việc nhóm…Vì
thế, dạy học phải thông qua các tổ chức hoạt động của người học. Hơn nữa, trong học tập,
không phải mọi tri thức kỹ năng thái độ đều được hình thành bằng con đường hoạt động thuần
túy cá nhân. Lớp học là mơi trường giao tiếp giữa thầy – trị, trị – trò tạo nên mối quan hệ hợp
tác giữa các cá nhân trên con đường đi tới chân lý. Hoạt động học tập được tiến hành theo
nhóm sẽ làm cho từng thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội, tính
cách của mỗi cá nhân được bộc lộ, được uốn nắn; phát triển tình bạn, ý thức kỹ luật, tinh thần
tương trợ, ý thức cộng đồng…nhờ đó mà hiệu quả học tập sẽ tăng lên, bài học vận dụng được
vốn hiểu biết và kinh nghiệm của mỗi cá nhân và của cả lớp.
Hiệu quả của “HĐN trong học tập” là không thể phủ nhận, nhưng không phải SV nào cũng
đạt kết quả cao khi học và làm việc theo nhóm, thậm chí ít hiệu quả hơn so với làm việc cá
nhân. Vì chất lượng HĐN cịn phụ thuộc bởi nhiều yếu tố như: mơi trường học tập, vốn sống,
kinh nghiệm, trình độ nhận thức và kiến thức về HĐN…của bản thân SV, song quan trọng nhất
là SV phải có KN HĐN. KN HĐN sẽ giúp SV biết cách học và cách làm việc theo nhóm, nâng
cao chất lượng học tập và hình thành các KN xã hội cần thiết.
Vì vậy, SV cần được trang bị KN HĐN khi bắt đầu bước chân vào Đại học, điều này hoàn
toàn phù hợp với xu hướng dạy học hiện nay là dạy học theo nhóm. Tuy nhiên, thực tiễn cho
thấy tại các trường đại học dường như chưa quan tâm đúng mức đến việc hình thành và rèn
luyện KN HĐN cho SV, điều này ảnh hưởng nhất định đến chất lượng đào tạo và kết quả học
tập của SV. Trong những năm gần đây, mặc dù đã có một số cơng trình nghiên cứu về KN học
tập của SV như “Nghiên cứu kỹ năng tự học trên lớp của sinh viên sư phạm” của Nguyễn Thị
Bích Hạnh, “Khảo sát và đánh giá một số kỹ năng tương tác trong tổ chức của sinh viên khoa

sư phạm trường Đại học Tiền Giang” của Lê Tấn Huỳnh Cẩm Giang…nhưng chưa có cơng
trình nào nghiên cứu một cách cụ thể về KN HĐN trong học tập của SV.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Kỹ năng
hoạt động nhóm trong học tập của sinh viên trường Đại học Sài Gòn”.
2. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát thực trạng biểu hiện KN HĐN trong học tập của SV trường Đại học Sài Gịn,
qua đó đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao KN HĐN trong học tập của SV.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Hệ thống hóa những vấn đề về lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu.
3.2 Khảo sát mức độ nhận thức của SV về KN HĐN trong học tập.


3.3 Khảo sát mức độ biểu hiện của SV về KN HĐN trong học tập.
3.4 Tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành KN HĐN trong học tập, trên cơ sở
đó đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao KN HĐN cho SV.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Biểu hiện KN HĐN trong học tập của SV trường ĐHSG.
4.2 Khách thể nghiên cứu:
Khách thể nghiên cứu chính là 287 SV trường ĐHSG.
5. Giả thuyết nghiên cứu
- Mức độ nhận thức của SV về KN HĐN chưa cao.
- Mức độ biểu hiện giữa các KN bộ phận của KN HĐN trong học tập của SV có sự khác
biệt.
- Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến KN HĐN của SV, trong đó chủ yếu là do cách học của
SV cịn mang tính đối phó, thụ động…và cách dạy của GV.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1 Phạm vi về nội dung :
Khi tham gia HĐN trong học tập, SV phải vận dụng nhiều KN bộ phận. Trong đề tài này,
chúng tôi chỉ nghiên cứu thực trạng nhận thức và mức độ biểu hiện của 5 kỹ năng sau:

- Kỹ năng lắng nghe
- Kỹ năng thuyết trình
- Kỹ năng thảo luận
- Kỹ năng giải quyết vấn đề
- Kỹ năng hợp tác, chia sẻ
6.2 Phạm vi về khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu là 287 sinh viên năm 1 và năm 3 khối Sư phạm thuộc khoa Tự nhiên
và khoa Xã hội trường ĐHSG được chọn ngẫu nhiên.
7. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng hệ thống phương pháp sau:
7.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận: chủ yếu là phương pháp nghiên cứu tài liệu.
7.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Phương pháp quan sát


- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp thống kê toán học
8. Đóng góp mới của đề tài
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ lý luận và thực tiễn KN HĐN của SV.
- Là cơ sở để đưa ra các biện pháp nhằm phát nâng cao KN HĐN cho SV trong nhà
trường.


NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1 Lịch sử nghiên cứu kỹ năng
KN là một trong những yếu tố giúp cho con người hoạt động có hiệu quả. Do đó, vấn đề
nghiên cứu KN đã được các nhà tâm lý học nghiên cứu từ lâu dưới nhiều góc độ khác nhau.

- Nhà triết học Hy lạp cổ đại Aristot (384-322) đã xem KN như một phẩm chất, một phần
phẩm hạnh của con người. Ông cho rằng nội dung phẩm hạnh là “biết định hướng, biết làm
việc, biết tìm tịi”.
- Thế kỷ 19, các nhà giáo dục học nổi tiếng như J.J Rutxo (Pháp), K.D.Usinxki (Nga),
I.A.Kômenxki (Tiệp khắc) cũng đã đề cập đến kỹ năng trí tuệ của học sinh và con đường hình
thành KN này.
Tuy nhiên, từ thế kỷ 19 trở về trước, vấn đề này chưa được nghiên cứu một cách có hệ
thống. Chỉ bắt đầu từ thế kỷ 20, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật trên toàn
thế giới, KN trở thành một trong những lĩnh vực nghiên cứu quan trọng mang ý nghĩa thực tiễn
cao.
Nhưng nhìn chung, việc nghiên cứu KN xuất phát từ hai quan điểm:
- Nghiên cứu KN trên cơ sở của tâm lý học hành vi mà đại diện là các tác giả: J.B. Oatson,
B.F.Skiner, E.L.Toocđai, E.Tomen…
- Nghiên cứu KN trên cơ sở tâm lý học hoạt động mà đại diên là các nhà tâm lý học Liên
xô (cũ). Điểm qua lịch sử nghiên cứu KN của các nhà tâm lý học, giáo dục học Xô viết cho
thấy có 2 hướng chính sau:
+ Hướng thứ nhất: nghiên cứu KN ở mức độ khái quát. Đại diện cho hướng nghiên cứu
này có các tác giả: P.Ia.Galperin, P.V.Petropxki, V.X.Cudin, K.K.Platonov…Các tác giả đã đi
sâu nghiên cứu bản chất khái niệm KN, các qui luật hình thành và mối liên hệ giữa KN và kỹ
xảo.
+ Hướng thứ hai: nghiên cứu KN ở mức độ cụ thể trong các lĩnh vực khác nhau, như:
* Trong lĩnh vực lao động công nghiệp: V.V.Tsebbuseva (1973), V.G.Look (1980),
E.A.Milerian (1979)…Các tác giả nghiên cứu KN trong mối quan hệ giữa con người với máy
móc, cơng cụ, phương tiện lao động.
* Trong lĩnh vực hoạt động sư phạm: N.D.Lêvitov (1970), X.I. Kixegof (1976), G.X.
Kaxchuc (1978), N.A. Menchinxcaia (1978)…


* Trong lĩnh vực hoạt động tổ chức: N.V. Cudomina (1976), L.T. Tiuptia (1987)…
Mặc dù nghiên cứu KN ở các hướng khác nhau nhưng các tác giả khơng có những quann

điểm trái ngược nhau về khái niệm KN mà những quan điểm đó thường bổ sung cho nhau.
1.1.2 Lịch sử nghiên cứu kỹ năng hoạt động nhóm
Trong những thập kỷ gần đây, có nhiều cơng trình nghiên cứu về KN thuộc các lĩnh vực
hoạt động cụ thể được các nhà tâm lý học và giáo dục học Việt Nam quan tâm. Về KN lao động
có Trần Trọng Thủy, Nguyễn Tiến Dũng, Đỗ Huân…Về KN sư phạm có Nguyễn Như An,
Nguyễn Ngọc Bảo…Về KN giao tiếp có Nguyễn Thạc, Hồng Anh…Về KN học tập của SV có
Hà Thị Đức, Trần Quốc Thành…
Cùng với sự thay đổi hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ, vai trị của người học được
phát huy tích cực tối đa. Học theo nhóm là một trong những hình thức học tập phát huy tính tích
cực của người học, dạy học hướng về người học. Vì thế, học theo nhóm trở nên rất phổ biến,
đóng vai trị quan trọng khơng thể thiếu ở trường đại học.
Ngồi những tác phẩm, bài báo nghiên cứu về vấn đề này như: “Phương pháp học tập theo
nhóm” của TS. Trần Thị Thu Mai, trường Đại học sư phạm tp.Hồ Chí Minh, “Làm việc theo
nhóm – một phương pháp học tập phát huy sức mạnh tập thể” của Phạm Thị Huyền, luận văn
thạc sĩ của Lê Tấn Huỳnh Cẩm Giang “Khảo sát và đánh giá một số kỹ năng tương tác trong tổ
chức của sinh viên khoa sư phạm trường Đại học Tiền Giang” (2006) và luận văn thạc sĩ của
Kiều Ngọc Quý “Tổ chức học hợp tác nhằm nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học theo
nhóm” (2009).
Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào nghiên cứu về KN HĐN trong học tập của SV. Vì thế,
việc nghiên cứu vấn đề này càng trở nên cần thiết, góp phần vào việc rèn luyện KN cho SV,
đáp ứng được xu hướng giáo dục đào tạo ở bậc đại học hiện nay.
1.2 Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.2.1 Hoạt động
1.2.1.1 Khái niệm về hoạt động
Hoạt động là một trong những khái niệm cơ bản nhất trong tâm lý học. Có nhiều định
nghĩa khác nhau về hoạt động tùy theo góc độ xem xét.
- Hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người (chủ thể) và thế giới (khách
thể) để tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới, cả về phía con người [45, tr.55]. Trong mối qua lại
biện chứng đó, con người vừa tạo ra sản phẩm về phía thế giới, vừa tạo ra tâm lý của mình. Hay



nói khác đi, tâm lý - ý thức - nhân cách của con người được bộc lộ và hình thành trong hoạt
động.
- Hoạt động là sự tương tác tích cực giữa chủ thể và đối tượng, nhằm biến đổi đối tượng
theo mục tiêu mà chủ thể đã đặt ra. Quá trình chủ thể tác động vào đối tượng nhằm tạo ra sản
phẩm [34, tr 6].
- Hoạt động là quá trình con người thực hiện các quan hệ giữa mình và thế giới chung
quanh, thế giới tự nhiên và thế giới xã hội. Trong sự tác động này ở con người sẽ diễn ra hai
q trình, đó là q trình khách thể hóa và q trình chủ thể hóa. Có thể giải thích rằng trong
hoạt động, nghĩa là trong quan hệ giữa con người và thế giới bên ngoài, con người vừa thay đổi
thế giới bên ngoài vừa thay đổi bản thân mình, con người vừa tạo ra sản phẩm lao động, vừa tạo
ra nhân cách bản thân [12, tr19].
Như vậy có thể nói hoạt động là q trình tác động qua lại giữa con người và thế giới để
tạo ra sản phẩm từ cả hai phía. Trong q trình hoạt động, tâm lý nhân cách được bộc lộ và
hình thành.
1.2.1.2 Đặc điểm của hoạt động
Hoạt động bao giờ cũng là hoạt động có đối tượng “Đối tượng của hoạt động là cái ta tác
động vào nhằm thay đổi hoặc chiếm lĩnh. Nó có thể là sự vật hiện tượng, khái niệm, con người
hoặc các mối quan hệ…có khả năng thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người, thúc đẩy con
người hoạt động” [45, tr 56].
Hoạt động bao giờ cũng có chủ thể. Chủ thể của hoạt động có thể là một hoặc nhiều người.
Hoạt động bao giờ cũng có mục đích. Hoạt động của con người ln ln xuất phát từ
những mục đích đã được xác định. Mục đích là biểu tượng về sản phẩm hoạt động có khả năng
thỏa mãn nhu cầu nào đó của chủ thể. Để đạt được mục đích, con người phải sử dụng các điều
kiện, phương tiện cần thiết.
Hoạt động có tính gián tiếp “Trong hoạt động, con người bao giờ cũng phải sử dụng những
công cụ nhất định” [45, tr 57]. Công cụ tâm lý, ngôn ngữ và công cụ lao động giữ chức năng
trung gian giữa chủ thể và khách thể tạo ra tính gián tiếp của hoạt động.
Chính tính mục đích và tính gián tiếp tạo nên sự khác nhau căn bản giữa hoạt động của con
người với hành vi bản năng của con vật.

1.2.1.3 Cấu trúc của hoạt động
Phân tích, mô tả cấu trúc của hoạt động là vấn đề nhiều nhà tâm lý quan tâm. Khi phê phán
công thức S – R của chủ nghĩa hành vi, A.N. Leonchev khẳng định, hành động (hoạt động)


không phải là phản ứng hay tổ hợp của phản ứng mà là một hệ thống có cấu trúc, có sự chuyển
hóa của các đơn vị cấu thành cấu trúc và có sự phát triển của nó. Từ nhận định đó, tác giả đã
đưa ra cấu trúc hoạt động nổi tiếng.
Có thể khái quát cấu trúc của hoạt động qua sơ đồ sau:
Hoạt động

Động cơ

Hành động

Mục đích

Thao tác

Phương tiện

Cấu trúc trên cho thấy, hoạt động được thúc đẩy bởi động cơ nhất định, nó được hợp thành
bởi các hành động theo một mục đích nhất định. Hành động do các thao tác hợp thành tùy theo
các phương tiện cụ thể. Sáu thành tố trên có mối quan hệ mật thiết qua lại, chuyển hóa cho nhau
trong hồn cảnh cụ thể, đặc biệt là yếu tố hành động – mục đích.
Cấu trúc chung của hoạt động có ý nghĩa quan trọng, nó làm cơ sở cho việc nghiên cứu
tâm lý học, giáo dục học trong đó có việc nghiên cứu về KN.
1.2.1.4 Hoạt động học tập
Chúng ta cần làm rõ khái niệm học và hoạt động học:
Trong cuộc sống đời thường, con người ln ln có q trình tiếp thu tích lũy kinh

nghiệm sống, trên cơ sở đó tạo nên những tri thức tiền khoa học, làm cơ sở tiếp thu những khái
niệm khoa học trong nhà trường. Đó chính là việc học, là cách học theo phương pháp của cuộc
sống thường ngày. Một đứa trẻ từ khi mới sinh ra cho đến lúc trưởng thành, trở thành một nhân
cách nhất định, trẻ phải học nhiều thứ “Học ăn, học nói, học gói, học mở”: trẻ có thể học ở
nhiều nơi, học bằng mọi cách và học ở nhiều thời điểm khác nhau.
Hoạt động học tập là khái niệm dùng để chỉ việc học diễn ra theo phương thức đặc thù
(phương thức nhà trường) nhằm lĩnh hội các tri thức mới, KN, kỹ xảo mới.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về hoạt động học tập:
- L.B.Enconhin cho rằng việc lĩnh hội tri thức là nội dung cơ bản của hoạt động học tập,
được xác định bởi cấu trúc và mức độ học tập.
- I.B.Intenxon xác định học tập là hoạt động đặc biệt của con người nhằm mục đích nắm
vững tri thức, KN kỹ xảo và hành vi.
- A.N.Leonchiev, P. La. Ganperin, N.Ph.Taludina xem quá trình học tập xuất phát từ mục
đích của hành vi.


- A. V. Petrovxki nêu lên tâm lý hoạt động học tập là vấn đề phẩm chất tư duy, kết hợp các
loại hoạt động trong việc thực hiện mục đích và nhiệm vụ giảng dạy…[38, tr.118].
Mặc dù chưa có sự thống nhất hoàn toàn trong quan niệm về hoạt động học tập, nhưng các
nhà nghiên cứu vẫn đưa ra những điểm chung của hoạt động học tập như: có mục đích, tự giác,
có ý thức về động cơ và trong hoạt động học tập có diễn ra các q trình nhận thức, đặc biệt là
quá trình tư duy.
Bản chất của hoạt động học tập được biểu hiện trong 4 vấn đề sau:
- Đối tượng của hoạt động học tập là tri thức và những KN, kỹ xảo tương ứng với nó.
- Hoạt động học tập là hoạt động hướng vào làm thay đổi chính chủ thể của hoạt động.
- Hoạt động học tập là hoạt động được điều khiển một cách có ý thức. Hoạt động này diễn
ra dưới sự tổ chức điều khiển và hướng dẫn của GV, người học ý thức, tự giác tích cực để lĩnh
hội tri thức, KN, kỹ xảo.
- Hoạt động học tập không phải là hoạt động chỉ hướng vào tiếp thu những tri thức, KN, kỹ
xảo mà còn hướng vào tiếp thu những tri thức của bản thân hoạt động, nói cách khác, là tiếp thu

cả phương pháp học cách học [38, tr.119].
1.2.2 Nhóm, Hoạt động nhóm
1.2.2.1 Khái niệm nhóm
Khi nghiên cứu về nhóm, các tác giả đưa ra quan điểm như sau:
- Theo từ điển Tâm lý học của Vũ Dũng “nhóm là cộng đồng có từ hai người trở lên, giữa
các thành viên có chung lợi ích và mục đích, có sự tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau trong quá
trình hoạt động chung” [11, tr.561].
- Theo A.V.Petrovxki thì “nhóm là một cộng đồng người thống nhất với nhau trên cơ sở
một hay một số dấu hiệu chung có quan hệ với việc thực hiện hoạt động chung và giao tiếp của
họ” [40, tr.76].
- Với Marvin Shaw, nhà tâm lý học phương Tây, ơng cho rằng “nhóm là cộng đồng người
có từ ba người trở lên, giữa họ có sự tác động tương hỗ và ảnh hưởng lẫn nhau, tồn tại trong
một thời gian nhất định, cùng nhau thực hiện hoạt động chung” [40, tr.76].
- Theo Trần Hiệp: “nhóm là một cộng đồng có từ hai người trở lên, giữa họ có một sự
tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau trong qua trình thực hiện hoạt động chung” [18, tr.68].
- Ngồi ra, cịn một số quan điểm khác về nhóm như “Nhóm là một tổ chức bao gồm
những thành viên, được thành lập và tồn tại vì một mục đích chung” [36, tr.330] hay “Nhóm là


tập hợp những cá nhân có các KN bổ sung cho nhau, cùng nhau cam kết chịu trách nhiệm thực
hiện một mục tiêu chung” [25, tr.13].
Như vậy, chúng tôi quan niệm nhóm là tập hợp từ hai người trở lên, giữa học có sự tương
tác lẫn nhau trong q trình thực hiện hoạt động chung, nhằm đạt được mục tiêu chung của
nhóm.
1.2.2.2 Các đặc tính cơ bản của nhóm
- Theo tâm lý học Xơ viết, tính thống nhất của nhóm dựa trên những dấu hiệu: đặc điểm
hoạt động chung, thuộc tính xã hội hoặc giai cấp, đặc điểm tổ chức, mức độ phát triển…đặc
biệt là “Sự tồn tại của nhóm không tách rời hoạt động” [18, tr 67].
- Theo tác giả Nguyễn Thị Oanh, nhóm phải có đủ 4 yếu tố:
a. Chia sẻ mục tiêu

Một tập hợp người không thể được xem như một nhóm nếu họ khơng có cùng mục tiêu và
cùng chia sẻ trách nhiệm để đạt được mục tiêu đó. Khi trong tập thể người ta khơng cùng chia
sẻ mục tiêu thì lại có sự phân hóa thành nhiều nhóm. Mục tiêu chung là điểm qui tụ các thành
viên trong nhóm, mục tiêu cũng chính là động lực, là kim chỉ nam cho nhóm hoạt động. Mục
tiêu giúp các thành viên giải quyết mâu thuẫn và xác định cách làm việc của nhóm. Khi tham
gia xây dựng mục tiêu chung, các thành viên trong nhóm sẽ cảm thấy hứng thú và họ đều cố
gắng để đạt được.
b. Sự tương tác giữa các thành viên
Đây là yếu tố cơ bản của HĐN. Để trở thành một nhóm, các thành viên cần có mối quan hệ
“mặt giáp mặt” kéo dài trong một thời gian nhất định. Họ giao tiếp và ảnh hưởng lẫn nhau. Họ
giao tiếp với nhau bằng lời nói hay ngơn ngữ cơ thể. Sự tham gia tích cực của nhóm viên sẽ
đem lại sự thỏa mãn và gắn bó với nhóm. Tương tác phải hai chiều, chính tương tác là yếu tố
chủ yếu làm thay đổi hành vi con người. Trong tiếp xúc, họ càng gắn kết với nhau thì nhóm
càng dễ dàng đạt được mục đích chung. Chất lượng của tương tác mang ý nghĩa rất lớn vì nó
làm tăng cường hiệu quả HĐN.
c. Có các qui tắc chung
“ Những qui định chung của nhóm là đặc tính quan trọng nhất trong việc giúp cho nhóm
ổn định và vận hành một cách có hiệu quả” [36, tr.335]. Tập thể nào khi làm việc chung cũng
cần xây dựng nội qui để mọi người tuân theo.
Qui tắc là các luật lệ hướng dẫn hành vi mà nhóm đặt ra. Những qui tắc này có thể được
thơng báo, xác định một cách chính thức hoặc có khi được nhóm viên mặc nhiên chấp nhận


khơng cần hình thức. Đối với các qui tắc này thì khơng thể áp đặt mà qua q trình gắn bó với
nhau, các thành viên sẽ phát hiện và tuân thủ.
d. Vai trò của từng thành viên
Mỗi cá nhân của nhóm có những vai trị riêng góp phần giúp nhóm hoạt động hiệu quả.
Thường thì các vai trị là kết quả của quá trình phân chia trách nhiệm dựa vào khả năng chuyên
môn cũng như những điều kiện khác. Vai trị là khn mẫu các hành vi quen thuộc mà cá nhân
phát triển để phục vụ nhóm. Các vai trị này từ từ có thể thành nếp tùy đặc tính nhân cách của

nhóm viên và nhu cầu chung của nhóm. Vì thế vai trị khơng ln ở thế tĩnh mà ở thế động tùy
vào các tình huống khác nhau. Một thành viên cùng một lúc có thể giữ nhiều vai trò.
Rõ ràng, nếu chỉ tập hợp một số lượng người nào đó mà giữa họ khơng có mục tiêu chung,
khơng có sự tương tác, khơng có sự chia sẻ… nghĩa là “giữa họ khơng có hoạt động chung thì
đó khơng phải là nhóm, mà là đám đơng” [40, tr 77]. HĐN tạo nên sự liên kết, thúc đẩy tinh
thần hợp tác, phụ thuộc giữa các thành viên; mỗi người cố gắng thể hiện tốt vai trị của mình:
cùng chia sẻ trách nhiệm, cùng nhau hỗ trợ và cam kết giải quyết vấn đề chung của nhóm. Điều
này khơng có nghĩa vai trị của mỗi cá nhân khơng cịn quan trọng nữa mà tính hiệu quả của
nhóm dựa vào thành quả của từng thành viên trong nhóm. Khi cả nhóm hoạt động hiệu quả nhất
là khi các cá nhân cùng đồng lịng phối hợp ăn ý hướng về một mục đích.
Vì vậy, làm việc nhóm khơng hẳn chỉ là làm việc với nhiều người, làm việc nhóm khác với
làm việc đơng người. Chúng ta so sánh sự khác biệt đó sau đây:
NHĨM

ĐÁM ĐƠNG

1. Các thành viên làm việc tương tác 1. Các thành viên làm việc độc lập và
lẫn nhau. Họ hiểu rõ mục tiêu của thường khơng có mục tiêu chung theo
nhóm chỉ đạt kết quả tốt nhất bằng kiểu “mạnh ai nấy làm”.
cách hỗ trợ cho nhau.
2. Các thành viên cam kết chịu trách 2. Các thành viên chỉ tập trung vào
nhiệm phần việc của mình trong cơng việc của bản thân, họ khơng liên
nhóm.

quan đến mục tiêu của đám đơng đó.

3. Họ đóng góp kinh nghiệm tài năng 3. Họ chỉ hồn thành nhiệm vụ của
của mình vào sự thành cơng của cả mình, khơng biết hoặc khơng để ý
nhóm.


đến người khác.

4. Các thành viên trung thực, mạnh 4. Các thành viên không tin tưởng
dạn bộc lộ ý kiến, tơn trọng lắng nhau. Nếu có ý tưởng, họ thường giữ


nghe người khác, đặt câu hỏi và sẵn riêng cho mình, khơng chia sẻ, khơng
sàng thay đổi quan điểm.

đón nhận sự gợi ý của người khác.

5. Các thành viên bình đẳng trong 5. Họ cảm thấy phiền lòng khi bất
việc bàn bạc đưa ra cách giải quyết đồng quan điểm, họ không tham gia
vấn đề. Mọi thành viên đều mong vào việc giải quyết vấn đề và không
muốn cùng nhau giải quyết vấn đề hề có sự ủng hộ nào để giúp họ giải
đó.

quyết vấn đề.

“Làm việc nhóm khơng phải là sự cộng lại hay sự kết hợp một cách đơn giản bằng số
đơng, bằng sức mạnh trong q trình làm việc. Làm việc nhóm địi hỏi có sự đầu tư, phải có sự
phối hợp một cách rất ăn ý hoặc phải có sự tương tác đúng nghĩa dựa trên phương diện tâm lý
giữa các cá nhân với nhau để thực hiện một mục tiêu chung” [37, tr.57].
1.2.2.3 Hoạt động nhóm
Theo Từ điển Tâm lý học của Vũ Dũng, hoạt động của một nhóm người có những đặc
điểm sau [11, tr. 320]
- Cùng tham gia về phương diện không gian và thời gian của các thành viên tạo ra khả
năng tiếp xúc cá nhân trực tiếp giữa họ với nhau, trong đó có sự trao đổi hành động, thơng tin,
cũng như khả năng nhận thức lẫn nhau.
- Có mục tiêu chung, trong đó kết quả hoạt động được dự đốn trước phù hợp với lợi ích

chung, góp phần thoả mãn những nhu cầu của mỗi thành viên.
Như vậy, chúng tôi quan niệm rằng hoạt động nhóm là hoạt động ở đó có sự tương tác
qua lại giữa các thành viên. Qua đó, các thành viên có cơ hội hợp tác, chia sẻ và hỗ trợ nhau
nhằm đạt được mục tiêu chung của nhóm.
Nhóm chỉ hoạt động hữu hiệu khi:
- Mục tiêu rõ ràng đối với mọi người và được mọi người chấp nhận.
- Truyền thông hai chiều, ý tưởng cũng như cảm xúc được bộc lộ.
- Tiến trình lãnh đạo được chia sẻ, phân phối cho nhiều người, từ đó có sự tham gia cao.
- Thủ tục lấy quyết định phù hợp với tình huống.
- Trọng tâm đặt ở con người và các mối quan hệ đoàn kết giữa họ, sự đồn kết có được nhờ
sự chấp nhận.
- Khả năng giải quyết vấn đề cao.


- Hiệu quả được cả nhóm đánh giá.
- Có sự tương tác giữa các thành viên [30, tr 114].
1.2.3 Hoạt động học tập theo nhóm
Khi nghiên cứu về hoạt động học tập theo nhóm, có các định nghĩa sau:
- A.T. Francisco (1993): hoạt động học tập nhóm là một phương pháp học tập mà theo
phương pháp đó học viên trong nhóm trao đổi, giúp đỡ và hợp tác với nhau trong học tập.
Người học trao đổi ý tưởng và kiến thức với các thành viên khác của nhóm…các thành viên
tham gia tích cực và hợp tác với nhau để lĩnh hội kiến thức và kỹ năng mới [23]
- Theo Slavin “nhóm học tập là một nhóm nhỏ bao gồm năm bảy học sinh…Sau khi GV
hướng dẫn, nêu ra mục đích của đề tài và phân phát các tài liệu…sau khi đọc tài liệu và thay
nhau đặt câu hỏi để bạn trả lời, cả nhóm đưa ra ý kiến và nhận định về nội dung và mục đích
của đề tài” [32, tr.384].
- Hoạt động học tập theo nhóm là hình thức người học cùng nhau hợp tác trong nhóm để
hồn thành cơng việc chung. Học tập theo nhóm khơng đơn thuần là chia người học thành từng
nhóm để cùng giải quyết một câu hỏi khó mà một học sinh bình thường không thể giải quyết
được, mà người học phải cùng nhau hợp tác trong học tập để hồn thành cơng việc chung [50].

Như vậy, qua quan điểm của các tác giả về hoạt động học tập theo nhóm, có thể thấy “hoạt
động học tập theo nhóm cũng là hình thức học hợp tác”. Học hợp tác (Cooperative Learning) là
một quan điểm học tập rất phổ biến và đem lại hiệu quả giáo dục cao. Quan điểm học tập này
yêu cầu sự tham gia, đóng góp trực tiếp của người học vào quá trình học tập, đồng thời yêu cầu
họ phải làm việc cùng nhau để đạt được kết quả học tập chung.
Học hợp tác theo David Johnson và Roger Johnson (1999) phải hội đủ các yếu tố sau [47,
tr.115]
a. Sự phụ thuộc lẫn nhau một cách tích cực: các thành viên trong nhóm phải cùng nhau làm
việc để hồn thành mục tiêu chung. Yếu tố này giúp các thành viên hiểu rằng đóng góp của mỗi
cá nhân là một trong những yếu tố góp phần làm nên thành cơng của nhóm. Mỗi người phải có
trách nhiệm hồn thành nhiệm vụ được giao để cả nhóm hồn thành nhiệm vụ chung. Kết quả
học tập của cả nhóm là cơng sức đóng góp của mỗi thành viên. Mỗi thành viên khơng chỉ hồn
thành nhiệm vụ của mình mà cịn phải tham gia giúp đỡ các thành viên khác để cùng nhau hoàn
thành nhiệm vụ chung của nhóm. “Sự phụ thuộc lẫn nhau” tồn tại khi các thành viên trong
nhóm gắn kết với nhau theo kiểu một cá nhân không thể thành công khi các thành viên khác
thất bại. Trong thực tế, khi yếu tố này khơng tồn tại, các thành viên trong nhóm khơng có cảm


giác rằng họ đang làm việc chung, nên dễ dẫn đến cạnh tranh hay làm việc riêng lẻ. Ngoài ra,
“sự phụ thuộc” này còn giúp các thành viên biết quan tâm đến ý kiến của nhau nhiều hơn và
giao tiếp hiệu quả hơn. Nếu một người trong nhóm khơng hồn thành trách nhiệm của mình, cả
nhóm phải cùng chịu trách nhiệm.
b. Sự tiếp xúc trực tiếp thúc đẩy sự hợp tác: giúp đỡ nhau học tập, ủng hộ những thành
công và cố gắng của nhau. Các thành viên trong nhóm phải gặp nhau thường xuyên để thảo
luận nhiệm vụ chung của nhóm. Trong các buổi thảo luận này, mọi người khuyến khích, động
viên nhau cùng tham gia, cùng chia sẻ, giúp nhau cải thiện kết quả học tập hoặc tìm ra các
nguồn tài liệu cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ chung. Đây là cơ hội để các thành viên tiếp xúc
với nhau nhiều hơn, lắng nghe người khác và đóng góp ý kiến của mình.
c. Trách nhiệm với tư cách “tôi” và tư cách “chúng ta”: mỗi thành viên phấn đấu cho mình
và nhóm. Mỗi cá nhân phải hiểu họ được tính điểm dựa trên đóng góp của mình cho nhóm, điều

này giúp các thành viên chia đều trách nhiệm cùng nhau mà không đùn đẩy trách nhiệm cho
nhau. Khi các thành viên có trách nhiệm với nhau, họ sẽ cùng nhau tạo nên động lực khuyến
khích nhau học tốt hơn. Mỗi thành viên trong nhóm chỉ được cơng nhận khi có đóng góp cho
nhóm. Khi thành tích cá nhân được nhóm cơng nhận, họ sẽ nỗ lực hơn và phấn đấu nhiều hơn
cho thành cơng chung của nhóm.
d. Các KN trong nhóm nhỏ: bao gồm KN giao tiếp và KN học nhóm như cách trình bày
một quan điểm, biết chia sẻ nguồn thông tin, tài liệu hay thuyết phục người khác hòa giải các ý
kiến bất đồng, cùng nhau đưa ra quyết định và giải quyết vấn đề chung của nhóm. Để đạt được
lợi ích khi học nhóm, người học buộc phải có những KN này. Nhiều nghiên cứu cho thấy khi
người học có đủ các KN trên, họ ln có tinh thần hợp tác và sẵn sàng giúp đỡ người khác.
Ngược lại, khi khơng có KN giao tiếp thích hợp, họ thường gặp khó khăn trong q trình làm
việc chung, thiếu tự tin và ln tạo ra những bất đồng. Một trong những lý do khiến cá nhân bị
đẩy ra khỏi nhóm là do họ thiếu KN giao tiếp [50].
Những KN giúp cá nhân giao tiếp và làm việc hiệu quả trong nhóm:
* KN cá nhân
- Nghe chủ động (nghe và góp ý kiến).
- Nhận xét cơng bằng.
- Có trách nhiệm với hành vi của mình.
- Biết phê bình, giải quyết bất đồng trên tinh thần xây dựng.
* KN nhóm nhỏ


- Biết thay phiên nhau khi thảo luận.
- Biết chia sẻ công việc.
- Biết tham gia các quyết định dân chủ.
- Biết hiểu quan điểm của người khác.
- Biết phân biệt ý kiến đóng góp khác nhau của các thành viên [50].
Đây là những KN không thể thiếu được và giúp người học thành cơng khi làm việc nhóm,
nếu khơng sẽ dễ xảy ra tình trạng người học chỉ đơn giản là ngồi cạnh nhau, làm việc cá nhân
chứ không cùng nhau học và làm việc hợp tác.

Ngoài ra, khi hợp tác để hoàn thành mục tiêu chung mọi thành viên của nhóm cần phải:
- Tìm hiểu và tin tưởng nhau.
- Trao đổi thơng tin chính xác.
- Cho và nhận sự giúp đỡ của nhau.
- Giải quyết bất đồng trên tinh thần xây dựng.
SV chỉ thật sự hợp tác cùng nhau trong học tập và thành công khi họ được dạy, trải qua
q trình luyện tập và được khuyến khích áp dụng những KN này trong học nhóm.
e. Đánh giá q trình làm việc nhóm: đây là yếu tố quan trọng trong q trình làm việc
nhóm vì dựa vào đó nhóm biết được họ đang làm việc như thế nào và làm sao để duy trì cách
làm việc hiệu quả. Khi các thành viên tham gia đánh giá đóng góp của cá nhân cho hoạt động
chung của nhóm, nó sẽ thúc đẩy các thành viên phát huy năng lực cao hơn; khi các thành viên
được đánh giá thường xuyên họ sẽ phải chú ý để giao tiếp hiệu quả hơn. Ngồi ra, q trình
đánh giá nhóm cịn giúp các thành viên duy trì các quan hệ làm việc hiệu quả và phát triển các
KN học nhóm.
Như vậy, học theo nhóm chỉ mang tính hợp tác khi người học tham gia vào các hoạt động
chung của nhóm. Việc học tập của nhóm mang tính hợp tác hơn là tranh đua. Mục đích học tập
là lý do chính cho sự tồn tại của nhóm. Cơng việc của nhóm sẽ khơng hồn thành nếu khơng có
sự đóng góp tích cực của từng cá nhân. Thành viên trong nhóm phải nhận thức rằng nổ lực của
mỗi cá nhân là điều kiện thiết yếu cho sự thành cơng của nhóm và của chính họ. Vì thế họ phải
dựa vào nhau, hỗ trợ nhau, cùng nhau bàn bạc trao đổi thông tin cũng như quan điểm riêng của
mình và biết vận dụng các KN phân tích, tổng hợp, đánh giá để giải quyết vấn đề, hoàn thành
công việc được giao.
Trong học tập hợp tác, mục tiêu hoạt động là chung của tồn nhóm nhưng mỗi cá nhân
được phân công một nhiệm vụ cụ thể, mỗi người đều có trách nhiệm riêng của mình. HĐN phải


được tổ chức sao cho mỗi người đều đóng góp tích cực vào hoạt động chung của nhóm. Phân
cơng nhiệm vụ phù hợp với khả năng của từng thành viên sẽ tạo điều kiện tối đa cho họ phát
huy khả năng của mình, sự hồn thiện của mỗi cá nhân sẽ đóng góp cho thành cơng của nhóm.
Người học chỉ học tốt hơn và đạt thành tích cao hơn khi làm việc trong nhóm được tổ chức với

đầy đủ các yếu tố trên.
Trên cơ sở lý luận đã phân tích về nhóm, hoạt động nhóm và hình thức học tập theo nhóm,
chúng tơi xác định:
Hoạt động nhóm trong học tập chính là hình thức học tập theo nhóm mà ở đó các thành
viên trong nhóm phải hợp tác cùng nhau để hoàn thành nhiệm vụ học tập.
HĐN trong học tập chỉ đạt hiệu quả khi các thành viên trong nhóm biết:
- Xác định mục tiêu chung của nhóm.
- Lắng nghe và chấp nhận người khác.
- Trình bày quan điểm của mình.
- Thảo luận và giải quyết vấn đề chung của nhóm.
- Hợp tác và chia sẻ.
1.2.4 Kỹ năng
1.2.4.1 Định nghĩa kỹ năng
Trong lịch sử nghiên cứu các vấn đề về KN, có nhiều tác giả trong và ngồi nước đã đưa ra
những quan niệm khác nhau về KN. Có hai khuynh hướng cơ bản sau:
- Khuynh hướng thứ nhất: xem xét KN nghiêng về mặt kỹ thuật của thao tác, của hành
động hay hoạt động. Có các tác giả như: V.A.Kruchetxki, A.V.Petrovxki, V.S.Cudin,
A.G.Covaliop, Trần Trọng Thuỷ…
V.A.Kruchetxki cho rằng “KN là phương thức thực hiện hành động đã được con người
nắm vững từ trước” [20, tr.78]. Theo ơng, KN được hình thành bằng con đường luyện tập, KN
tạo khả năng cho con người thực hiện hành động không chỉ trong điều kiện quen thuộc mà
trong cả những điều kiện đã thay đổi.
V.S.Cudin và A.G.Covaliop cho rằng “KN là phương thức thực hiện hành động thích hợp
với mục đích và điều kiện hành động [22, tr.13]. Theo các tác giả, kết quả của hành động phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quan trọng hơn cả là năng lực của con người chứ không đơn
giản là cứ nắm vững cách thức hành động thì đem lại kết quả tương ứng.
Khi bàn về KN, tác giả Trần Trọng Thuỷ cũng cho rằng “KN là mặt kỹ thuật của hành
động, con người nắm được các hành động tức là có kỹ thuật hành động, có KN” [39].



- Khuynh hướng thứ hai: xem xét KN nghiêng về mặt năng lực hành động của của con
người. Theo quan niệm này, KN vừa có tính ổn định, vừa có tính mềm dẻo, tính linh hoạt, sáng
tạo và có mục đích. Đại diện cho khuynh hướng này có các tác giả như N.D. Levitov, X.I.
Kixegov, K.K. Platanov, G.G. Golubev, Nguyễn Quang Uẩn, Trần Quốc Thành…
N.D.Levitov quan niệm “KN là sự thực hiện có kết quả một động tác nào đó hay một hành
động phức tạp bằng cách lựa chọn và áp dụng những cách thức đúng đắn, có tính đến những
điều kiện nhất định” [15, tr.29]. Theo ơng, người có KN hành động là người phải nắm được và
vận dụng đúng đắn các cách thức hành động nhằm thực hiện hành động có kết quả. Levitov cho
rằng, để hình thành KN, con người không chỉ nắm lý thuyết về hành động mà phải biết vận
dụng vào thực tiễn.
Các tác giả K.K.Platanov và G.G.Golubev quan niệm “KN là năng lực của người thực hiện
cơng việc có kết quả với một chất lượng cần thiết trong những điều kiện mới và trong những
khoảng thời gian tương ứng” [9, tr.41]. Theo các tác giả, KN không mâu thuẫn với vốn tri thức
mà KN được hình thành trên cơ sở của chúng.
Tương tự X.I.Kixegov cho rằng “KN là khả năng thực hiện có hiệu quả hệ thống hành
động phù hợp với mục đích và điều kiện thực hiện hệ thống này” [15, tr.30]. Theo ông, các KN
bao giờ cũng diễn ra dưới sự kiểm tra của ý thức nhiều hay ít. KN địi hỏi việc sử dụng những
kinh nghiệm đã thu được trước đây và những tri thức nhất định nào đó trong các hành động, mà
thiếu những điều này khơng thể có KN.
- Từ điển tiếng Việt (1992) định nghĩa “KN là khả năng vận dụng những kiến thức thu
nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế” [33, tr.157].
- Theo từ điển Giáo dục học “KN là khả năng thực hiện đúng hành động, hoạt động phù
hợp với những mục tiêu và điều kiện cụ thể tiến hành hành động ấy cho dù đó là hành động cụ
thể hay hành động trí tuệ” [17, tr.220].
- Tác giả Huỳnh Văn Sơn cho rằng “KN là khả năng thực hiện có kết quả một hành động
nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã có để hành động phù hợp với
những điều kiện cho phép” [37, tr.6].
Như vậy, người có KN phải nắm tri thức về hành động và có các kinh nghiệm cần thiết.
Song bản thân tri thức kinh nghiệm khơng phải là KN, muốn có KN con người phải vận dụng
vốn tri thức và kinh nghiệm đó vào hành động và đạt kết quả.

Khi xem xét KN cần lưu ý những điểm sau:



×