TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
---------------------------
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
“GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA
NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM TRONG
HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN”
SINH VI£N: NGUYỄN THỊ HOA
LỚP: A2-CN9
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: LÊ THỊ THANH
HÀ NỘI – 2003
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................................
CHƯƠNG I - KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG
VÀ DÀI HẠN..............................................................................................................................
I. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.........................................
3.2.1. Cho vay kinh doanh kỳ hạn.............................................................................................
II. KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN..................................................
CHƯƠNG 2 - ............................................................................................................................
I. GIỚI THIỆU VỀ NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG............................................................
III. KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI
THƯƠNG TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI
HẠN...........................................................................................................................................
IV. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG CẠNH
TRANH CỦA VIETCOMBANK TRONG HOẠT ĐÔNG TÍN DỤNG
TRUNG VÀ DÀI HẠN..............................................................................................................
CHƯƠNG 3................................................................................................................................
I – NHỮNG THUẬN LỢI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÂN
HÀNG NGOẠI THƯƠNG........................................................................................................
II - KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG
CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG NGỌẠI THƯƠNG TRONG
HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG-DÀI HẠN.......................................................................
KẾT LUẬN................................................................................................................................
LỜI MỞ ĐẦU
Một trong những yếu kém của nền kinh tế Việt nam hiện nay là
khả năng cạnh tranh. Điều này đã được Tổng Bí thư ĐCS Việt nam
Nông Đức Mạnh đề cập tại Hội nghị lần thứ 7 khoá XI Ban Chấp hành
Trung ương: “…cần đối chiếu với Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của
Đảng , kết luận của Hội nghị TW 4 (Khoá IX) thẳng thắn, nghiêm khắc
chỉ ra những mặt yếu kém, hạn chế, đặc biệt là mối quan hệ giữa tốc độ
tăng trưởng với chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh
tế…”
1
.
Một trong những tiêu chí xác định khả năng cạnh tranh của một
quốc gia là hệ thống tài chính tiền tệ của quốc gia đó lành mạnh và ổn
định. Như vậy, năng lực cạnh tranh mạnh của một ngân hàng là một
yếu tố hết sức quan trọng để củng cố, ổn định và phát triển nền kinh tế
Việt nam trong điều kiện hội nhập.
Khái quát về hệ thống ngân hàng VN
Đến nay, Việt nam đã có các tổ chức tín dụng và các tổ chức
khác có hoạt động ngân hàng đã được thành lập và hoạt động, bao
gồm: Ngân hàng thương mại Nhà nước có 5 đơn vị với 116 chi nhánh ở
các tỉnh, thành phố trong cả nước, chưa kể đến các chi nhánh cấp
huyện, thị trấn, các chi nhánh cấp 2 và phòng giao dịch. Ngân hàng
thương mại cổ phần đô thị gồm 23 ngân hàng với 105 chi nhánh cấp 1,
chưa kể đến các chi nhánh cấp 2 và các phòng giao dịch; 14 ngân hàng
thương mại cổ phần nông thôn với 27 chi nhánh, chưa kể các phòng
giao dịch; 3 ngân hàng liên doanh có 7 chi nhánh; 28 chi nhánh ngân
hàng nước ngoài. Ngoài ra, có 7 công ty tài chính được thành lập và
tham gia vào thị trường tiền tệ và hệ thống tiết kiệm bưu điện trải rộng
khắp nơi.
1
Tạp chí Ngân hàng, số Xuân Quý Mùi, 1+2/2003, trang 50.
Nhìn tổng thể, ở Việt nam có một hệ thống ngân hàng đầy đủ các
thành phần kinh tế với mạng lưới rộng lớn, phân bổ ở các tỉnh và thành
phố, đủ năng lực để đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
Tuy nhiên, so với các nước trên thế giới và thậm chí trong khu vực thì
các ngân hàng thương mại của Việt nam chưa thể là các ngân hàng
mạnh. Khả năng cạnh tranh còn yếu với số vốn điều lệ rất thấp. Trong
khi đó tại các nước khu vực, các ngân hàng trung bình có số vốn điều
lệ lớn gấp nhiều lần các ngân hàng Việt nam cộng lại. Việc bố trí mạng
lưới chi nhánh của các ngân hàng Việt nam còn chưa hợp lý, nhất là ở
các địa phương có nhu cầu dịch vụ ngân hàng thấp dẫn đến việc cạnh
tranh không lành mạnh. Đối với lĩnh vực cho vay, nhất là cho vay trung
và dài hạn là mục tiêu của hầu như tất cả các ngân hàng thương mại, thì
cuộc cạnh tranh này càng khốc liệt hơn.
Từ thực tiễn đó, tôi đã lựa chọn đề tài “Giải pháp nâng cao khả
năng cạnh tranh của Ngân hàng Ngoại thương trong hoạt động tín dụng
trung dài hạn”, với mục tiêu chính là nghiên cứu khả năng cạnh tranh
trong hoạt động tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng Ngoại thương
Việt nam và đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao khả năng
cạnh tranh của Ngân hàng trong hoạt động này. Với những vấn đề
được nghiên cứu, tôi hy vọng rằng các ngân hàng thương mại nói
chung và Ngân hàng Ngoại thương Việt nam nói riêng sẽ nâng cao
được khả năng cạnh tranh của mình trong hoạt động tín dụng trung và
dài hạn, một phần rất quan trọng trong hoạt động ngân hàng góp phần
vào sự phát triển của Ngân hàng, cũng như sự phát triển bền vững của
nền kinh tế. Mặc dù đã cố gắng tối đa khi nghiên cứu nhưng do sự hạn
chế về năng lực và kiến thức nên trong khoá luận này tôi không tránh
khỏi những sai sót và hạn chế. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng
góp từ phía các Thầy Cô giáo và bạn đọc.
Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn đối với Cô Trần Thị
Thanh, người hướng dẫn tôi viết và hoàn thiện khoá luận này, cũng
như toàn thể các giảng viên trường Đại học Ngoại thương đã truyền đạt
cho tôi kiến thức và phương pháp học tập và nghiên cứu.
CHƯƠNG I - KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG HOẠT
ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN
I. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm
Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức tài chính quan
trọng nhất của hệ thống tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung của
một quốc gia. Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng được ví
như thần kinh của cả nền kinh tế. Trong cuốn “Quản trị Ngân hàng
Thương mại” của Peter Rose, “ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính
cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín
dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài
chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Theo Luật các Tổ chức Tín dụng Việt nam (12/1997), “Ngân hàng là loại
hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các
hoạt động kinh doanh khác có liên quan”
Rõ ràng, tín dụng là một nghiệp vụ đặc biệt quan trọng. Các hoạt
động liên quan đến tín dụng đóng vai trò chủ chốt trong hầu hết các ngân
hàng trên thế giới. Thông qua các khoản mục tín dụng của mình, ngân
hàng tài trợ hay cung cấp tín dụng cho hầu hết các hoạt động sản xuất của
các hãng kinh doanh thuộc các lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế, là
nguồn vốn vay của các tổ chức tài chính khác, trợ giúp cho các hộ gia
đình và cá nhân bằng các khoản vay tiêu dùng…. Hoạt động cho vay của
ngân hàng không chỉ là việc chuyển một tài sản của ngân hàng cho một
người/tổ chức nào đó mà chính là việc tạo ra tiền mới. Hoạt động tín dụng
không hiệu quả do chất lượng tín dụng không tốt và quản lý tín dụng
không tốt là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những thất bại của các
ngân hàng và khủng hoảng ngân hàng trên thế giới. Tuy hiện nay tiêu chí
mới của các tổ chức tài chính thế giới không lấy một ngân hàng chỉ “đi
vay để cho vay” làm một ngân hàng điển hình mà khuyến khích phát triển
mô hình ngân hàng đa năng, nhưng tín dụng vẫn là một nghiệp vụ vô
cùng quan trọng không thể thiếu để phân biệt ngân hàng với các tổ chức
tài chính khác.
Hiện nay, cùng với sự phát triển của ngành ngân hàng, các sản
phẩm dịch vụ ngày càng được đa dạng nhằm đáp ứng đầy đủ được các
nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng. Cùng với sự thay đổi không
ngừng của ngành tài chính, các loại hình cho vay cũng được mở rộng và
đổi mới. Có rất nhiều tiêu thức để phân loại các loại hình tín dụng nhưng
không có loại nào là đặc biệt thoả đáng và chính xác. Dưới đây là một số
loại hình tín dụng được phân biệt dựa trên những tiêu thức khác nhau
nhằm làm rõ sự đa dạng của hoạt động này.
2. Phân loại tín dụng
2.1. Căn cứ vào thời hạn của hợp đồng tín dụng
2.1.1. Tín dụng ngắn hạn
Là loại tín dụng có thời hạn không quá 1 năm. Loại tín dụng này
được dùng cho các kế hoạch có tính thời điểm và thường xuyên. Tại Việt
nam hiện nay hoạt động tín dụng ngắn hạn phát triển rất mạnh. Các ngân
hàng cấp tín dụng cho các công ty xuất nhập khẩu bán/mua hàng hoá. Tín
dụng có thể được cấp dựa trên tài khoản công ty mở tại ngân hàng. Tuỳ
thuộc chất lượng khách hàng mà tín dụng này sẽ được cấp nhiều hay ít, và
tỉ lệ ký qũy cao hay thấp, hoặc miễn ký quỹ.
2.1.2. Tín dụng trung và dài hạn
Là loại tín dụng có thời hạn trên 1 năm, thường không quá 25 năm.
Để có được sự chấp nhận của ngân hàng cho khoản vay này, khách hàng
phải thoả mãn những điều kiện ngặt nghèo về năng lực sản xuất, tình hình
tài chính và tính khả thi của dự án.
2.2. Căn cứ đặc điểm của sản phẩm cung ứng:
2.2.1. Tín dụng vãng lai
Đây là loại tín dụng lâu đời nhất nhưng vẫn góp một phần quan
trọng trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Ngân hàng cung cấp cho
khách hàng một tài khoản để khách hàng có thể sử dụng theo nhu cầu
nhưng không vượt quá hạn mức trong hợp đồng. Số lượng sử dụng phụ
thuộc hoàn toàn vào khả năng tài chính của khách hàng. Ngân hàng thực
hiện chức năng thanh toán trung gian cho khách hàng trên tài khoản. Do
các điều kiện tín dụng, tín dụng vãng lai không được cấp cho đầu tư dài
hạn, vì vậy thực chất ngân hàng cấp tín dụng vãng lai cho khách hàng
nhằm bổ sung vốn cho sản xuất lưu thông thường xuyên. Việc cấp tín
dụng vãng lai đòi hỏi phải có tài sản bảo đảm. Khách hàng phải trả lãi
suất cho vay và hoa hồng của nghiệp vụ thanh toán trung gian. Hiện nay
loại hình tín dụng vãng lai là phổ biến nhất tại Việt nam.
2.2.2. Tín dụng thế chấp
Khách hàng sử dụng tín dụng thế chấp khi muốn vay một khoản nợ
ngắn hạn và thế chấp bằng động sản hay trái quyền. Giá trị vật thế chấp
được chiết khấu theo loại động sản và tính thanh khoản của động sản đó.
Vật thế chấp có thể bao gồm: các giấy tờ có giá (dài hạn hay ngắn hạn, cổ
phiếu vô danh); hàng hoá; kim loại quý; các trái quyền (yêu cầu chi trả).
Khách hàng phải trả lãi suất và hoa hồng. Hoa hồng được tính chủ yếu
trên chi phí bảo quản vật thế chấp.
2.2.3.
Tín dụng bảo lãnh
Về thực chất, bảo lãnh không phải là tín dụng thuần tuý. Ngân
hàng đứng ra bảo lãnh cho khách hàng trong giao dịch mua chịu với công
ty nước ngoài hay vay của ngân hàng nước ngoài, đóng thuế cho nhà
nước hay trong các hợp đồng đấu thầu. Việc này đồng nghĩa với việc
ngân hàng cấp cho khách hàng một khoản tín dụng, khi đến thời hạn
thanh toán, nếu khách hàng chưa hoặc không có khả năng chi trả thì ngân
hàng là người đứng ra trả hộ. Với dịch vụ này, ngân hàng thu của khách
hàng phải trả khoản phí bảo lãnh tính trên phần trăm của số tiền được bảo
lãnh. Do tính rủi ro cao nên các ngân hàng thường phải dựa vào uy tín của
khách hàng cũng như việc kiểm tra chặt chẽ tình hình tài chính của khách
hàng để quyết định có cấp tín dụng bảo lãnh hay không. Loại hình này
cũng áp dụng rất rộng rãi tại các ngân hàng Việt nam.
2.2.4. Đồng tài trợ
Với những hợp đồng tín dụng có giá trị lớn (của những dự án
lớn của quốc gia/công ty) mà một ngân hàng không thể đảm nhận,
phương thức đồng tài trợ (hay liên kết tín dụng) thường được áp dụng.
Theo phương thức này, một số ngân hàng cùng tham gia cho vay với một
ngân hàng đứng ra làm ngân hàng đầu mối giao dịch với khách hàng bằng
các điều khoản đã được thoả thuận giữa các ngân hàng với nhau. Tại Việt
nam, các dự án mang tầm cỡ quốc gia như Dự án Khí điện đạm Cà Mau,
Đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn…. đều được các ngân hàng thương
mại lớn cùng ký kết hợp đồng đồng tài trợ. Có những hợp đồng có cả các
ngân hàng lớn của nước ngoài tham gia. Ngân hàng đứng ra làm đầu mối
thường là Ngân hàng Ngoại thương Việt nam và Ngân hàng Công thương
Việt nam.
2.2.5. Leasing
Leasing (thuê mua) là phương thức mà nhờ đó một doanh nghiệp
có thể có được tài sản có giá trị lớn như các cấu kiện nhà máy, thiết bị và
xe cộ… mà không cần phải xuất vốn. Thay vì mua đứt các tài sản đó,
doanh nghiệp thuê chúng từ công ty thuê mua tài chính của ngân hàng
(công ty này thường có liên kết với các công ty tài chính khác). Cách thức
thuê mua là doanh nghiệp lựa chọn loại hàng hoá/thiết bị họ cần và công
ty thuê mua sẽ mua thiết bị. Đến cuối thời hạn thuê, người thuê thường có
quyền chọn lựa gia hạn thời gian thuê với mức thuê thấp hơn nhiều hay
mua luôn thiết bị đó. Thời hạn cố định đầu tiên thường là 3-5 năm.
Hình thức tín dụng thuê mua mới phát triển tại Việt nam trong mấy năm
gần đây. Khách hàng của các công ty cho thuê tài chính của các ngân
hàng chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
2.2.6. Factoring (mua nợ): Các công ty có nghiệp vụ mua nợ cung cấp
cho các khách hàng của họ dịch vụ hạch toán sổ sách khách hàng, dịch vụ
bảo toàn các khoản nợ khó đòi. Các khoản nợ được mua chủ yếu là các
khoản tiền nợ hàng, công ty thanh toán ngay cho các doanh nghiệp bán
chịu; cung cấp dịch vụ hạch toán sổ sách khách hàng; đảm bảo thanh toán
đầy đủ cho các khoản đã chấp thuận. Ngoài ra, công ty còn thực hiện
chiết khấu hoá đơn. Các ngân hàng lớn cung cấp dịch vụ này thông qua
các công ty con.
Hình thức này tại Việt nam chưa được áp dụng. Tại các nước phát triển,
kể cả các nước Châu á như Trung quốc (và Hồng Kông), Đài loan, Hàn
quốc … hình thức này rất phổ biến.
2.3. Căn cứ đặc điểm khách hàng:
2.3.1. Cho vay kinh doanh
Đây là khoản mục quan trọng nhất, chiếm tỉ trọng lớn trong tổng
tài sản trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Các khoản mục cho vay
kinh doanh ngắn hạn bao gồm: cho vay mua hàng dự trữ, cho vay vốn lưu
động, cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng, cho vay kinh doanh
chứng khoán, cho vay kinh doanh bán lẻ, cho vay trên tài sản. Các khoản
mục này phục vụ cho nhu cầu kinh doanh đột xuất hay tạm thời của
doanh nghiệp. Các khoản cho vay dài hạn như cho vay kinh doanh kỳ
hạn, cho vay luân chuyển, cho vay theo dự án, cho vay hỗ trợ mua lại
công ty giúp cho các hãng kinh doanh có một lượng vốn lớn hơn rất nhiều
và ổn định, tạo điều kiện phát triển cho các hãng. Đây là nghiệp vụ có tỉ
trọng lớn nhất trong hoạt động cho vay của các ngân hàng Việt nam.
2.3.2. Cho vay tiêu dùng và cho vay bất động sản
Lý do tồn tại mạnh mẽ của loại hình tín dụng này là tâm lý gửi tiền
của dân chúng: người ta hy vọng khi gửi tiền vào một ngân hàng thì sẽ có
khả năng vay lại tiền từ chính ngân hàng đó lúc cần. Tiền huy động từ tiết
kiệm trong dân cư hiện nay là nguồn vốn quan trọng và sinh lợi cao cho
ngân hàng, vì vậy các ngân hàng không nề hà cho vay khoản mục này.
Tuy nhiên, tình hình tài chính của các cá nhân và hộ gia đình không ổn
định chắc chắn, khiến cho chi phí và rủi ro đối với ngân hàng cũng rất
cao. Ngoài ra, cho vay tiêu dùng chịu tác động của chu kỳ kinh doanh nên
một đặc điểm quan trọng của tín dụng tiêu dùng là lãi suất áp dụng rất
cao. Cho vay mua nhà thế chấp hay cho vay tín chấp, cho vay theo thẻ tín
dụng là những hình thức phổ biến của loại tín dụng này.
Tuy nhiên, tại Việt nam hiện nay các ngân hàng chưa phát triển
loại hình cho vay này, nhất là tại các ngân hàng thương mại nhà nước.
Hiện nay tại Vietcombank đã có phòng Cho vay Ngắn hạn (cho vay tiêu
dùng), khách hàng chủ yếu là cán bộ công nhân viên của Ngân hàng, các
hộ kinh doanh và các hộ gia đình, cá nhân. Việc cho vay đòi hỏi phải có
tài sản thế chấp và chỉ được vay theo một tỉ lệ thấp hơn giá trị thực của tài
sản thế chấp (thường bằng 80%). Tuy nhiên, điều kiện về tài sản thế chấp
rõ ràng là gây khó khăn, bởi các thủ tục liên quan đến quyền sở hữu đất
đai, công ty…. Do vậy loại hình cho vay này chưa được các ngân hàng
Việt nam phát huy hết tác dụng của nó.
3. Các loại hình cho vay trung và dài hạn của các Ngân hàng
Thương mại
Theo cách phân chia một cách khoa học về phương thức cho vay
của ngân hàng, các khoản vay được chia làm 2 loại: cho vay luân chuyển
và cho vay theo số dư.
3.1. Cho vay luân chuyển
Đây là loại hình cho vay mang lại nhiều ích lợi nhất cho khách
hàng. Do tính linh hoạt của khoản vay này mà ngân hàng không đòi
hỏi phải có bảo đảm. Đây là loại hình tín dụng đáp ứng rất kịp thời
và nhanh chóng nhu cầu của khách hàng. Khách hàng sử dụng khi
không chắc chắn về thời gian của các luồng tiền mặt hoặc quy mô
chính xác của nhu cầu vay trong tương lai. Tín dụng luân chuyển cho
phép khách hàng có thể giảm bớt ảnh hưởng của những biến động
của chu kỳ kinh doanh, tạo điều kiện vay thêm trong thời kỳ khó
khăn hay sẵn sàng hoàn trả khi tình hình tài chính được cải thiện.
Như vậy, vốn vay của ngân hàng luôn tiếp cận kịp thời những biến
động tài chính của khách hàng, vận hành song song xuyên suốt với
chu kỳ kinh doanh của khách hàng. Khách hàng được đánh giá tín
nhiệm tín dụng cao thường ít khi sử dụng loại tín dụng này mà chỉ
ký kết hợp đồng làm bảo đảm để có thể nhanh chóng vay vốn từ
những tổ chức tín dụng khác. Ngoài ra hiện nay một loại hình mới
cũng đang được sử dụng ngày càng rộng rãi là thẻ tín dụng. Các
doanh nghiệp ưa thích loại hình này do tính hiệu quả của nó và do
không phải thường xuyên làm đơn xin vay ngân hàng. Tại Việt nam
hiện nay nghiệp vụ thẻ tín dụng đang phát triển mạnh mẽ và được ưa
chuộng bởi tính tức thời, tiện lợi của nó.
3.2. Cho vay theo số dư
Ngược lại với cho vay luân chuyển, việc cho vay theo số dư được tính
toán dựa trên trị số tín dụng mà tại một thời điểm nhất định khách hàng đi
vay đòi hỏi bổ sung vào tổng giá cả của khách hàng đó. Như vậy, mỗi lần
chấp nhận thực hiện phương thức tín dụng này, ngân hàng sẽ trao cho
khách hàng số vốn mà khách hàng yêu cầu trong một lần. Khách hàng trả
nợ làm nhiều lần trong một thời gian dài nên các ngân hàng thường đòi
hỏi phải có tài sản thế chấp hay điều kiện bảo lãnh ngặt nghèo. Cho vay
theo số dư có thể gồm các hình thức sau:
3.2.1. Cho vay kinh doanh kỳ hạn
Các hãng kinh doanh sử dụng khoản vay này cho các hoạt động
đầu tư trung và dài hạn: mua thiết bị, xây dựng công trình… Khách hàng
xin vay trọn gói dựa trên chi phí dự tính của dự án và sẽ thanh toán khoản
vay làm nhiều lần. Như vậy, dòng thu nhập trong tương lai của dự án là
cơ sở của việc thanh toán khoản vay. Các khoản vay kỳ hạn đòi hỏi phải
có bảo đảm bằng tài sản cố định thuộc sở hữu của người vay. Do mức độ
rủi ro lớn trong suốt quá trình thực hiện dự án mà các cán bộ tín dụng
phải cân nhắn cẩn thận các yếu tố: (1) trình độ quản lý của hãng, (2)chất
lượng hệ thống kế toán và kiểm toán hãng đang sử dụng, (3) tình hình tài
chính của hãng trong qua khứ, (4) cam đoan không thế chấp tài sản cho
các chủ nợ khác, (5) bảo hiểm tài sản của hãng có thoả đáng hay không,
(6) rủi ro công nghệ đối với hãng, (7) độ dài khoảng thời gian trước khi
dự án thu được lợi nhuận, (8) các xu hướng của nhu cầu thị trường và, (9)
trạng thái tài sản ròng của hãng.
3.2.2. Cho vay dự án dài hạn
Cho vay dự án dài hạn là loại hình cho vay kinh doanh có mức độ
rủi ro cao nhất. Khoản tín dụng này được dùng để tài trợ cho việc xây
dựng các tài sản cố định có thể mang lại thu nhập trong tương lai có quy
mô lớn. Các tài sản cố định trên có thể là các công trình mang tính chiến
lược quốc gia. Vì quy mô lớn và tính rủi ro cao của loại hình này mà ngân
hàng thường đòi hỏi phải có bảo lãnh, theo đó ngân hàng có thể thu hồi
khoản vay từ tổ chức bảo lãnh khi khách hàng không có hoặc không đủ
khả năng trả nợ. Đồng thời, việc cho vay đòi hỏi sự tham gia của một số
tổ chức tài chính khác nhằm chia sẻ rủi ro. Cũng có trường hợp các khoản
tín dụng trên có thể được thực hiện không cần có bảo lãnh nhưng mức lãi
suất áp dụng sẽ cao hơn nhiều và đòi hỏi có tài sản thế chấp cho tới khi dự
án kết thúc.
Tại Việt nam…
3.2.3. Cho vay hỗ trợ hoạt động mua lại công ty
Một hình thức tín dụng đang phát triển hiện nay là cho vay hỗ trợ
hoạt động mua lại công ty bằng nợ đòn bẩy. Đây chính là một đặc điểm
nổi bật của nền tài chính thế giới mới. Tuy nhiên loại hình tín dụng này
cũng gặp rất nhiều rủi ro khi các công ty vay nợ quá nhiều không có đủ
khả năng trả nợ khi lãi suất tăng hay nền kinh tế suy thoái. Đây là kết quả
tổng hợp của 3 nhân tố: (1) luồng thu nhập của hãng tương đối thấp so với
giá mua lại nên không đủ bù đắp cho chi phí nợ vay, (2) các ngân hàng và
tổ chức tài chính khác gia tăng sức ép thu nợ, (3) vốn của các nhà quản lý
và cổ đông bị rút quá sớm gây ra thâm hụt nghiêm trọng trong ngân quỹ
của công ty khi mà thu nhập của công ty chưa đủ mạnh để bù đắp các
luồng ra này. Tuy nhiên tại thị trường Việt nam dịch vụ này chưa được áp
dụng.
Trên đây mới chỉ là những loại hình tín dụng được áp dụng khá
phổ biến bởi các ngân hàng thương mại hiện nay. Tuy nhiên, mỗi quốc
gia có nền kinh tế với những nét đặc thù riêng nên không thể hoàn toàn áp
dụng những hình thức trên trong kinh doanh ngân hàng tại các quốc gia
đó. Việt Nam cũng không là ngoại lệ, chúng ta mới chỉ tạm thời đưa ra
những chuẩn mực của thế giới phát triển để định hướng cho sự vận hành
của bộ máy ngân hàng Việt Nam trong tương lai.
4. Đặc trưng hoạt động tín dụng trung và dài hạn của các ngân hàng
thương mại Việt Nam
Ngành ngân hàng Việt Nam là một ngành còn non trẻ so với thế giới
với lịch sử phát triển hàng trăm năm. Do có những đặc điểm khác nhau về
lịch sử đó, kèm theo những khác biệt trong chế độ và tổ chức bộ máy nhà
nước nên ngành ngân hàng cũng có những điểm đặc trưng riêng biệt, cụ
thể:
Thị trường hạn hẹp, khách hàng chỉ là các Tổng công ty/công ty
lớn của Nhà nước. Các công ty liên doanh hay có vốn của nước
ngoài thường lựa chọn vay vốn tại ngân hàng liên doanh hay chi
nhánh của ngân hàng nước ngoài.
Sản phẩm đơn điệu do ngân hàng chỉ cho vay theo dự án mà không
tính đến nhu cầu của khách hàng. Điều này gây khó khăn cho
doanh nghiệp trong khâu xin vay.
Chịu sức ép nhiều mặt của các đối thủ cạnh tranh trong khối ngân
hàng và các tổ chức tài chính khác.
Từ vị thế là người chủ trên thị trường và trong mối quan hệ với
khách hàng, hiện nay ngân hàng phải mời chào các doanh nghiệp
vay nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động được (đây là
điều tất yếu trong nền kinh tế thị trường).
Công cụ chủ yếu được sử dụng trong cạnh tranh ngày nay là cạnh
tranh bằng lãi suất. Điều này làm giảm tính hiệu quả của công tác
tín dụng, bởi lãi suất được tính toán trên nhiều cơ sở, trong đó rủi
ro là yếu tố quan trọng.
II. KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN
1. KHÁI NIỆM:
“ Cạnh tranh là hoạt động liên quan đến hai hoặc các công ty, trong đó mỗi
công ty cố gắng thuyết phục mọi người thích mua hàng hoá của công ty mình
hơm là hàng hoá của công ty khác.” – Collins Cobuild English Dictionary.
Theo kinh tế học, cạnh tranh là sự tranh giành thị trường (khách
hàng) để tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp. Như vậy, một nền
kinh tế thị trường luôn đòi hỏi phải có cạnh tranh mà cạnh tranh theo
nghĩa là tranh giành thị phần chỉ có trong khuôn khổ của kinh tế thị
trường. Cạnh tranh được phân chia thành 2 loại: cạnh tranh hoàn hảo
và cạnh tranh không hoàn hảo. Thị trường có cạnh trạnh hoàn hảo là thị
trường có quá nhiều người bán và người mua cùng một hàng hoá đồng
nhất đến mức không ai có thể ảnh hưởng đến giá cả thị trường. Nếu có
ít nhất một người bán lớn đến mức có thể ảnh hưởng tới giá thị trường
thì xảy ra cạnh tranh không hoàn hảo (tình trạng độc quyền). Độc
quyền được biểu hiện dưới các dạng: độc quyền tuyệt đối (monopoly)
khi một ngành chỉ có duy nhất một nhà cung cấp ; độc quyền mua
(monopsony) khi chỉ có duy nhất một nhà tiêu thụ; độc quyền nhóm
(một ngành do một số ít nhà cung cấp chi phối) hay một dạng đặc biệt
trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa: chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước (sự câu kết giữa một nhóm tài phiệt tư bản với nhà
nước tư bản)
2
. Khả năng cạnh tranh của ngân hàng được đánh giá như
một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh khả năng kết hợp các lợi thế cạnh tranh
mà ngân hàng đang có để biến đổi thành những công cụ hữu hiệu trong
việc khẳng định vị trí của ngân hàng trên thị trường.
Cùng với khái niệm cạnh tranh, “lợi thế cạnh tranh” đã trở thành
một nội dung quan trọng đối với bất cứ cá nhân hay tổ chức nào đang
hoạt động trong nền kinh tế. Theo từ điển kinh doanh của nhà xuất bản
Longman, “lợi thế cạnh tranh là một khía cạnh của một sản phẩm hay một
dịch vụ do một công ty cung cấp đã mang lại lợi thế cho công ty đó so với
các đối thủ khác”. Nhưng theo Michael Porter, một nhà nghiên cứu kinh
tế chuyên sâu về cạnh tranh thì “về cơ bản, lợi thế cạnh tranh phát triển
nhờ vào những sản phẩm mà công ty có thể cung cấp cho người mua có
giá trị cao hơn chi phí công ty phải chịu để tạo ra được sản phẩm đó”
3
.
Giá trị của sản phẩm là thứ người mua sắn sàng trả tiền, và lợi nhuận tăng
thêm xuất phát từ việc mời chào giá cả thấp hơn của đối thủ cạnh tranh để
giành được lợi nhuận tương đương hoặc cung cấp những dịch vụ duy
nhất có lợi ích lớn hơn đủ bù đắp cho giá thành cao hơn. Như vậy, có 2
hình thức cơ bản của lợi thế cạnh tranh: dẫn đầu về giá và sự phân biệt.
2
Managerial Economics, Keat Paul G.
3
Micheal Porter, “Competitive strategies”, 1985
2. CẠNH TRANH GIỮA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1.HỆ THỐNG CHỈ TIÊU THỂ HIỆN KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1.1.
Tổng dư nợ cho vay trung và dài hạn
Đây là chỉ tiêu cho biết rõ nét nhất về kết quả cho vay trung và dài
hạn của ngân hàng. Giá trị của các khoản cho vay phản ánh phần nào khả
năng thu hút khách hàng của ngân hàng cũng như cho biết ngân hàng có
khoản vốn huy động mạnh đến thế nào mới có thể cung ứng một cách đầy
đủ cho những khoản vay trên. Kết hợp với chỉ tiêu thị phần, khối lượng
của dư nợ tín dụng trung và dài hạn khẳng định vị trí của ngân hàng trên thị
trường.
2.1.2. Thị phần
Các ngân hàng cạnh tranh với nhau mà một trong những kết quả của
cuộc cạnh tranh đó được phản ánh trên thị phần của mỗi ngân hàng. Lẽ tất
nhiên, không phải ngân hàng nào có thị phần lớn hơn sẽ tập trung được
nhiều ảnh hưởng về mình nhưng điều này cũng cho thấy vị thế và sự ổn
định của ngân hàng này trên thị trường. Vì vậy, thị phần luôn là một mục
tiêu được các nhà quản trị ngân hàng quan tâm để đạt được lớn hơn so với
các đối thủ cạnh tranh khác.
2.1.3. Chất lượng khách hàng
Chỉ cần nhìn vào các khách hàng của một ngân hàng, người ta đã có
biết được phần nào khả năng thu hồi nợ của ngân hàng và qua đó biết
được hoạt động cho vay của ngân hàng có đáng tin cậy không. Một ngân
hàng có nguồn thông tin tốt về khách hàng mới có thể bảo đảm về khả
năng tài chính của khách hàng và quyết định cho vay. Qua danh sách
khách hàng ta còn có thể có thông tin về uy tín và danh tiếng của ngân
hàng.
Khách hàng tốt chính là doanh nghiệp có tiếng tăm trên thị
trường, vì cũng giống như ngân hàng, uy tín của doanh nghiệp cũng do
những thành quả đạt được trong quá khứ gây dựng nên. Không một
ngân hàng nào muốn mạo hiểm cho một doanh nghiệp không có tên
tuổi và chỗ đứng trên thị trường hay một doanh nghiệp đã có tiếng xấu
trong hoạt động trước đây vay vốn với lí do một trong những mục tiêu
hoạt động của ngân hàng là an toàn. Tình hình tài chính của khách
hàng có ổn định mới bảo đảm khách hàng hoạt động có hiệu quả và do
đó có khả năng trả nợ cho khách hàng khi có một dự án khả thi và một
phương án trả nợ vay hợp lý.
2.1.4. Khả năng giải quyết nợ xấu
Chỉ tiêu này được thể hiện thông qua các biện pháp mà ngân hàng
đã sử dụng từ xưa tới nay trong quá khứ để giải quyết nợ xấu, góp phần
nâng cao năng lực tài chính của ngân hàng, đem lại lợi thế cạnh tranh cho
ngân hàng. Khi một ngân hàng có thể làm tốt công tác này chứng tỏ ngân
hàng đó có những quyết sách phù hợp và linh hoạt nhằm cải cách hệ
thống hoạt động của ngân hàng.
2.1.5. Chất lượng nghiệp vụ cán bộ
Chỉ tiêu này được biểu hiện thông qua trình độ nghiệp vụ của cán
bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng có trình độ cao bảo đảm cho quá trình thẩm
định dự án không sai sót và có độ tin cậy cao. Trình độ của cán bộ tín
dụng còn thể hiện chính sách đào tạo và đãi ngộ cũng như khả năng thu
hút nhân tài của ngân hàng, tạo thành một lực lượng làm nên một nửa
thành công của ngân hàng: đó chính là nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Như vậy, khả năng cạnh tranh của một ngân hàng không phải là một
chỉ tiêu đơn lẻ mà nó được đánh giá tổng hợp thông qua sự kết hợp các
chỉ tiêu nói trên. Chỉ có như vậy chỗ đứng của ngân hàng trên thị trường
mới có thể được phản ánh một cách chính xác và đầy đủ, chi tiết, cung
cấp cho chúng ta những nhận xét thấu đáo hơn về hoạt động của một ngân
hàng trong tương lai.
2.2. CÁC CÔNG CỤ CẠNH TRANH
2.2.1. Cạnh tranh bằng lãi suất
Dẫn đầu về giá có lẽ là chiến lược rõ ràng nhất, trong đó công ty cố
gắng trở thành một nhà sản xuất có giá thấp trong toàn ngành. Đối với các
ngành sản xuất khác, đây có thể là một trong những chiến lược hiệu quả
nhất và giá cả có thể được sử dụng như một yếu tố cơ bản đánh giá trình
độ cạnh tranh của công ty. Tuy nhiên, ngành ngân hàng có những đặc
trưng riêng nên đòi hỏi phải có những phân tích khác. Dữ liệu về giá của
các giao dịch đơn lẻ có thể có ích và cần thiết cho các ngành khác nhưng
rất ít thông tin loại này phù hợp với ngân hàng.
Cạnh tranh bằng lãi suất hiện nay đang được sử dụng một cách mạnh
mẽ ở Việt Nam theo 2 khía cạnh: lãi suất huy động vốn và lãi suất cho
vay. Lãi suất huy động được tăng lên nhằm thu hút thêm nhiều vốn cho
ngân hàng, tạo cho ngân hàng một cơ sở vững chắc trong các hoạt động
tài chính khác. Trong khi đó các ngân hàng cạnh tranh bằng việc hạ lãi
suất cho vay. Việc một ngân hàng thực hiện chính sách dẫn đầu về giá
nhằm có lợi nhuận thu được từ việc thu hút được nhiều khách hàng tỏ ra
không mấy hiệu quả trong môi trường cạnh tranh trong ngành ngân hàng.
Cho dù lãi suất cho vay thấp nhằm kích cầu tín dụng trung và dài hạn
trong thời điểm vốn huy động bị ứ đọng không cho vay được, đồng thời
tạo cơ hội cho các dự án được thực hiện với chi phí rẻ hơn, có thể tạo đà
cho sự phát triển của nền kinh tế nhưng lại có những tác hại nghiêm trọng
tới khả năng hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng Ngoại thương trong
năm 2002 (tháng 8) đã phải tăng lãi suất huy động lên 0.66-0.68%/tháng,
và cả 3 ngân hàng thương mại quốc doanh là Ngân hàng Đầu tư, Ngân
hàng Nông nghiệp và Ngân hàng Công thương cũng đồng loạt phải tăng
lãi suất huy động, trong khi đó, lãi suất cho vay không tăng cao được. Lãi
suất cho vay bình quân của các ngân hàng thương mại hiện ở mức khoảng
0.75%/tháng, phổ biến ở mức 0.85%/tháng trong khi phải trừ đi tiền gửi
dự trữ bắt buộc, dự phòng…. Theo nhiều tính toán, chênh lệch giữa lãi
suất huy động và lãi suất cho vay chỉ là 0.15%/tháng trong khi mức cho
phép của Quốc hội là 0.35%/tháng. Hậu quả là rủi ro lớn, thu nhập thấp,
làm suy yếu sức mạnh tài chính, lương thấp. Như vậy, cạnh tranh về lãi
suất là như một con dao hai lưỡi mà mặt có hại nhiều hơn có. Tuy nhiên,
với những cách nhìn khác về việc sử dụng công cụ này, ta có thể dễ dàng
nhận thấy là các ngân hàng có thể sử dụng những lãi suất khác nhau cho
những khách hàng khác nhau trong những khoản vay thoạt trông là cùng
loại và cùng quy mô. Điều này một phần là do các nhân tố rủi ro khác
nhau và các điều khoản khác nhau của khoản vay: tài sản bảo đảm, thời
điểm trả nợ …. Khách hàng có nhiều sự lựa chọn, bao gồm cả lựa chọn
không cần vay vì có khả năng tài chính vững mạnh, thường nhận được lãi
suất thấp hơn so với những khách hàng có ít hơn hay không có lựa chọn
nào.
Tóm lại, cạnh tranh bằng lãi suất không phải lúc nào cũng đem lại tác
dụng mong muốn. Để sử dụng công cụ này có hiệu quả, chúng ta cần phải
có những biện pháp cụ thể và xác đáng.
2.1.2.2. Cạnh tranh bằng sự khác biệt và uy tín của ngân hàng
Như trên đã khẳng định, một ngân hàng muốn tạo được sự khác
biệt với các ngân hàng khác thì phải có những vũ khí chiến lược riêng thật
hiệu quả nhằm đạt được sự tán thưởng và ủng hộ cao nhất của khách
hàng, từ đó mới có thể hy vọng sẽ tạo được chỗ đứng trên thị trường và
hoạt động có chất lượng, vượt lên hẳn các đối thủ cạnh tranh trước đó.
Loại bỏ yếu tố lãi suất không hiệu quả, chúng ta có thể xem xét một số
công cụ chủ yếu của ngân hàng trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn
như sau: uy tín của ngân hàng, năng lực của bộ máy lãnh đạo, nguồn vốn
tự có và huy động được, hệ thống thu thập và xử lý thông tin, khả năng
phân tích rủi ro, chất lượng nguồn nhân lực, công nghệ ngân hàng và đổi
mới công nghệ, và công tác quản trị chiến lược.
Uy tín của một tổ chức tài chính có lẽ là tài sản quan trọng nhất và
cũng là tài sản vô hình nhất của nó, một loại tài sản có thể phân biệt được
những đối thủ thành công nhất trong ngành dịch vụ tài chính so với những
người còn lại. Nó là sản phẩm của những thành tích tích luỹ được trong
quá khứ của một tổ chức. Uy tín có thể nâng cao từ nhiều nguồn khác
nhau nhưng nói chung là được rút ra từ một khả năng và chuyên môn cụ
thể mà thị trường đánh giá cao và bản thân tổ chức đó đã phát triển trong
một thời gian.
Uy tín của một ngân hàng thường được quyết định qua nhận xét của
những khách hàng đã sử dụng dịch vụ ngân hàng. Một khi ngân hàng đã
tạo được vị trí trong lòng khách hàng, điều này sẽ là một lợi thế cho ngân
hàng trong việc quảng cáo và bán sản phẩm mới. Thị trường của ngân
hàng rộng lớn và phức tạp với rất nhiều kênh thông tin dày đặc cũng có
tính 2 mặt của nó. Nếu ngân hàng hoạt động tốt và phục vụ khách hàng
tận tình chu đáo, điểm tốt mà ngân hàng thu được sẽ lan rộng nhanh
chóng. Nhưng khi ngân hàng sơ sót thì danh tiếng của ngân hàng còn bị
hạ thấp nhanh chóng hơn. Trên thị trường tín dụng trung và dài hạn, uy
tín của ngân hàng giúp cho khách hàng có những lựa chọn tốt nhất để
quyết định vay vốn đầu tư.
2.1.2.3. Bộ máy lãnh đạo, khả năng quản tri điều hành
Không phải ngân hàng nào cũng có nhiều lợi thế như địa điểm,
nguồn vốn tự có… để có thể phát huy thành một lợi thế cạnh tranh của
mình. Vậy trong trường hợp này, các ngân hàng trên làm thế nào để có
thể tiếp tục tồn tại và phát triển giữa những lực lượng hùng hậu khác?
Một trong những chiếc chìa khoá của sự thành công chính là năng lực
sáng tạo và điều hành của bộ máy lãnh đạo ngân hàng. Sức mạnh của bộ
máy này là biết đánh giá, kết hợp một cách tài tình tất cả mọi nguồn lực
có trong tổ chức và phát huy tối đa khả năng của từng bộ phận vào kết
quả tổng hợp chung của ngân hàng. Để có thể thành công trong môi
trường cạnh tranh hiện nay, các nhà quản trị ngân hàng cần có những tố
chất sau đây:
- Khả năng chuyên môn: tuy có ý kiến cho rằng người quản lý ngày nay
không cần thiết phải có những hiểu biết chuyên sâu nhưng thực chất,
muốn có một sự sắp xếp cho cơ chế hoạt động của bất cứ một bộ máy thì
người quản lý phải có những hiểu biết nhất định, nhờ thế mới có thể phát
huy được khả năng của từng bộ phận trong tổ chức. Khi mỗi cá nhân và
bộ phận được đặt vào đúng vị trí và năng lực hoạt động của mình , họ mới
có thể phát huy hết khả năng phục vụ cho lợi ích của ngân hàng cũng như
là lợi ích của chính họ.
- Khả năng phán đoán: ban lãnh đạo ngân hàng cần phải có tầm nhìn xa
chiến lược, nhờ đó có thể phán đoán tương đối chính xác các xu hướng
của thị trường, có khả năng phân tích và dự đoán tác động của các biến
đổi hiện tại, từ đó đưa ra các chiến lược ở tầm vĩ mô nhằm trang bị cho
ngân hàng những vũ khí hiệu quả nhất giữ vững vị trí trên thị trường.
- Khả năng, nghệ thuật đối nhân xử thế: khả năng này không những thể
hiện trong phương pháp bố trí nhân lực, khuyến khích cố gắng của nhân
viên trong ngân hàng để thu được hiệu quả làm việc xuất sắc nhất mà còn
được áp dụng trong giao tiếp đối với khách hàng và các cấp có thẩm
quyền.
Trong hoạt động cho vay trung và dài hạn, một lực lượng khách
hàng chủ yếu của ngân hàng là các Tổng Công ty Nhà nước lớn. Cán bộ
tín dụng tiếp xúc với nhân viên của TCty nhưng quan hệ mật thiết và lâu
dài lại dựa nhiều vào khả năng của bộ máy lãnh đạo khi tiếp xúc với lãnh
đạo của các TCty. Trong giao dịch kí kết hợp đồng cho vay đầu tư dự án,
các ngân hàng thương mại nhà nước đều có những thế mạnh gần như
tương đương nhưng quyết định lựa chọn vay của ngân hàng nào từ phía
các Tcty cũng có phần ảnh hưởng không nhỏ của cung cách giao tiếp của
cán bộ lãnh đạo ngân hàng nào đã gây thiện cảm cho họ.
3.2.4. Khả năng phân tích rủi ro
Các tổ chức tài chính tự tài trợ cho mình bằng cách tạo lập ra các
tài sản tài chính do người khác nắm giữ. Những trường hợp dễ nhận thấy
nhất là tài khoản tiền gửi của khách hàng, giao dịch liên ngân hàng, và
phát hành chứng chỉ tiền gửi cũng như cổ phiếu. Do đó các tài sản cũng
được xếp loại từ các tài sản có lãi suất thấp và tính lỏng cao cho tới tài sản
có lãi suất cao và tính lỏng thấp . Mỗi loại có một loại rủi ro đặc trưng.
Trong bối cảnh này, chất lượng của một ngân hàng (khả năng phân tích
rủi ro) là một yếu tố quyết định quan trọng đến khả năng ngân hàng có thể
bán các sản phẩm tài chính của mình cho người khác với chi phí thấp nhất
có thể.
3.2.5. Nguồn vốn tự có và nguồn vốn huy động được
Trong những năm gần đây, các tổ chức tài chính và các bộ phận
của chúng đã bắt đầu có sự chú ý ngày càng tăng đối với việc sử dụng