Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Hiệu quả chương trình giáo dục sức khỏe nâng cao khả năng tự quản lý của người bệnh đái tháo đường típ 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (678.05 KB, 9 trang )

Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường”

Số 46 - Năm 2021

HIỆU QUẢ CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC SỨC KHỎE NÂNG CAO
KHẢ NĂNG TỰ QUẢN LÝ CỦA NGƯỜI BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2
1

Nguyễn Thị Gái1, Nguyễn Thị Bích Đào2, Kathy Fitzsimmons3
Trường Cao đẳng Y tế Bạc Liêu, BVĐK Quốc tế Vinmec Central Park
2
Viện tim Tâm Đức TP. Hồ Chí Minh
3
USC Upstate Mary Black School of Nursing

DOI: 10.47122/vjde.2021.46.18

TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả chương trình
giáo dục sức khỏe về tự quản lý cho người
bệnh đái tháo đường típ 2 đang được điều trị
ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa Bạc Liêu và
Bệnh viện Đa khoa Thanh Vũ. Thiết kế
nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên
có nhóm chứng. Đối tượng nghiên cứu: Bệnh
nhân ĐTĐ típ 2 đến điều trị ngoại trú tại bệnh
viện đa khoa Bạc Liêu và Bệnh viện Đa Khoa
Thanh Vũ từ tháng 02/2017 đến tháng 7/2017.
Phương pháp nghiên cứu: 140 người bệnh
đái tháo đường típ 2 được phân ngẫu nhiên
vào 2 nhóm: nhóm can thiệp (giáo dục sức


khỏe cá nhân) và nhóm chứng. Nhóm can
thiệp sẽ được giáo dục sức khỏe với hình thức
cá nhân về tự quản lý bệnh đái tháo đường.
Can thiệp giáo dục sức khỏe này khơng áp
dụng cho nhóm chứng. Sau 4 tuần, 2 nhóm sẽ
được khảo sát lại lần nữa. Điểm số trung bình
về kiến thức, hành vi, niềm tin vào khả năng
bản thân tự quản lý của bệnh đái tháo đường
típ 2 được đánh giá, so sánh trước và sau giáo
dục sức khỏe. Kết quả nghiên cứu: Đánh giá
tổng điểm kiến thức, niềm tin vào bản thân,
mức độ hành vi tự quản lý của người bệnh đái
tháo đường típ 2 ở nhóm can thiệp cao hơn
nhóm chứng phản ánh được hiệu quả bước đầu
của chương trình giáo dục sức khỏe. Sự khác
biệt đường huyết lúc đói có ý nghĩa trước và
sau giáo dục khỏe ở nhóm chứng (p=0,027),
nhóm can thiệp (p<0,001). Kết luận: Giáo dục
sức khỏe có hiệu quả đóng vai trò đáng kể
trong việc điều trị, theo dõi và chăm sóc của
người bệnh đái tháo đường típ 2, đặc biệt là
đối tượng ngoại trú.
Từ khóa: đái tháo đường típ 2, tự quản lý,
giáo dục người bệnh đái tháo đường tự quản
lý..

166

ABSTRACT
Effectiveness of health education program

enhance self – management ability of
patients with type 2 diabetes
Nguyen Thi Gai1, Nguyen Thi Bich Dao2,
Kathy Fitzsimmons3
1
Bac Lieu Medical College, International
Hospital Vinmec Central Park
2
Tam Duc Heart Hospital
3
USC Upstate Mary Black School of Nursing
Objectives: Evaluate the effectiveness of
health education program on self-management
for type 2 diabetes are being treated as
outpatients at Bac Lieu and Thanh Vu general
hospital. Design: randomized controlled trial.
Participants: Outpatients with type 2 diabetes
in Bac lieu and Thanh Vu General Hospita
from 02/2017 to 07/2017. Methods: 140
patients with type 2 diabetes was randomly
assigned to 2 groups: intervention group
(personal health education) and the control
group. The intervention group will be health
education with individual forms of selfmanagement of diabetes. Health education
interventions are not applied to the control
group. After 4 weeks, 2 groups was surveyed
again. The average score of knowledge,
behavior, sefl - efficacy to self-management of
type 2 diabetes was assessed, comparing
before and after health education. Results:

Assessed of the total score of knowledge, sefl
- efficacy and self-management behavior of
type 2 diabetes patients in the intervention
group was higher than control group that
reflected the first effectiveness of health
education program. The difference in fasting
blood sugar was significant before and after
healthy education in the control group (p =
0.027), and the intervention group (p <0.001).


Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường”

Conclusions: Especially outpatients, effective
health education plays a significant role in the
treatment, monitoring and caring of people
with type 2 diabetes.
Key words: Diabetes type 2 ,Self –
managemen, Self – managemen education.
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Thị Gái
Ngày nhận bài: 09/01/2021
Ngày phản biện khoa học: 09/02/2021
Ngày duyệt bài: 01/04/2021
Email:
Điện thoại: 0939696390
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái tháo đường (ĐTĐ) là một bệnh mãn
tính, khơng lây. Tỷ lệ người bệnh ĐTĐ đang
ngày càng gia tăng trên thế giới cũng như ở
nước ta, và ngày càng phát triển theo chiều

hướng phức tạp [1]. Chi phí chăm sóc người
bệnh đái tháo đường thì cao và ngày càng tăng
trên tồn thế giới [4], [6], [9].
Tự quản lý đề cập đến khả năng của một cá
nhân để quản lý các triệu chứng, điều trị, thể
chất, tâm lý xã hội và thay đổi lối sống vốn có
để thích ứng với tình trạng bệnh mãn tính.
Khái niệm tự quản lý được hiểu như là hai q
trình giáo dục và tự quản lý. Nó trang bị cho
người bệnh những điều kiện, kỹ năng cần thiết
để giảm các tác động tiêu cực của bệnh, có
hoặc khơng có sự cộng tác với đội ngũ y tế.
Hành vi tự quản lý của một cá nhân có ảnh
hưởng đến chăm sóc bệnh tiểu đường hằng
ngày và kết quả lâm sàng và chuyển hóa. Nền
tảng của kết quả thành cơng trong ĐTĐ là tự
quản lý, chăm sóc hiệu quả [7].
Giáo dục tự quản lý đái tháo đường cải
thiện lâm sàng và chất lượng cuộc sống của
người bệnh ĐTĐ ít nhất là trong thời gian
ngắn. Cụ thể, giáo dục tự quản lý đái tháo
đường giúp cải thiện về kiến thức, hành vi,
các kết cục điều trị của người bệnh ĐTĐ cả
típ 1 và 2, đặc biệt là kiểm soát đường huyết,
ổn định chỉ số HbA1C, huyết áp, BMI,
cholesterol [4], [6]. Ngoài ra, nó cịn quả hiệu
quả kinh tế, giúp người bệnh tiết kiệm chi phí
nhập viện bằng cách phịng ngừa để hạn chế
việc nhập viện và vào cấp cứu.
Ở Việt Nam nói chung và tỉnh Bạc Liêu nói


Số 46 - Năm 2021

riêng, có rất nhiều nghiên cứu về điều trị,
chăm sóc bệnh ĐTĐ đặc biệt là ĐTĐ típ 2, có
rất ít nghiên cứu về thực trạng, hành vi bệnh
nhân tự quản lý bệnh ĐTĐ. Vì vậy chúng tơi
tiến hành nghiên cứu này nhằm bước đầu đánh
giá hiệu quả của chương trình tư vấn, giáo dục
sức khỏe về tự quản lý cho những người bệnh
đái tháo đường típ 2 đang điều trị tại bệnh viện
Đa khoa Bạc Liêu và bệnh viện Đa Khoa
Thanh Vũ với các mục tiêu sau:
1. Xác định sự thay đổi về kiến thức, hành
vi, niềm tin vào khả năng bản thân tự quản lý
của người bệnh đái tháo đường típ 2 trước và
sau khi giáo dục sức khỏe.
2. Xác định sự thay đổi đường huyết của
người bệnh đái tháo đường típ 2 trước và sau
khi giáo dục sức khỏe.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 2/2017 đến tháng 7/2017
2.2. Thiết kế nghiên cứu: Thực nghiệm
lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng.
2.3. Đối tượng nghiên cứu:
Bệnh nhân ĐTĐ típ 2 đến điều trị ngoại trú
tại bệnh viện đa khoa Bạc Liêu và Bệnh viện
Đa Khoa Thanh Vũ từ tháng 02/2017 đến

tháng 7/2017.
Tiêu chí đưa vào:
- Người bệnh được chẩn đốn ĐTĐ típ 2
(theo tiêu chuẩn chẩn đoán của hiệp hội ĐTĐ
Hoa Kỳ 2015) đang điều trị tại Bệnh viện đa
khoa Bạc Liêu và Bệnh viện Đa khoa Thanh
Vũ từ tháng 02/2017 đến tháng 7/2017.
- Trên 18 tuổi
- Đồng ý tham gia nghiên cứu
Tiêu chí loại trừ:
- Người bệnh bị tâm thần, đang mang thai
- Người bệnh có các bệnh cấp tính nặng
(đột quỵ, nhồi máu cơ tim cấp tính, viêm gan
cấp, suy thận cấp, viêm phổi nặng ...)
- Người bệnh câm, điếc, khơng có khả năng
giao tiếp
- Người bệnh khơng có đầy đủ các xét
nghiệm cận lâm sàng cần thiết.
- Người bệnh không đồng ý tham gia
nghiên cứu

167


Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường”

- Người bệnh là nhân viên y tế.
2.4. Cỡ mẫu và kỹ thuật chọn mẫu
Phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên đơn, áp
dụng công thức tính cỡ mẫu:


: độ lệch chuẩn 1
: độ lệch chuẩn 2
: trung bình 1
: trung bình 2
Với = 0,05, 
= 1,96
= 0,2, 
= 0,845
Trong nghiên cứu của Nazli (2008) [9]:
= 3,2 là độ lệch chuẩn về điểm hành vi
tự chăm sóc của người bệnh sau GDSK
= 4 là độ lệch chuẩn điểm hành vi tự
chăm sóc của người bệnh trước GDSK
= 21,9 điểm trung bình hành vi tự
chăm sóc của người bệnh sau GDSK
= 20 là điểm trung bình hành vi tự chăm
sóc của người bệnh trước GDSK
Thay vào công thức ta được n= 57,1 người
. Vậy cỡ mẫu tối thiểu là n = 58 người/ nhóm.
Dự trù mất mẫu 10%: 12 người. Vậy tổng
mẫu của nghiên cứu là :
58 x 2+12 = 128 người
160 người bệnh ĐTĐ típ 2 đã được máy
tính chọn ngẫu nhiên (sử dụng hàm Random
trong Exel) từ danh sách người bệnh ĐTĐ đến
khám tại Khoa khám bệnh – Bệnh viện Đa
Khoa Bạc Liêu và Bệnh viện Đa Khoa Thanh
Vũ. Có 140 người bệnh đáp ứng đúng, đủ tiêu
chí chọn vào và đồng ý tham gia vào nghiên

cứu.
Phân nhóm ngẫu nhiên bằng cách: có 140
mảnh giấy được đánh số từ 1 đến 140 và xếp
lại vào phong bì (người đánh số sẽ khơng
tham gia vào bất cứ khâu nào của nghiên cứu
nữa). Điều tra viên sẽ đưa cho họ 1 phong bì
bất kỳ. Nếu trong phong bì là số lẻ, người
bệnh được phân vào nhóm can thiệp, số chẵn
thì người bệnh sẽ được phân vào nhóm chứng.
2.5. Cơng cụ thu thập số liệu
Chúng tơi sử dụng Bộ câu hỏi được dịch từ

168

Số 46 - Năm 2021

phiên bản gốc tiếng Anh sang tiếng Việt với sự
cho phép sử dụng của tác giả. Các chuyên gia
ngoại ngữ và bác sĩ nội tiết dịch xuôi và dịch
ngược bộ câu hỏi giữa tiếng Anh và tiếng Việt
theo qui trình của WHO để đảm bảo về ngữ
nghĩa và tính chuyên mơn của bộ câu hỏi trong
q trình chuyển ngữ.
Cấu trúc bộ câu hỏi gồm 4 phần:
- Phần 1 bao gồm các câu hỏi đánh giá các
đặc điểm nhân khẩu học
- Phần 2 gồm 16 câu hỏi kiến chung về
bệnh đái tháo đường [4], [hu]
- Phần 3 gồm 12 câu hỏi đánh giá các hoạt
động tự chăm sóc của bệnh nhân ĐTĐ típ 2

trong thời gian 7 ngày (1 tuần) vừa qua (C –
SDSCA).
- Phần 4 gồm Gồm 16 câu hỏi đánh giá
Niềm tin vào khả năng bản thân của người
bệnh ĐTĐ típ 2 trong việc quản lý bệnh (CDMSES).
Các phần 2,3,4, của bộ câu hỏi được tính
điểm trung bình và so sánh trước sau can
thiệp.
Đồng thời, bộ câu hỏi được đánh giá độ
tinh cậy Cronbach alpha bằng cách khảo sát
thử trên 30 đối tượng.
2.6. Phương pháp thu thập số liệu
Phỏng vấn trực tiếp
2.7. Xử lý và phân tích số liệu:
Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 20.
Thống kê mô tả: tần số, tỉ lệ % được sử
dụng để mô tả các đặc điểm nhân khẩu học
của mẫu nghiên cứu và các biến định tính,
điểm trung bình và độ lệch chuẩn được sử
dụng để mô tả cho các biến định lượng.
Thống kê phân tích: độ tin cậy hằng định
bên trong bộ câu hỏi được xác định bởi hệ số
Cronbach’s alpha, sự khác biệt về điểm trung
bình về kiến thức, hành vi, niềm tin vào khả
năng bản thân trong nội tại nhóm can thiệp
hoặc nhóm chứng trước vào sau giáo dục sức
khỏe được xác định bằng phép kiểm T-test bắt
cặp, giữa nhóm chứng và nhóm can thiệp được
xác định bằng phép kiểm T-test không bắt cặp
tất cả phép kiểm ở mức ý nghĩa  = 0,05. Nếu

các biến số không thỏa điều kện T test sử dụng
phép kiểm Mann-Whitney.


Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường”

Số 46 - Năm 2021

2.8. Các biến số:
Biến số nền: tuổi, giới tính, dân tộc, tơn
giáo, nghề nghiệp, tình trạng hơn nhân,..
Biến số đọc lập: kiến thức, niềm tin, hành
vi tự quản lý của người bệnh ĐTĐ típ 2 trước
giáo dục sức khỏe
Biến số phụ thuộc: kiến thức, niềm tin,

hành vi tự quản lý của người bệnh ĐTĐ típ 2
sau giáo dục sức khỏe
2.9. Đạo đức trong nghiên cứu:
Nghiên cứu này được tiến hành sau khi
được sự chấp thuận của hội đồng y đức
Trường Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh.

3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.1. Đặc điểm nhân khẩu học của người bệnh ĐTĐ típ 2
Nhóm can thiệp

Chung
Biến số


Giới tính

Dân tộc

Học vấn

Nghề
nghiệp

Hơn
nhân
Chung
sống

Tần
số (n)

Tỷ lệ
(%)

Tần số
(n)

Tỷ lệ
(n)

Tần số
(n)


Tỷ lệ
(n)

Nam

43

30,7

24

34,3

19

27,1

Nữ

97

69,3

46

65,7

51

72,9


Kinh

117

83,6

62

88,6

55

78,6

Hoa

8

5,7

3

4,3

5

7,1

Khmer


15

10,7

5

7,1

10

14,3

Khác

0

0

0

0

0

0

≤Cấp 1

73


52,1

36

51,4

37

52,9

Cấp 2

39

27,9

17

24,3

22

31,4

Cấp 3

13

9,3


7

10

6

8,6

≥TC – CĐ

15

10,7

10

14,3

5

7,1

Nông dân

45

32,1

22


31,4

23

32,9

Viên chức
Cơng
nhân
Nội trợ

7

5,0

6

8,6

1

1,4

3

2,1

2


2,9

1

1,4

31

22,1

13

18,6

18

25,7

Bn bán
Già, Nghỉ
hưu
Độc thân

15

10,7

10

14,3


5

7,1

39

27,9

17

24,3

22

31,4

9

6,4

3

4,3

6

8,6

Kết hơn


131

93,6

67

95,7

64

91,4

1 mình

0

0

0

0

0

0

140

100


70

100

70

100

Gia đình

Tuổi
a: Trung bình ± ĐLC
a

Nhóm chứng

60,6 ± 8,7
61,9 ± 8,9
59,4 ± 8,3
* Phép kiểm Chi bình phương

p

0,36*

0,25**

0,49*


0,21**

0,49**

0.08***

169


Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường”

Số 46 - Năm 2021

** Phép kiểm chính xác Fisher
*** Phép kiểm T test không bắt cặp
Nhận xét: Qua kết quả nghiên cứu cho thấy sự khác biệt khơng có ý nghĩa thống kê về đặc
điểm nhân khẩu học của mẫu nghiên cứu giữa 2 nhóm cũng như giữa 2 cơ sở điều trị trước và
sau can thiệp.
3.2. Hiệu quả chương trình giáo dục sức khỏe
Bảng 3.2. So sánh kiến thức chung về bệnh ĐTĐ giữa nhóm chứng và nhóm can thiệp
trước và sau giáo dục sức khỏe
Chung
Nhóm can thiệp
Nhóm chứng
p*
Biến số
TV(KTPV)
TV(KTPV)
TV (KTPV)
Kiến

thức

Trước

8 (7- 10)

8 (6 – 9)

9 (7 – 10)

0,052

Sau

10 (9 - 14)

13,5 (10 – 15)

9 (8 - 11)

<0,001

<0,001

<0,001

0,016

p**


** Phép kiểm Mann - Whithney
* Phép kiểm phi tham số Wilcoxon
Nhận xét:
- Trước giáo dục sức khỏe: Sự khác biệt về kiến thức chung về bệnh ĐTĐ giữa nhóm can
thiệp và nhóm chứng khơng có ý nghĩa thống kê (p = 0,052).
- Sau giáo dục sức khỏe: Sự khác biệt về kiến thức chung về bệnh ĐTĐ giữa nhóm can thiệp
và nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).
- Sự khác biệt về kiến thức chung về bệnh ĐTĐ ở nhóm chứng trước và sau giáo dục sức
khỏe có ý nghĩa thống kê (p = 0,016).
- Sự khác biệt về kiến thức chung về bệnh ĐTĐ ở nhóm can thiệp trước và sau giáo dục sức
khỏe có ý nghĩa thống kê (p< 0,001).
3.2.1. Niềm tin vào khả năng bản thân tự quản lý bệnh ĐTD típ 2 của đối tượng nghiên cứu:
Bảng 3.3. So sánh niềm tin vào khả năng bản thân tự quản lý bệnh ĐTĐ típ 2
giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng trước và sau giáo dục sức khỏe
Chung
Nhóm can thiệp
Nhóm chứng
Biến số
p**
TV (KTPV)
TV (KTPV)
TV (KTPV)
Niềm tin
p*

Trước

99 (76 – 126)

99 (82 – 126)


99,5 (71 – 126,25)

0,564

Sau

115 (91 – 135)

133 (115 – 142)

93 (76,75 – 113,5)

<0,001

<0,001

<0,001

0,510
*Phép kiểm Mann – Whithney

** Phép kiểm Wilcoxon
Nhận xét:
- Trước giáo dục sức khỏe: Sự khác biệt niềm tin vào khả năng bản thân tự quản lý bệnh
ĐTĐ típ 2 giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng khơng có ý nghĩa thống kê (p = 0,564).
- Sau giáo dục sức khỏe: Sự khác biệt về niềm tin vào khả năng bản thân tự quản lý bệnh
ĐTĐ típ 2 giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (p <0,001).
- Sự khác biệt về niềm tin vào khả năng bản thân tự quản lý bệnh ĐTĐ típ 2 ở nhóm can
thiệp trước và sau giáo dục sức khỏe có ý nghĩa thống kê (p< 0,001).

- Sự khác biệt về niềm tin vào khả năng bản thân tự quản lý bệnh ĐTĐ típ 2 ở nhóm chứng
trước và sau giáo dục sức khỏe khơng có ý nghĩa thống kê (p = 0,510).

170


Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường”

Số 46 - Naêm 2021

3.2.2. Mức độ hành vi tự quản lý bệnh ĐTĐ típ 2 trước và sau giáo dục sức khỏe:
Bảng 3.3. So sánh hành vi tự quản lý bệnh ĐTĐ típ 2 giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng
trước và sau khi giáo dục sức khỏe
Chung
Nhóm can thiệp
Nhóm chứng
p**
Biến số
TV(KTPV)
TV(KTPV)
TV(KTPV)
49 (42,7549 (43 – 54)
50 (43 – 54)
0,632
Mức độ Trước
54,25)
hành vi
56 (44,75 – 67,25 )
65 (58,5 – 71,75)
46,5 (37 – 54)

<0,001
Sau
p*
<0,001
<0,001
0,646
**Phép kiểm phi tham số Wilcoxon
*Phép kiểm Mann – Whithney
Nhận xét:
- Trước giáo dục sức khỏe: Sự khác biệt về mức độ hành vi tự quản lý bệnh ĐTĐ típ 2 giữa
nhóm can thiệp và nhóm chứng khơng có ý nghĩa thống kê (p = 0,632).
- Sau giáo dục sức khỏe: Sự khác biệt về mức độ hành vi tự quản lý bệnh ĐTĐ típ 2 giữa
nhóm can thiệp và nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (p <0,001).
- Sự khác biệt về mức độ hành vi tự quản lý bệnh ĐTĐ típ 2 ở nhóm can thiệp trước và sau
giáo dục sức khỏe có ý nghĩa thống kê (p< 0,001).
- Sự khác biệt về mức độ hành vi tự quản lý bệnh ĐTĐ típ 2 ở nhóm chứng trước và sau giáo
dục sức khỏe khơng có ý nghĩa thống kê (p = 0,646).
3.3. Đường huyết của người bệnh ĐTĐ típ 2 trước và sau giáo dục sức khỏe:
Bảng 3.5. So sánh đường huyết của người bệnh ĐTĐ típ 2 giữa nhóm can thiệp
và nhóm chứng
Chung
Nhóm can thiệp
Nhóm chứng
p**
Biến số
TV (KTPV)
TV (KTPV)
TV (KTPV)
Đường
7,9 (7 – 9,91)

7,8 (6,95 – 9,47)
8 (7,07 – 10)
Trước
0,401
huyết
7,21 (6,48 - 8,82) 7,21 (6,41 – 8,53)
7,3 (6,5 – 9)
Sau
0,776
lúc đói
p*
<0,001
0,001
0,027
** Phép kiểm phi tham số Wilcoxon * Phép kiểm Mann – Whithney
Nhận xét:
- Trước giáo dục sức khỏe: Sự khác biệt về trung bình đường huyết giữa nhóm can thiệp và
nhóm chứng khơng có ý nghĩa thống kê (p = 0,401).
- Sau giáo dục sức khỏe: Sự khác biệt về về trung bình đường huyết giữa nhóm can thiệp và
nhóm chứng khơng có ý nghĩa thống kê (p = 0,776).
- Sự khác biệt về trung bình đường huyết ở nhóm can thiệp trước và sau giáo dục sức khỏe
có ý nghĩa thống kê (p = 0,001).
- Sự khác biệt về trung bình đường huyết ở nhóm chứng trước và sau giáo dục sức khỏe có ý
nghĩa thống kê (p = 0,027).
4. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm của mẫu nghiên cứu
Trong số người bệnh ĐTĐ típ 2 được
phỏng vấn trước và sau can thiệp có 67,7% là
nữ. Kết quả này phù hợp với nhiều nghiên cứu
trong và ngoài nước. Nghiên cứu của Mai Yến


Linh (2015) cho thấy có đến 65,74% người
bệnh ĐTĐ là nữ, Nguyễn Văn Lành (79,5% )
[8]. Các báo cáo toàn cầu cũng cho thấy rằng
trong vài thập niên của thế kỷ trước, nữ là đối
tượng chính mắc ĐTĐ típ 2 với số mắc cao
hơn so với nam.

171


Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường”

Trong những năm gần đây, các nhà khoa
học nhận thấy có sự dịch chuyển nhẹ về tỷ lệ
mắc ĐTĐ típ 2 từ nữ sang nam.
Tuổi trung bình của người bệnh ĐTĐ típ 2
trong nghiên cứu của chúng tôi là 60,58 ±
8,66, nhỏ nhất là 39 tuổi và lớn nhất là 82
tuổi. Kết quả này tương tự với các nghiên
cứu khác ở trong và ngoài nước. Trong
nghiên cứu của Nguyễn Thị Quỳnh Chi
(65,9±10,3) [6]. Nguyên nhân của sự chênh
lệch này có thể do hiện nay bệnh ĐTĐ típ 2
đang trẻ hóa đối tượng mắc trên tồn cầu
cũng như ở nước ta. Từ đó dẫn đến độ tuổi
trung bình của người bệnh ĐTĐ típ 2 trong
nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với một
số nghiên cứu trước đây.
4.2. Hiệu quả chương trình giáo dục sức

khỏe nâng cao khả năng tự quản lý bệnh
ĐTĐ típ 2:
4.2.1. Kiến thức:
Chương trình tư vấn, giáo dục sức khỏe đã
có hiệu quả nâng cao kiến thức của người
bệnh ĐTĐ típ 2, thể hiện rõ ở sự khác biệt về
điểm trung vị kiến thức của nhóm can thiệp
(13,5 điểm) và nhóm chứng (9 điểm),
(p<0,001)–bảng 3.2. Kết quả này phù hợp với
các nghiên cứu trước đây của Nguyễn Thị Thu
Thảo [4], Bradshaw [6]. Đây là nền tảng của
sự thay đổi trong việc tự quản lý bệnh ở người
bệnh nói chung và người bệnh ĐTĐ típ 2 nói
riêng. Đồng thời là cơ sở để tiến hành và duy
trì GDSK tốt hơn bởi vì GDSK khơng những
được tiến hành cho mọi người và vì lợi ích của
mọi người trong cộng đồng xã hội, mà còn
được mọi người tham gia thực hiện. Mọi
người vừa là đối tượng của giáo dục sức khỏe
vừa là người tiến hành giáo dục sức khỏe.
4.2.2. Niềm tin vào khả năng bản thân tự
quản lý của nguời bệnh
Trong nghiên cứu này cho thấy sau GDSK
mức độ niềm tin vào khả năng tự quản lý của
người bệnh ĐTĐ típ 2 cao hơn (65 điểm) so
với trước khi được giáo dục sức khỏe (46,5
điểm) – bảng 3.3. Từ đây, cho ta thấy chương
trình giáo dục sức khỏe có tác động tích cực
đến niềm tin vào khả năng bản thân tự quản lý
của người bệnh ĐTĐ típ 2. Điều này cũng

tương tự như kết quả nghiên cứu của Jone &

172

Số 46 - Năm 2021

cộng sự và Odgers-Jewell sau giáo dục, nhận
thức, cũng như sự tự tin của người bệnh sẽ
tăng lên theo hướng tích cực .
4.2.3. Mức độ hành vi tự quản lý của
nguời bệnh
Mức độ hành vi tự quản lý của người bệnh
ĐTĐ típ 2 trong nghiên cứu này nhìn chung
có sự khác biệt trước và sau giáo dục
(p<0,001). Nhưng hành vi tự theo dõi đường
huyết thì sự khác biệt khơng có ý nghĩa thống
kê (p= 1). Cũng có thể nói chương trình giáo
dục sức khỏe này chưa có tác dụng rõ rệt lên
hành vi tự theo dõi đường huyết của người
bệnh ĐTĐ típ 2. Điều này có thể lý giải do đa
phần đối tượng nghiên cứu có nghề nghiệp là
nơng dân (chiếm 32,3%) và người cao tuổi
(chiếm 28,5%), trình độ học vấn chưa cao (≤
cấp 1 chiếm 51,5 %) – Bảng 3.1 nên mặc dù
có sự thay đổi kiến thức, nhưng trong một
thời gian ngắn (2 tháng) thì chưa làm thay đổi
được hành vi.
Đây có thể là những rào cản cũng như
thách thức cho việc thiết kế, triển khai sao
cho chương trình GDSK thật sự phù hợp, có

hiệu quả với các đối tượng khác nhau. Theo
tác giả Nguyễn Thị Quỳnh Chi (2014), giữa
niềm tin vào khả năng bản thân và hoạt động
tự chăm sóc có mối liên quan thuận, có ý
nghĩa thống kê (r= 0,67, 0 <0,001). Niềm tin
vào khả năng càng lớn thì hoạt động tự chăm
sóc càng cao [6], tương tự như tác giả
Sharoni (2012) cũng cho rằng niềm tin và
hoạt động tự chăm sóc có mối liên quan với
nhau tỷ lệ thuận với nhau. Vậy nguyên nhân
có thể do niềm tin tự điều chỉnh đường huyết
của người bệnh ĐTĐ típ 2 chưa thay đổi sau
giáo dục (p= 0,909) nên dẫn đến chưa thay
đổi hành vi.
Thực tế, thông qua phỏng vấn, một số
người bệnh mặc dù có máy thử đường huyết
tại nhà vẫn ít tin rằng họ có thể chủ động
kiểm tra và thực hiện thao tác đúng để theo
dõi chính xác lượng đường trong máu.
Theo tác giả Ong, sự lo lắng khi phải sử
dụng kim tiêm và đau đớn khi kiểm tra đường
huyết có thể làm giảm niềm tin từ đó dẫn đến
giảm hành vi của người bệnh. Từ đó cho thấy
tầm quan trọng của việc củng cố niềm tin của


Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường”

người bệnh, từ đó cải thiện hành vi tự chăm
sóc. Vì vậy, nhân viên y tế phải cân nhắc đến

những vấn đề này trong quá trình tư vấn cho
người bệnh.
Người bệnh nên được thuyết phục rằng họ
có thể vượt qua mọi khó khăn và nên được
hướng dẫn về kỹ thuật trích tay ít đau và có
thể ln phiên thay đổi vị trí lấy máu như
cánh tay, bụng hay đùi để cho ngón tay được
nghỉ ngơi
4.2.4. Hiệu quả của chương trình can
thiệp đối với đường huyết của người bệnh
ĐTĐ típ 2:
Ở Bảng 3.5 Sau giáo dục sức khỏe đường
huyết lúc đói của nhóm can thiêp và nhóm
chứng khác biệt khơng có ý nghĩa thống kê
(p= 0,776).
Nhưng sự khác biệt đường huyết có ý
nghĩa thống kê ở nhóm can thiệp trước và sau
giáo dục sức khỏe (p= 0,001). Mặc dù, chưa
khẳng định được sự ảnh hưởng tích cực của
giáo dục sức khỏe lên đường huyết của nhóm
can thiệp so với nhóm chứng, nhưng trong
nghiên cứu này, kết quả cũng cho thấy sự cải
thiện của đường huyết trong nhóm người bệnh
được giáo dục sức khỏe so với lúc đầu.
Điều này có thể được lý giải vì các nguyên
do sau: Thứ nhất, có lẽ do thời gian theo dõi
ngắn (8 tuần) chưa đủ để đánh giá chính xác
được sự thay đổi của đường huyết. Thứ hai,
trong nhóm can thiệp, người bệnh được giáo
dục, hướng dẫn, về các nội dung tự quản lý

bệnh ĐTĐ típ 2 trong đó có phần tự theo dõi
đường huyết, ổn định đường huyết bằng cách
dùng thuốc, thực hiện chế độ ăn, tập thể
dục,… nên đã tác động làm tăng kiến thức,
niềm tin của người bệnh.
Từ đó, tạo được sự thay đổi các hành vi tự
chăm sóc. Từ các hành vi tự chăm sóc được
thay đổi tốt đó, tạo nên hiệu quả tác động trên
đường huyết lúc đói.
Nhưng do thời gian theo dõi ngắn (8 tuần)
nên tác động này chỉ tạo được sự cải thiện
trong nội bộ nhóm can thiệp so với trước giáo
dục sức khỏe, mà chưa làm nổi bật rõ sự cải
thiện so với nhóm chứng.
Nghiên cứu của Bradshaw (2015) [6] cũng
cho thấy thời gian là cần thiết để khảo sát tác

Soá 46 - Năm 2021

dụng của chương trình can thiệp cũng như sự
thay đổi của chỉ số đường huyết.
5. KẾT LUẬN
5.1. So sánh điểm trung vị kiến thức,
niềm tin vào khả năng bản thân và hành vi
tự quản lý bệnh ĐTĐ típ 2 trước và sau
giáo đục sức khỏe:
Ở nhóm can thiệp, sau giáo dục sức khỏe
điểm trung vị kiến thức (13,5 (10 - 15)), niềm
tin vào khả năng bản thân (133 (115 – 142)) và
hành vi tự quản lý của người bệnh ĐTĐ típ 2

(65 (58,5 – 71,7)) cao hơn so với trước khi
giáo dục sức khỏe (8 (6-9)), (99 (82 - 126),
(50 (43 – 54)).
Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống
kê ở nhóm chứng. Sau giáo dục sức khỏe,
nhóm can thiệp có điểm trung vị kiến thức
(13,5 (10 – 15), niềm tin vào khả năng bản
thân (133 (115 – 142), và hành vi tự quản lý
bệnh ĐTĐ típ 2 (65 (58,5 – 71,7), cao hơn
nhóm chứng (9 (8 - 11)), (93 (76,7 – 113,5)),
(46,5 (37 – 54)). Sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê (p <0.001).
5.2. So sánh điểm trung vị đường huyết
của người bệnh ĐTĐ típ 2 trước và sau giáo
dục sức khỏe:
Ở nhóm can thiệp, sau giáo dục sức khỏe
điểm trung vị đường huyết lúc đói của người
bệnh ĐTĐ típ 2 (7,2 (6,42 – 8,5)) thấp hơn so
với trước khi giáo dục sức khỏe (7,8 (6,9 –
9,47)), (p= 0,001). Ở nhóm chứng sự khác biệt
này cũng có ý nghĩa thống kê (p=0,027).
Sau giáo dục sức khỏe, điểm trung vị
đường huyết lúc đói của người bệnh ĐTĐ típ
2 ở nhóm can thiệp (7,2 (6,42 – 8,5)) thấp hơn
so với nhóm chứng (7,3 (6,5 – 9,0)). Sự khác
biệt này khơng có ý nghĩa thống kê (p=0,776).

1.

2.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Y tế (2015) Chiến lược quốc gia
phòng, chống bệnh ung thư, tim mạch, đái
tháo đường, bệnh phổi tắc nghẽn mạn
tính, hen phế quản và các bệnh khơng lây
nhiễm khác, giai đoạn 2015 - 2025. Bộ Y
tế.
Mai Yến Linh (2015) Rào cản kiểm soát

173


Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường”

3.

4.

5.

6.

174

đường huyết và các yếu tố liên quan trên
bệnh nhân Đái tháo đường type 2 cao tuổi
tại bệnh viện Đa khoa Khu vực Thủ Đức
năm 2013-2014, Đại Học Y Dược Thành
Phố Hồ Chí Minh, tr 64.

Nguyễn Thị Quỳnh Chi (2014) Niềm tin
vào khả năng bản thân và hoạt động tự
chăm sóc của người bệnh Đái tháo đường
típ 2 Luận văn Thạc sĩ Điều dưỡng, Khoa
Kỹ thuật - Điều dưỡng Y học, Đại học Y
Dược Thành phố Hồ Chí Minh tr 30.
Nguyễn Thị Thu Thảo, Nguyễn Thanh
Minh (2009) "Đánh giá ảnh hưởng truyền
thông giáo dục về kiến thức, thái độ thực
hành & các chỉ số kiểm sốt trên bệnh
nhân đái tháo đường típ II". Y Hoc TP. Ho
Chi Minh 13 (6), tr 71 - 78.
Nguyễn Văn Lành (2014) Thực trạng
bệnh đái tháo đường ở người Khmer tỉnh
Hậu Giang và đánh giá hiệu quả một số
biện pháp can thiệp, Luận văn tiến sĩ y
học, Viện vệ sinh dịch tễ trung ương, tr
66.
Bradshaw RD (2015) Diabetes SelfManagement Education for Adults With
Type 2 Diabetes Mellitus, Doctoral

Soá 46 - Naêm 2021

studies, Walden University, pp 47 – 49
Hu J, Gruber K. J, Garcia A A (2013)
"Diabetes knowledge among older adults
with diabetes in Beijing, China". Journal
of Clinical Nursing, 22 (1-2), 51-60
8. Min Y (2013) Effects of self-management
education on diabetic control among

patients with type 2 diabetes : a
systematic review, Degree of Master of
Public Health Project, School of Public
Health, The University of Hong Kong,
pages 11 - 12.
9. Nazli A (2008) "The effect of education
on
knowledge,
self
management
behaviours and self effcacy of patients
with type 2 diabetes". AUSTRALIAN
JOURNAL OF ADVANCED NURSING 26
(2), pp 66 - 74.
10. Odgers-Jewell K, Ball LE, Kelly JT,
Isenring AE, Reidlinger DP, Thomas R
(2017) "Effectiveness of group-based
self-management
education
for
individuals with Type 2 diabetes: a
systematic review with meta-analyses and
meta-regression". Diabet Med., 34 (8), pp
1027-1039.
7.



×