Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ từ thực tiễn địa bàn thành phố vinh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.24 KB, 62 trang )

Bộ GIáO DụC Và ĐàO TạO
Tr-ờng đại học vinh
Khoa LUậT

Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông đ-ờng bộ - từ thực tiễn
địa bàn Thành phố Vinh - Nghệ An

khóa luận tốt nghiệp đại học
ngành cử nhân luật

Giáo viên h-ớng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Hà
Sinh viên thực hiện : Vũ Thị Hoa
Lớp

: 49B1 Luật

MSSV

: 0855031531

NghÖ An - 2012


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên của khóa luận, em xin chân thành cảm ơn Th.S Nguyễn Thị
Hà giảng viên khoa luật, trường Đại học Vinh người đã trực tiếp hướng dẫn,
tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt quá trình hồn thành khóa luận này.
Em xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới ban chủ nhiệm khoa Luật, các
thầy cô giáo trong khoa Luật, đặc biệt là các thầy cơ giáo trong tổ Hành
chính – Nhà nước, Khoa Luật những người đã tâm huyết, dày công dạy bảo,


truyền thụ tri thức, giúp đỡ em trong suốt thời gian qua
Qua đây em cũng muốn gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã ln
động viên, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em trong suốt thời gian học tập và
làm tốt khóa luận.
Nghệ An, tháng 5/2012
Sinh viên
Vũ Thị Hoa


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
GTĐB

Giao thông đường bộ

VPHC

Vi phạm hành chính

ATGT

An tồn giao thơng

TP Vinh

Thành phố Vinh


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬTXỬ
PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THƠNG
ĐƯỜNG BỘ ........................................................................................................ 6
1.1. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thơng đường bộ......................... 6
1.1.1. Định nghĩa vi phạm hành chính .......................................................... 6
1.1.2. Đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ .. 9
1.2 Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thơng đường bộ ............... 10
1.2.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính ............................................ 10
1.2.3. Đặc thù của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ........................................................................................... 12
1.2.4. Yêu cầu đối với pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường bộ ................................................................. 15
Chương 2: PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH
VỰC GIAO THƠNG ĐƯỜNG BỘ ................................................................ 18
2.1. Thực trạng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thơng đường bộ ........................................................................................ 18
2.1.1 Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thơng đường bộ. ......... 18
2.1.2 Hình thức xử phạt ............................................................................... 20
2.1.3. Thẩm quyền xử phạt VPHC ............................................................. 21
2.1.4. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính ................................................. 25
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lí VPHC trong lĩnh vực GTĐB trên
địa bàn Thành phố Vinh – Nghệ An ........................................................ 27


2.2.1. Tình hình VPHC trong lĩnh vực GTĐB trên địa bàn Thành phố Vinh .. 27
2.2.2. Thực tiễn hoạt động xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB trên địa
bàn Thành phố Vinh ......................................................................... 29
2.2.3. Nguyên nhân của tình trạng VPHC trong lĩnh vực GTĐB trên địa
bàn Thành phố Vinh ......................................................................... 34

Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM
HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THƠNG ĐƯỜNG BỘ ......... 40
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về xử phạt VPHC trong lĩnh vực
GTĐB nói chung và trên địa bàn Thành phố Vinh nói riêng. ................. 40
3.2. Phương hướng hoàn thiện ........................................................................ 41
3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB43
3.3.1. Xác định rõ các khái niệm có liên quan ............................................ 43
3.3.2. Bổ sung các nguyên tắc xử lí VPHC trong lĩnh vực GTĐB ............. 43
3.3.3. Về hành vi vi phạm. ......................................................................... 44
3.3.4. Bổ sung hình thức xử phạt VPHC, xác định lại tính chất của các
hình thức đó...................................................................................... 45
3.3.5. Quy định thẩm quyền xử phạt VPHC, thẩm quyền áp dụng các biện
pháp khắc phục hậu quả. .................................................................. 46
3.3.6. Về trình tự, thủ tục xử phạt. ............................................................. 47
3.3.7. Xây dựng luật xử lí VPHC .............................................................. 48
3.4. Giải pháp hồn thiện về việc tổ chức thực hiện việc xử phạt VPHC
trong lĩnh vực GTĐB nói chung, đặc biệt ở địa bàn TP Vinh ................. 48
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................... 53

0


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động giao thơng nói chung và giao thơng vận tải đường bộ nói
riêng chiếm giữ một vị trí quan trọng trong đời sống xã hội. Nó đáp ứng được
yêu cầu đi lại; sản xuất, trao đổi, lưu thơng hàng hóa, sản phảm xã hội ở các
khu vực khác nhau; tăng cường sức mạnh quốc phòng, cũng cố an ninh đất
nước; tạo các mối liên hệ giữa các vùng miền, địa phương phản ánh trình độ
phát triển của xã hội thơng qua các phương tiện giao thơng. Nhưng bên cạnh

những lợi ích do hoạt động giao thơng mang lại thì hoạt động giao thông
đường bộ luôn chứa đựng mối nguy hiểm, gây thiệt hại khơng nhỏ về tài sản,
thậm chí là tính mạng con người.
Trước tình hình trên, cơng tác đảm bảo trật tự an tồn giao thơng nói
chung, trong đó có GTĐB giữ vai trò hết sức quan trọng. Trên thực tế, Nhà
nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt VPHC trong
lĩnh vực GTĐB, mà tiêu biểu nhất là Pháp lệnh xử lí VPHC năm 2002 (được
sửa đổi bổ, sung năm 2007, 2008); các nghị định về xử phạt VPHC trong lĩnh
vực GTĐB của Chính phủ như: Nghị định số 146/2007/NĐ-CP ngày
14/9/2007 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB,
Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2010 của Chính phủ quy định xử
phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB…Trong quá trình áp dụng pháp luật để xử
lí VPHC trong lĩnh vực GTĐB, các cơ quan chức năng đã đạt được nhiều kết
quả khả quan, tác động tính cực như: bảo đảm trật tự an tồn giao thơng, bảo
vệ tính mạng sức khỏe cho người dân. Tuy nhiên, tình trạng vi phạm giao
thơng vẫn thường xuyên xẩy ra. Một yêu cầu đặt ra là phải có những biện
pháp hạn chế VPHC, lập lại trật tự an tồn GTĐB. Đặc biệt trong đó việc
hồn thiện pháp luật xử lí VPHC trong lĩnh vực GTĐB là một trong những
biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng, chống
vi phạm pháp luật GTĐB nói riêng và vi phạm pháp luật nói chung vì nó là cơ
sở để tạo ra những ứng xử chuẩn mực, khuôn mẫu đúng đắn trong việc tham
gia GTĐB của người dân.

1


Thành phố Vinh (TP Vinh) là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của
tỉnh Nghệ An. Trên địa bàn có nhiều tuyến đường quốc lộ chạy qua như quốc
lộ 1A, 15A… và mạng lưới giao thông đô thị dày đặc. Do vậy cơng tác xử
phạt vi phạm hành chính trên lĩnh vực an tồn giao thơng nhằm đảm bảo an

tồn giao thơng trên địa bàn TP Vinh là địi hỏi cấp thiết đối với các cơ quan
chức năng
Là sinh viên năm cuối của Khoa Luật,Trường Đại học Vinh, qua thực
tế học tập, nghiên cứu pháp luật về xử lí VPHC trong lĩnh vực GTĐB và
nghiên cứu thực tiễn tại địa phương mình, em chọn đề tài “Pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thơng đường bộ - từ thực tiễn
địa bàn Thành phố Vinh – Nghệ An” cho khóa luận tốt nghiệp của mình để
được tìm hiểu rõ và nhận thức đầy đủ về pháp luật xử phạt VPHC trong lĩnh
vực GTĐB. Qua đó đánh giá những thành tựu, phân tích những bất cập và
nguyên nhân trên cơ sở đó mong được nói lên những suy nghĩ và góp phần
nhỏ bé của mình trong việc khắc phục những hạn chế, kiến nghị những
phương hướng và các giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật xử lí VPHC
trong lĩnh vực GTĐB ở địa bàn TP Vinh nói riêng cũng như Việt nam nói
riêng.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua đã có một số cơng trình khoa học liên quan đến đề
tài nghiên cứu của luận văn, tiêu biểu là:
Luận văn thạc sỹ luật học “Hoàn thiện các quy định pháp luật về các
biện pháp xử phạt vi phạm hành chính” của tác giả Nguyễn Trọng Bình,
Trường Đại học Luật Hà Nội (2000); Luận văn thạc sỹ luật học “Hoàn thiện
chế định thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính” của tác giả Nguyễn Thị
Thủy, Trường Đại học Luật Hà Nội (2001); Luận văn thạc sỹ luật học “Hoàn
thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính với người chưa thành niên” của
tác giả Nguyễn Ngọc Bích, Trường Đại học Luật Hà Nội (2003); Luận văn
thạc sỹ luật học “Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thơng đường bộ ở Việt Nam hiện nay - Một số vấn đề lý luận, thực tiễn và
phương hướng hoàn thiện” của tác giả Vũ Thanh Nhàn, Trường Đại học Luật

2



Hà Nội (2010) nghiên cứu thực trạng pháp luật xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thơng đường bộ ở Việt Nam từ đó đưa ra những giải pháp
hồn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
Ngồi ra, cịn có các bài viết đăng tải trên Tạp chí luật học như: “Thủ
tục xử phạt vi phạm hành chính” của tác giả Bùi Thị Đào; “Hệ thống chế tài
xử phạt vi phạm hành chính - Những bất cập, hạn chế và phương hướng hoàn
thiện” của tác giả Bùi Xuân Đức; “Một số vấn đề hoàn thiện pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính” của tác giả Lê Vương Long; “Thẩm quyền xử phạt
vi phạm hành chính - Thực trạng quy định, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn
thiện” của tác giả Trần Minh Hương...
Trong các cơng trình nghiên cứu trên đây, trên cơ sở phân tích lý luận
và thực tiễn có liên quan, các tác giả chỉ giới thiệu, phân tích, đánh giá về
pháp luật và thực tiễn hoạt động xử phạt vi phạm hành chính nói chung, vi
phạm về an tồn giao thơng trên cả nước hoặc ở một số lĩnh vực quản lý nhà
nước khác chứ chưa đề cập chuyên sâu về vấn đề xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thơng đường bộ ở một địa phương nhất định. Do vậy,
khóa luận sẽ tập trung nghiên cứu vấn đề này nhằm cung cấp các luận cứ
khoa học và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thơng đường bộ nói chung và nâng cao cơng tác xử
phạt GTĐB trên địa bàn.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
VPHC và pháp luật xử lí VPHC là những vấn đề có nội dung vơ cùng
phong phú và phức tạp, nhất là trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế như hiện nay. Trong khn khổ hạn chế của đề tài
khóa luận tốt nghiệp đại học, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề lí
luận cơ bản, thực trạng pháp luật xử lí VPHC, lấy thực tiện từ hoạt động xử
phạt vi phạm hành chính về GTĐB trên địa bàn TP Vinh – Nghệ An hiện nay,
từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.


3


4. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài “pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thơng đương bộ - từ thực tiễn địa bàn Thành Phố
Vinh – Nghệ An” là nhằm làm sáng tỏ một số vấn để lí luận, phân tích thực
trạng pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật trên địa bàn TP Vinh, từ
đó đưa ra một số phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật xử lí
VPHC trong lĩnh vực GTĐB ở TP Vinh – Nghệ An hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, khóa luận phải hồn thành các nhiệm vụ:
- Làm rõ một số vấn đề lí luận cơ bản về pháp luật xử phạt VPHC trong
lĩnh vực GTĐB như: khái niệm VPHC; đặc điểm của VPHC trong lĩnh vực
GTĐB; xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB;
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật xử phạt VPHC trong
lĩnh vực GTĐB hiện nay, những bất cập và nguyên nhân của những bất cập
đó.
- Đề xuất những kiến nghị về phương hướng và các giải pháp để nhằm
hoàn thiện pháp luật xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB ở TP Vinh – Nghệ
An hiện nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách, pháp luật của
Đảng, Nhà nước. Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê,…nhằm làm rõ nội dung và mục
đích nghiên cứu của đề tài.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài nghiên cứu nghiêm túc có hệ thống về pháp luật xử phạt VPHC
trong lĩnh vực GTĐB trên địa bàn TP Vinh – Nghệ An hiện nay. Do vậy kết
quả của việc nghiên cứu sẽ đóng góp về mặt khoa học cho cơng tác xử phạt

VPHC trong lĩnh vực GTĐB trên địa bàn.
Đề tài không những chỉ ra được bất cập, hạn chế trong quy định của
pháp luật mà cịn tìm ra được những hạn chế trong thực tiễn thực hiện pháp

4


luật, đề xuất nhiều giải pháp hồn thiện có thể góp phần nhỏ, đóng góp ý kiến
cho việc nâng cao hiêu quả cơng tác xử phạt, khắc phục và hồn thiện hệ
thống pháp luật về xử lí VPHC trong lĩnh vực GTĐB trên địa bàn TP Vinh –
Nghệ An hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Để giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra, ngoài phần mở đầu và kết
luận, nội dung của khóa luận được chia làm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận chung về pháp luật xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
Chương 2. Pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thơng đường bộ
Chương 3. Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thơng đường bộ.

5


Chương 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT XỬ PHẠT VI
PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THƠNG ĐƯỜNG BỘ

1.1. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thơng đường bộ
1.1.1. Định nghĩa vi phạm hành chính

Vi phạm hành chính xảy ra khá phổ biến trong đời sống xã hội, đặc biệt
trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh hội nhập quốc tế
như hiện nay. Với số lượng xảy ra đáng kể, mang tính thường xuyên, vi phạm
hành chính đã và đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của
Nhà nước, tập thể, lợi ích của cá nhân cũng như lợi ích chung của tồn thể
cộng đồng và là nguyên nhân làm nảy sinh tình trạng phạm tội nếu không
được ngăn chặn và xử lý kịp thời.
Xây dựng định nghĩa vi phạm hành chính có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn quan trọng. Định nghĩa này giúp chúng ta nhận thức được sự khác biệt
giữa vi phạm hành chính với các loại vi phạm pháp luật khác. Trên cơ sở đó,
có thể xác định chính xác các vi phạm hành chính cụ thể, đánh giá đúng tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi nhằm xử lý nghiêm minh,
triệt để, đúng pháp luật loại vi phạm pháp luật này.
Lý luận về nhà nước và pháp luật đã chỉ rõ vi phạm pháp luật là hành
vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật, có lỗi và chủ thể thực hiện phải có
năng lực trách nhiệm pháp lý. Vi phạm hành chính là một dạng cụ thể của vi
phạm pháp luật nên trước hết chúng mang đầy đủ các dấu hiệu cơ bản của
một vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, vi phạm hành chính cũng có những nét
đặc thù khác biệt với các loại vi phạm pháp luật khác. So với tội phạm, vi
phạm hành chính có mức độ nguy hiểm thấp hơn cho xã hội và mức độ nguy
hiểm này được đánh giá trên cơ sở tổng hợp của nhiều yếu tố như thiệt hại
gây ra, tính chất và mức độ lỗi, nhân thân người vi phạm...
Để xác định rõ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của loại vi
phạm hành chính, đặc biệt là xác định ranh giới giữa vi phạm hành chính và
tội phạm, tạo cơ sở cần thiết để quy định, xử lý cũng như đấu tranh phòng,

6


chống có hiệu quả loại vi phạm này, việc đưa ra định nghĩa vi phạm hành

chính trong pháp luật thực định thực sự cần thiết cho nhận thức pháp luật
cũng như giúp cho quá trình áp dụng pháp luật để xử lý các vi phạm hành
chính trong thực tế. Do vậy, định nghĩa về vi phạm hành chính cần phản ánh
được những dấu hiệu đặc trưng thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của
loại vi phạm này đồng thời cũng phải thể hiện được sự khác biệt giữa chúng
với tội phạm.
Vi phạm hành chính được định nghĩa lần đầu tiên trong Pháp lệnh Xử
phạt vi phạm hành chính năm 1989, theo đó “vi phạm hành chính là hành vi
do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc
quản lý nhà nước mà khơng phải là tội phạm hình sự và theo quy định của
pháp luật phải bị xử lý hành chính”. Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính
năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) các nhà làm luật không trực tiếp đưa
ra định nghĩa về vi phạm hành chính mà chỉ gián tiếp nêu ra thơng qua quy
định về xử phạt vi phạm hành chính.
Tuy có sự khác nhau về cách diễn đạt, các quan niệm về vi phạm hành
chính nêu trên đều thống nhất về những dấu hiệu bản chất của loại vi phạm
pháp luật này [12, tr301]. Những dấu hiệu bản chất này giúp chúng ta đưa ra
định nghĩa chung về vi phạm hành chính, theo đó, vi phạm hành chính là
hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước của cá nhân, tổ chức, có lỗi,
khơng phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi
phạm hành chính.
Trên cơ sở của định nghĩa chung về vi phạm hành chính nêu trên, có
thể định nghĩa vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATGT là hành vi vi phạm
pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực an tồn giao thơng của cá
nhân, tổ chức, có lỗi, không phải là tội phạm và theo quy định của pháp
luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
* Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính
Cũng giống như mọi vi phạm pháp luật khác, vi phạm hành chính được
cấu thành bởi bốn yếu tố, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan và khách
thể.


7


+ Mặt khách quan
Mặt khách quan của vi phạm hành chính là tổng hợp các dấu hiệu bên
ngồi của vi phạm hành chính, bao gồm hành vi trái pháp luật, hậu quả và mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả cùng một số dấu hiệu khác như
công cụ, phương tiện, thời gian, địa điểm vi phạm.
+ Mặt chủ quan
Mặt chủ quan của vi phạm hành chính là dấu hiệu bên trong của vi
phạm hành chính, bao gồm các yếu tố lỗi, mục đích và động cơ, trong đó, lỗi
là dấu hiệu cơ bản trong cấu thành của mọi loại vi phạm hành chính. Lỗi là
thái độ tâm lý của người vi phạm, biểu hiện thái độ của người đó đối với hành
vi vi phạm pháp luật của mình và được phân chia thành hai hình thức, lỗi cố ý
và lỗi vô ý.
+ Khách thể
Khách thể của vi phạm hành chính là những quan hệ xã hội được pháp
luật hành chính bảo vệ và bị các vi phạm hành chính xâm hại. Vi phạm hành
chính là đã xâm hại đến trật tự quản lý hành chính nhà nước được pháp luật
hành chính bảo vệ. Vì vậy, khách thể của vi phạm hành chính là trật tự quản
lý nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như trật tự an
tồn giao thơng, an ninh trật tự, an toàn xã hội, trật tự quản lý nhà nước trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường… được pháp luật quy định và bảo vệ.
+ Chủ thể
Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính là các tổ chức, cá nhân
có năng lực chịu trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật hành
chính.
Cá nhân là chủ thể vi phạm hành chính bao gồm cơng dân Việt Nam và
người nước ngoài (trừ những người được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại

giao và lãnh sự) mà thực hiện hành vi vi phạm hành chính trên lãnh thổ Việt
Nam, vùng đặc quyền kinh tế, vùng tiếp giáp lãnh hải. Những người này phải
có năng lực trách nhiệm hành chính (tức là khơng mắc các bệnh tâm thần
hoặc các bệnh khác đến mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình) và đạt độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật

8


(từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hành chính về mọi hành vi vi
phạm hành chính, từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm
hành chính đối với hành vi vi phạm do cố ý).
Chủ thể vi phạm hành chính là tổ chức bao gồm: các cơ quan nhà nước,
tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân
dân và các tổ chức khác có tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật.
Cá nhân, tổ chức nước ngoài cũng là chủ thể vi phạm hành chính theo
quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt
Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
1.1.2. Đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thơng
đường bộ
VPHC trong lĩnh vực GTĐB cũng là một lọai VPHC bên cạnh những
đặc điểm chung của một VPHC nói chung, thì VPHC trong lĩnh vực GTĐB
mang những đặc tính riêng, những dấu hiệu đặc thù của VPHC trong lĩnh vực
GTĐB.
+ VPHC trong lĩnh vực GTĐB là một lĩnh vực cụ thể trong quản lí Nhà
nước. Vì vậy VPHC trong lĩnh vực GTĐB không chỉ chịu sự điều chỉnh của
Pháp lệnh xử lí VPHC năm 2002 (sửa đổi bổ sung năm 2007, 2008) mà cịn
có hệ thống các văn bản điều chỉnh riêng về xử phạt VPHC trong lĩnh vực
GTĐB như: Nghị định 146/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt
VPHC trong lĩnh vực GTĐB; Nghị định 34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2010 của

Chính phủ quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB… và nhiều văn
bản luật khác có đối tượng điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh, phương pháp điều
chỉnh riêng về VPHC trong lĩnh vực GTĐB. Những văn bản được ban hành
nhằm đáp ứng nhu cầu quản lí của Nhà nước trong lĩnh vực GTĐB.
+ Chủ thể của VPHC trong lĩnh vực GTĐB là cá nhân, tổ chức có năng
lực chịu trách nhiệm hành chính, thực hiện hành vi VPHC trong lĩnh vực
GTĐB theo quy định của pháp luật GTĐB. Cá nhân, tổ chức chỉ được xem là
có hành vi VPHC trong lĩnh vực GTĐB khi thực hiện các hành vi thuộc sáu
nhóm hành vi vi phạm sau [21, khoản 2 Điều 1]: vi phạm quy tắc GTĐB; vi
phạm quy định về kết cấu hạ tầng GTĐB; vi phạm quy định về phương tiện

9


tham gia GTĐB; vi phạm quy định về người điều khiển phương tiện tham gia
GTĐB; vi phạm quy định về vận tải đường bộ; các vi phạm khác liên quan
đến GTĐB. Đó là những nhóm hành vi vi phạm được pháp luật GTĐB điều
chỉnh và bị xử phạt VPHC khi các hành vi xẩy ra.
+ VPHC trong lĩnh vực GTĐB được thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý
VPHC trong lĩnh vực GTĐB phải là hành vi vi phạm có lỗi thể hiện dưới hình
thức cố ý hoặc vơ ý. Nói cách khác, người thực hiện hành vi này phải trong
trạng thái có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình nhưng đã
vơ tình thiếu thận trọng mà không nhận thức được hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội (lỗi vơ ý) hoặc nhận thức được điều đó nhưng vẫn cố tình
thực hiện lỗi (lỗi cố ý). Vấn đề xác định một hành vi vi phạm trong lĩnh vực
GTĐB có phải bị xử phạt VPHC hay khơng thì cần phải xác định dấu hiệu lỗi
trong vi phạm xẩy ra. Nếu hành vi trái pháp luật được thực hiện một cách
khơng có lỗi thì hành vi đó khơng được coi là VPHC trong lĩnh vực GTĐB và
cũng không bị áp dụng các biện pháp áp dụng các biện pháp xử phạt hành
chính trong lĩnh vực GTĐB đối với cá nhân, tổ chức.

1.2 Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thơng đường bộ
1.2.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính
Trong xử lí VPHC thì biện pháp xử phạt có ý nghĩa vơ cùng quan
trọng, bởi lẽ xử phạt hành chính là biện pháp cơ bản, mang tính đặc trưng và
phổ biến của Nhà nước áp dụng cho loại vi phạm pháp luật này. Thông qua
việc xử phạt VPHC Nhà nước đảm bảo được trật tự, kỹ cương trong quản lí
hành chính Nhà nước [24, Mục I]; quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức, cộng đồng; ngặn chặn sự tái diễn của VPHC. Hoạt động xử phạt VPHC
phải tuân theo các nguyên tắc do pháp luật quy định [ 8, Điều 3]. Đó là sáu
nguyên tắc sau:
+ Một là: mọi VPHC phải được phát hiện kịp thời và bị đình chỉ ngay.
Việc xử lí phải được tiến hành nhanh chóng, cơng minh triệt để; mọi hậu quả
do VPHC gây ra phải được khắc phục theo đúng pháp luật;

10


+ Hai là: Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt hành chính khi có hành vi
VPHC do pháp luật quy định;
+ Ba là: Việc xử phạt VPHC phải do người có thẩm quyền tiến hành
theo đúng quy định của pháp luật;
+ Bốn là: Mỗi hành vi VPHC chỉ bị xử phạt một lần. Nhiều người cùng
thực hiện một hành vi VPHC thì mỗi người đều bị xử phạt hành chính. Một
người thực hiện nhiều hành vi VPHC thì bị xử về từng hành vi VPHC
+ Năm là: Việc xử phạt VPHC phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi
phạm và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng để quyết định hình thức, biện
pháp xử lí thích hợp;
+ Sáu là: Không xử phạt VPHC đối với trường hợp thuộc tình thế cấp
thiết, phịng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ hoặc VPHC trong khi đang mắc
bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng

điều khiển hành vi của mình.
Xử phạt VPHC bao gồm các hình thức xử phạt chính và các hình thức
xử phạt bổ sung. Cá nhân, tổ chức đối với mỗi VPHC phải chịu một hình thức
phạt chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền, riêng đối với người nước ngồi có thể
bị xử phạt trục xuất trong hai trường hợp như là hình thức phạt chính và hình
phạt bổ sung. Ngồi các hình thức xử phạt chính và bổ sung như trên, cá nhân
tổ chức vi phạm cịn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục
hậu quả vi phạm như buộc khắc phục tình trạng ơ nhiễm môi trường, lây lan
dịch bệnh do VPHC gây ra.
Trong quản lí Nhà nước về GTĐB, xử phạt VPHC là hoạt động quản lí
của Nhà nước nhằm giải quyết các vụ việc vi phạm pháp luật GTĐB, cụ thể là
những VPHC của các đối tượng là cá nhân, tổ chức thực hiện trên phạm vi
lãnh thổ Việt Nam trong lĩnh vực GTĐB. Người chưa thành niên thực hiện
hành vi VPHC trong lĩnh vực GTĐB thì bị xử lí theo quy định chung tại Điều
7 Pháp lệnh xử lí VPHC [21 , Điều 2]. Có thể thấy VPHC và xử lí VPHC
trong lĩnh vực GTĐB liên quan đến hai loại hoạt động của Nhà nước thống
nhất với nhau là hoạt động lập pháp và hoạt động áp dụng pháp luật (thuộc

11


nội dung hoạt động quản lí Nhà nước – hành pháp). Kết quả hoạt động lập
pháp tạo cơ sở (căn cứ) cho hoạt động áp dụng pháp luật (ở đây là xử lí
VPHC). Ngược lại, hoạt động áp dụng pháp luật có chức năng hiện thực hóa
kết quả của hoạt động lập pháp, làm cho pháp luật có hiệu lực và giá trị trên
thực tế đời sống xã hội.
1.2.3. Đặc thù của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ.
Thứ nhất, Với đặc thù là một hệ thống văn bản pháp luật trong hệ thống
pháp luật Việt nam nên chịu sự quản lí của nhà nước. Vì vậy pháp luật xử lí

VPHC trong lĩnh vực GTĐB vừa mang tính đặc thù của pháp luật xử lí VPHC
nói chung vừa mang những đặc thù ở lĩnh vực quản lý Nhà nước. Nói cách
khác, xử phạt VPHC trong hệ thống GTĐB không phải là một hệ thống quy
tắc riêng, hồn tồn biệt lập mà nó là tổng thể thống nhất giữa các quy phạm
chung và quy phạm riêng về các VPHC trong lĩnh vực GTĐB. Vì vậy nói đến
xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB bao gồm các quy phạm phần chung và
các quy phạm cụ thể áp dụng riêng đối với lĩnh vực GTĐB.
Xử phạt VPHC nói chung và xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB nói
riêng do các chủ thể có thẩm quyền ban hành, như: Quốc hội, Ủy ban thường
vụ Quốc hội, Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ. Ví dụ: Quốc hội ban hành
Luật GTĐB để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hoạt động GTĐB trong đó
quy định các quy tắc GTĐB; kết cấu hạ tầng GTĐB; phương tiện và người
tham gia GTĐB;... Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh xử lí
VPHC năm 2002 (đã được sửa đổi bổ sung một số điều năm 2007, 2008).
Pháp lệnh là cơ sở cho việc quy định chi tiết cụ thể hóa đối việc xử lí VPHC ở
mỗi lĩnh vực chuyên ngành quản lí nhà nước, trong đó có GTĐB.
Thứ hai, Nhìn tổng thể, xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB có một
số đặc thù riêng theo yêu cầu của quản lí Nhà nước trong việc đấu tranh
chống và phòng ngừa VPHC trong lĩnh vực này.
+ Ngồi hình thức cảnh cáo, phạt tiền, các hình thức phạt bổ sung và
biện pháp khắc phục hậu quả VPHC theo quy định chung, các hình thức phạt

12


bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả VPHC trong lĩnh vực GTĐB đều có
nét đặc thù riêng. Chẳng hạn, các hình thức phạt bổ sung như tịch thu còi, cờ,
đèn sử dụng trái quy định; tước quyền sử dụng giấy phép lái xe có thời hạn,
khơng thời hạn; tước quyền sử dụng chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật
về GTĐB; tịch thu giấy phép lái xe không do cơ quan có thầm quyền cấp,

giấy phép lái xe bị tẩy xóa; tịch thu phương tiện tham gia GTĐB; đình chỉ
hoạt động buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam…Các biện pháp khắc phục hậu
quả như buộc phải dỡ phần hàng hóa vượt quá giới hạn hoặc phải xếp lại hàng
hóa theo đúng quy định; buộc phải tháo dỡ cơng trình trái phép, tháo dỡ dây,
các vật cản; thu dọn vật liệu, rác thải, đồ vật chiếm dụng mặt đường; thu dọn
đinh vật sắc nhọn và khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do VPHC
gây ra… Bên cạnh việc áp dụng hình thức xử phạt chính, việc áp dụng các
hình phạt bổ sung cũng như biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm nêu trên
đối với cá nhân, tổ chức VPHC tùy theo tính chất, mức độ vi phạm thể hiện rõ
những đặc điểm riêng của hoạt động xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB
theo u cầu của quản lí Nhà nước và cơng cuộc đấu tranh chống, khắc phục
hậu quả, phòng ngừa VPHC trong lĩnh vưc GTĐB ở nước ta hiện nay.
+ Về thầm quyền xử phạt: Trước hết cần xác định các chủ thể có thẩm
quyền xử phạt VPHC, tức là những chức danh, cơ quan có thẩm quyền áp
dụng các quy định của pháp luật về hình thức xử phạt, mức phạt và các biện
pháp khắc phục hậu quả VPHC. Vấn đề đặt ra tiếp theo là phân định thẩm
quyền xử phạt giữa các cơ quan, người có thẩm quyền theo phạm vi lãnh thổ
và loại vụ việc VPHC đồng thời xác định cụ thể thẩm quyền áp dụng hình
thức xử phạt, mức phạt của từng cơ quan, chức danh. Theo đó, Chủ tịch ủy
ban nhân dân các cấp, trưởng công an các cấp (trừ cơng an viên các xã) có
thẩm quyền xử phạt đối với các VPHC trong lĩnh vực GTĐB xẩy ra trong
phạm vi quản lí của địa phương mình. Đối với các VPHC trong lĩnh vực
GTĐB của người và phương tiện tham gia giao thơng trên đường bộ thì cảnh
sát giao thơng có thẩm quyền xử phạt. Đối với một số loại VPHC khác trong
lĩnh vực GTĐB, thẩm quyền xử phạt thuộc về các lực lượng và chức danh
theo quy định cụ thể của pháp luật như cảnh sát trật tự, cảnh sát phản ứng

13



nhanh, cảnh sát cơ động, cảnh sát quản lý hành chính về thật tự xã hội, trưởng
cơng an cấp xã; Thanh tra đường bộ. Thẩm quyền xử phạt VPHC (vể hình
thức phạt, mức phạt) trong lĩnh vực GTĐB cũng được phân định rõ cho
Chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp (từ cấp xã đến cấp tỉnh); lực lượng công
an nhân dân (chiến sĩ công an nhân dân đang thi hành công vụ; đội trưởng,
trạm trưởng; trưởng công an cấp xã, trưởng cơng an cấp huyện; trưởng
phịng cảnh sát giao thơng, trưởng phịng cảnh sát trật tự, trưởng phịng
cảnh sát quản lý hành chính về thật tự xã hội thuộc công an tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương; thủ trưởng đơn vị cảnh sát cơ động từ cấp đại đội
trở lên; giám đốc công an cấp tỉnh; Cục trưởng Cục cảnh sát GTĐB và
đường sắt, Cục trưởng Cục cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội);
thanh tra đường bộ (thanh tra viên đang thi hành công vụ; Chánh thanh tra
sở giao thông vận tải, Chánh thanh tra Tổng cục đường bộ Việt Nam;
Chánh thanh tra Bộ giao thông vận tải).
+ Về thủ tục xử phạt VPHC: Trong lĩnh vực GTĐB, việc xử lý các
VPHC cũng phải tuân theo quy định chung gồm thủ tục ra quyết định xử phạt
tại chỗ, thủ tục lập biên bản VPHC, ra quyết định xử phạt VPHC, thủ tục thi
hành quyết định xử phạt VPHC; thời hiệu, thời hạn xử phạt VPHC. Ngồi ra,
những yếu tố có tính đặc thù của VPHC ở lĩnh vực GTĐB cũng được tính đến
khi xác định thủ tục xử phạt VPHC ở lĩnh vực này. Đó là các yếu tố như chủ
phương tiện vi phạm quy định liên quan đến GTĐB có mặt hay khơng có mặt
tại nơi xẩy ra hành vi vi phạm; giấy tờ, phương tiện của người điều khiển
phương tiện vi phạm bị tạm giữ; VPHC bị phát hiện từ việc sử dụng các
phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ (ghi lại hình ảnh phương tiện và biển
số đăng ký của phương tiện vi phạm).
Việc nhận thức đúng những đặc thù của xử phạt VPHC trong lĩnh vực
GTĐB được thể hiện qua các quy định về hành vi vi phạm, hình thức xử phạt
chính, bổ sung; các biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm; thẩm quyền xử
phạt, thủ tục xử phạt;... có ý nghĩa định hướng cho hoạt động xây dựng hoàn
thiện việc xử phạt VPHC được đúng đắn, phù hợp với yêu cầu quản lí Nhà

nước trong lĩnh vực GTĐB.

14


1.2.4. Yêu cầu đối với pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thơng đường bộ
Do yều cầu của cơng tác đấu tranh, phịng chống các loại VPHC trong
lĩnh vực GTĐB và đảm bảo trật tự an toàn xã hội, pháp luật về xử phạt VPHC
trong lĩnh vực GTĐB phải được thực hiện trên các cơ sở một số yêu cầu sau:
* Yêu cầu đối với việc tạo khung pháp luật cho hoạt động quản lí Nhà
nước trong lĩnh vực GTĐB
Trong quản lí xã hội của Nhà nước, pháp luật giữ vai trị rất quan trọng,
nó là phương tiện không thể thiếu bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành của xã
hội. Pháp luật là cơ sở để thiết lập, cũng cố và tăng cường quyền lực Nhà
nước, là phương tiện để Nhà nước quản lí mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội.
Pháp luật góp phần tạo dựng những quan hệ mới và tạo môi trường ổn định
cho việc thiết lập các mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia. Là một bộ
phận của pháp luật nói chung, pháp luật xử lí VPHC trong lĩnh vực GTĐB
cũng phải đảm bảo yêu câù của pháp luật nhằm tham gia hoạt động quản lí
chung của Nhà nước, góp phần ổn định, xác lập trật tự xã hội.
Trước hết, pháp luật xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB là cơ sở để
thiết lập, cũng cố và tăng cường quyền lực Nhà nước, là phương tiện điều
chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực GTĐB. Pháp luật xử phạt VPHC
trong lĩnh vực GTĐB được Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện dựa trên
các điều kiện kinh tế - xã hội khách quan. Nguyên tắc của Nhà nước pháp
quyền là cơ quan, cán bộ công chức Nhà nước chỉ được làm những gì mà
pháp luật cho phép. Do vậy để quản lí xã hội, cần phải tạo khung pháp luật
trong đó cần xác định rõ phạm vi hợp pháp của hoạt động Nhà nước. Đối với
hoạt động xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB cũng vậy, cán bộ cơng chức,

người có thẩm quyền chỉ được xử phạt theo trình tự, thủ tục quy định để
khơng xâm phạm các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Pháp luật xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB cũng là phương tiện để
Nhà nước hình thành và định hướng các hành vi ứng xử của người tham gia
GTĐB, việc bảo đảm an toàn GTĐB; thủ tục, quy trình xử phạt người VPHC

15


trong lĩnh vực GTĐB. Để quản lí lĩnh vực GTĐB, Nhà nước cần thực hiện
nhiều biện pháp như ban hành chính sách, pháp luật, đề ra các kế hoạch, quy
hoạch phát triển mang tính định hướng, xây dựng cơ sở hạ tầng…nhưng pháp
luật là phương tiện có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Pháp luật về GTĐB phải
được thể chế hóa bằng các chính sách về xây dựng cơ sở hạ tầng, văn hóa
giao thơng…thành những quy định có hiệu lực bắt buộc mọi người tuân theo.
Với điều kiện kinh tế - xã hội cịn nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng giao thơng
cịn yếu kém, ý thức pháp luật cịn thấp thì pháp luật xử phạt VPHC trong lĩnh
vực GTĐB là một yêu cầu đặt ra không thể thiếu trong việc ngăn ngừa, trừng
trị kịp thời các hành vi vi phạm, bảo vệ các quan hệ xã hội đúng đắn trong
GTĐB. Góp phần phần hình thành ứng xử văn hóa, văn minh của người dân
trong GTĐB. Bằng việc đặt ra các quy định về hành vi vi phạm có thể bị xử
phạt, pháp luật xử phạt VPHC giúp cho cá nhân, tổ chức có thể xây dựng
những hành vi đúng để không bị xử phạt nhằm bảo đảm GTĐB thơng suốt,
trật tự, an tồn, hiệu quả, góp phần phát triễn kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc
phòng, an ninh và bảo vệ môi trường.
* Yêu cầu phải đảm bảo các quyền của cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực
GTĐB
Hoạt động xử phạt VPHC liên quan trực tiếp đến các quyền con người,
quyền công dân. Việt nam đang đẩy mạnh cơng tác cải cách hành chính, xây
dựng Nhà nước pháp quyền, pháp luật xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB

khơng những phải tạo cơ sở pháp lí vững chắc để nâng cao hiệu quả quản lí
Nhà nước ở lĩnh vực này mà cịn phải đảm bảo tơn trọng các quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động liên quan đến lĩnh vực
GTĐB. Do vây, pháp luật xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB còn phải là
công cụ để cá nhân, tổ chức bảo vệ quyền và bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp chính đáng của mình. Căn cứ vào quy định của pháp luật, người dân
nhận thấy được quyền và nghĩa vụ của mình đến đâu, thẩm quyền của cơ quan
Nhà nước thế nào để chấp hành, thực hiện cho đúng và có thể tự bảo vệ mình
trước hành vi vi phạm từ mọi phía, kể cả cán bộ cơng chức, cơ quan có thẩm
quyền.

16


Liên quan đến lĩnh vực hoạt động GTĐB có nhiều quyền, lơi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức cần được pháp luật bảo đảm. Đó là các quyền tự
do đi lại, tham gia giao thông, quyền tự do kinh doanh (vận tải hành khách,
hàng hóa…) và các quyền tự do khác. Việc đặt ra yêu cầu cho người thi hành
pháp luật phải thực hiện đúng nội dung các quy định, giới hạn, thẩm quyền,
phạm vi mà pháp luật đã định ra là nghĩa vụ của cơ quan, người có thẩm
quyền nhưng đó cũng chính là quyền u cầu của cá nhân, tổ chức tham gia
hoạt động GTĐB. Yêu cầu đặt ra ở đây là hiệu lực quản lí Nhà nước phải
được đảm bảo, các VPHC được ngăn chặn, xử lí kịp thời, nghiêm minh, trật
tự, an tồn giao thơng được duy trì nhưng đồng thời các quyền, lợi ích của cá
nhân, tổ chức cũng phải được bảo đảm, không vì việc xử phạt mà xâm phạm
các quyền con người, quyền công dân. Pháp luật xử phạt VPHC phải đảm bảo
kết hợp hài hịa các quyền và lợi ích của Nhà nước, cộng đồng, cá nhân, tổ
chức, qua đó nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung cũng như
trong lĩnh vực GTĐB nói riêng.


17


Chương 2
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC
GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
2.1. Thực trạng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thơng đường bộ
2.1.1 Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
Hiện nay, các hành vi VPHC trong lĩnh vực GTĐB được quy định
trong Nghị định số 34 gồm sáu nhóm hành vi vi phạm là [21]:
- Vi phạm quy tắc giao thông:
Các quy tắc GTĐB bao gồm tổng thể các quy tắc chung và các quy
tắc về hệ thống báo hiệu đường bộ, chấp hành hệ thống báo hiệu đường bộ;
tốc độ; sử dụng làn đường; vượt xe; chuyển hướng xe; lùi xe; tránh xe đi
ngược chiều; dừng, đỗ trên đường bộ; dừng, đỗ trên đường phố; xếp hàng
hóa trên phương tiện GTĐB; Quyền ưu tiên của một số loại xe; qua phà,
qua cầu phao;...sử dụng đường phố và các hoạt động khác trên đường
phố...[5, chương II]
- Vi phạm về kết cấu hạ tầng GTĐB:
Quy định về kết cấu hạ tầng GTĐB gồm các quy định về phân loại
đường bộ; đặt tên, số hiệu đường bộ; tiêu chuẩn kĩ thuật đường bộ; quỹ đất
giành cho kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; pham vi đất giành cho đường
bộ; bến xe, bãi đỗ xe, trạm dừng nghĩ, trạm kiễm tra trọng tải xe, trạm thu phí
đường bộ;… bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ [5, chương III]
- Vi phạm quy định về phương tiện tham gia GTĐB:
Các quy định về phương tiện tham gia GTĐB bao gồm: Điều kiện tham
gia giao thông của xe cơ giới; cấp, thu hồi đăng kí và biển số xe cơ giới; điểu
khiển tham gia giao thông của xe thô sơ; điều kiện tham gia giao thông của xe

máy chuyên dùng [5, chương IV]
- Vi phạm quy định về người điều kiển phương tiện tham gia GTĐB:

18


Các quy định của pháp luật về người điều khiển phương tiện tham gia
giao thông bao gồm các quy định về điều kiện của người lái xe tham gia giao
thông; giấy phép lái xe; tuổi, sức khỏe của người lái xe; đào tạo lái xe, sát
hạch để cấp giấy phép lái xe; điều kiện của người điều khiển xe máy chuyên
dùng tham gia giao thông; điều kiện của người điều khiển xe thô sơ tham gia
giao thông [5, chương V]
- Vi phạm quy định về vận tải đường bộ:
Các quy định của pháp luật về vận tải đường bộ bao gồm các quy định
về hoạt động vận tải đường bộ và hoạt động hỗ trợ đường bộ. Hoạt động kinh
doanh vận tải đường bộ phải tuân theo các quy định chung và quy định về
thời gian làm việc của người lái xe ô tô; điều kiện kinh doanh vận tải bằng ô
tô; vận tải hành khách bằng ô tô, nghĩa vụ của người kinh doanh vận tải hành
khách bằng ô tơ; vận chuyển hành khách, hàng hóa bằng xe thơ sơ, xe gắn
máy, xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh và các loại xe tương tự; vận tải đa
phương thức [5, chương VI]
- Vi phạm khác liên khác liên quan đến GTĐB:
Những VPHC này trái với quy định của pháp luật có liên quan đến
GTĐB hoặc xâm phạm các điều cấm của pháp luật GTĐB. Đó là các hành vi
như sản xuất, lắp ráp trái phép phương tiện giao thông cơ giới đường bộ; vi
phạm quy định về đào tạo, sát hạch lái xe…vi phạm quy định về hoạt động
kiểm định an toàn kĩ thuật và bảo vệ mơi trường xe cơ giới [21, Điều 32- 42]
Có thể nói căn cứ vào Luật GTĐB năm 2008, Nghị định số 34 khắc
phục những bất cập của Nghị định 146 đã liệt kê tương đối đầy đủ các
hành vi VPHC trong lĩnh vực GTĐB. Những quy định về hành vi VPHC

trong lĩnh vực GTĐB được áp dụng và phát huy hiệu quả trên thực tế. Tuy
nhiên, quy định của Nghị định số 34 về xử phạt VPHC trong lĩnh vực
GTĐB vẫn chưa phản ánh được tình hình phát triển của xã hội hiện nay.
Đặc biệt là các hành vi vi phạm về GTĐB ngày càng diễn ra phức tạp, khó
có thể kiểm sốt hết được.

19


2.1.2 Hình thức xử phạt
Theo quy định của điều 5, Nghị định số 34 và điều 12 Pháp lệnh xử lí
VPHC năm 2002 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2008), thì trong
lĩnh vực GTĐB có các hình thức xử phạt sau:

 Hình thức xử phạt chính: cảnh cáo, phạt tiền
- Cảnh cáo: được áp dụng đối với cá nlhân, tổ chức VPHC nhỏ, lần đầu,
có tình tiết giảm nhẹ hoặc đối với mọi hành vi VPHC do người chưa thành
niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo được quyết định bằng
văn bản.
- Hình thức phạt tiền:
Trong lĩnh vực GTĐB, phạt tiền được áp dụng với mức thấp nhất là
40.000 đồng, mức cao nhất là 40.000.000 đồng. Khắc phục những bất cập của
Nghị định 146, Nghị định 34 đã quy định mức phạt tương đối cao và phù hợp
với thực tại.

 Các hình thức phạt bổ sung
+ Tước quyền sử dụng giấy phép lái xe, chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức
pháp luật về GTĐB có thời hạn hoặc khơng thời hạn: Hình thức này được áp
dụng đối với người điều khiển phương tiện cơ giới, xe máy chuyên dùng tham
gia giao thông vi phạm nghiêm trọng các quy định của luật GTĐB.

+ Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để VPHC: là việc sung
vào quỹ Nhà nước vật, tiền, hàng hóa, phương tiện có liên quan trực tiếp đến
VPHC. Khơng tịch thu tang vật, phương tiện bị cá nhân, tổ chức VPHC chiếm
đoạt, sử dụng trái phép mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lí, người sử
dụng hợp pháp.

 Các biện pháp khắc phục hậu quả khác
- Buộc khơi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do VPHC gây ra
hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép;
- Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ơ nhiễm mơi
trường, lây lan dịch bệnh do VPHC gây ra;

20


×