TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 2012-2014
ĐỀ TÀI
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT
VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Lan Hƣơng
Nguyễn Tiến Sang
Bộ môn: Luật hành chính
MSSV: S120071
Lớp: DT1263B1
Cần Thơ, 11/2014
LỜI CẢM ƠN
Được trúng tuyển vào Trường Đại học Cần Thơ là một niềm vinh dự và tự hào cho
em, trong những năm theo học dưới giảng đường Đại học, nhờ sự truyền đạt tận tình của
các Thầy Cô trường Đại học Cần Thơ, nhất là các Thầy Cô Khoa Luật, em đã tiếp thu
được nhiều kiến thức về ngành nghề mà em theo học. Với kiến thức đó sẽ là nền tảng để
em vững bước vào tương lai, theo đuổi công việc mà em mơ ước.
Em xin chân thành cám ơn các quý Thầy Cô đã truyền đạt các kiến thức quý báu
cho em trong suốt thời gian học tập. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn Cô Nguyễn Lan
Hƣơng người đã dẫn dắt hướng dẫn em tận tình để em hoàn thành tốt Luận văn tốt
nghiệp.
Tiếp đến em xin chân thành cảm ơn bạn bè, các anh, chị Chấp hành viên Chi cục
thi hành án dân sự huyện Tháp Mười đã giúp đỡ em hoàn thành tốt Luận văn tốt nghiệp.
Cuối cùng, em xin kính chúc quý Thầy, Cô nhiều sức khỏe và ngày càng thành
công với sự nhiệp vĩ đại - sự nghiệp trồng người.
Cần Thơ, ngày 17 tháng 11 năm 2014
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Tiến Sang
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
---------------------------...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
Cần Thơ, ngày … tháng … năm …..
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................. 2
3. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 2
5. Kết cấu đề tài ......................................................................................................... 2
CHƢƠNG 1............................................................................................................... 3
LÝ LUẬN CHUNG VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH
VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ............................................................................... 3
1.1. Một số khái niệm liên quan đến xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi
hành án dân sự ...................................................................................................................... 3
1.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính. ........................................................................ 3
1.1.2. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính ............................................................ 6
1.1.3. Khái niệm về thi hành án dân sự....................................................................... 7
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi
hành án dân sự ...................................................................................................................... 9
1.2.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự ...... 9
1.2.2. Đặc điểm của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự ...
......................................................................................................................... 10
1.2.3. Vai trò của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự. .. 11
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của chế định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực thi hành án dân sự ................................................................................................. 12
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 1995 ............................................................ 12
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2002 ............................................................ 12
1.3.3. Giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2008 ............................................................ 12
1.3.4. Giai đoạn từ năm 2009 cho đến hiện nay ....................................................... 13
CHƢƠNG 2............................................................................................................. 15
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH
CHÍNH TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ................................... 15
2.1. Đối tượng bị xử phạt hành chính và nguyên tắc xử phạt hành chính trong lĩnh
vực thi hành án dân sự ........................................................................................................ 15
2.1.1. Đối tượng bị xử phạt hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự ............... 15
2.1.2. Nguyên tắc xử phạt trong lĩnh vực thi hành án dân sự .................................... 15
2.2. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính và thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự........................................................... 17
2.2.1. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính ........................................................... 17
2.2.2. Thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính ............................ 18
2.3. Trường hợp không xử phạt vi phạm hành chính và những quy định của pháp luật
về hành vi vi phạm hành chính và hình thức xử phạt trong lĩnh vực thi hành án dân sự ... 18
2.3.1. Những trường hợp không xử phạt vi phạm hành chính .................................. 18
2.3.2. Những quy định của pháp luật về hành vi vi phạm hành chính và hình thức xử
phạt……… ......................................................................................................................... 18
2.4. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự ..... 20
2.4.1. Thẩm quyền của Cơ quan thi hành án dân sự ................................................. 21
2.4.2. Thẩm quyền của Thanh tra Bộ tư pháp........................................................... 21
2.5. Thủ tục xử phạt và những quy định về thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự ............................................................................. 22
2.5.1. Thủ tục xử phạt ................................................................................................ 22
2.5.2.Những quy định của pháp luật về thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự ............................................................................. 24
2.6. Cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính ............................. 27
CHƢƠNG 3............................................................................................................. 29
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT
VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ... 29
3.1. Thực trạng và bất cập của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực thi hành án dân sự. ....................................................................................................... 29
3.1.1.Về khó khăn trong việc thực hiện xử phạt đối với các đối tượng phải thi hành
án mà không có khả năng thi hành và chống đối việc thi hành. ......................................... 29
3.1.2.Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
............................................................................................................................. 30
3.1.3.Quy định về mức phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
............................................................................................................................. 32
3.1.4.Về các văn bản quy định của pháp luật có liên quan đến lĩnh vực xử phạt vi
phạm hành chính trong thi hành án dân sự ......................................................................... 32
3.2. Giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành trong lĩnh vực
thi hành án dân sự. .............................................................................................................. 33
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 35
Đề tài: Quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình
thức xử phạt đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định
của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, xử phạt
vi phạm hành chính là một trong những chế định quan trọng của pháp luật nhằm đấu tranh
phòng và chống các hành vi vi phạm hành chính, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội,
góp phần đưa các Bản án, Quyết định có hiệu lực của tòa án được thực thi trên thực tế,
nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Tuy nhiên, trên thực tế việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án
dân sự vẫn chưa thực sự đi vào đời sống xã hội, chưa đáp ứng được mục tiêu đặt ra là răn
đe, phòng ngừa vi phạm để từ đó nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước. Cho đến nay, số
lượng chấp hành viên, thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự của các địa phương thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
chưa nhiều; cơ quan thanh tra chuyên ngành tư pháp còn rất ít khi thực hiện những thẩm
quyền đó. Vì theo kết quả thống kê về xử phạt vi phạm hành chính của toàn ngành thi
hành án dân sự trong các năm 2010, 2011 và 2012 như sau1:
Năm 2010 có 43 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã ban hành với tổng số
tiền xử phạt là 5.200.000 đồng.
Năm 2011 có 61 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã ban hành với tổng số
tiền xử phạt là 10.450.000 đồng.
Năm 2012 có 90 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã ban hành với tổng số
tiền xử phạt là 13.700.000 đồng.
Thực tiễn, khi phát hiện hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân
sự, một số người có thẩm quyền còn nhiều lúng túng khi áp dụng các quy định của pháp
luật để xử phạt. Trong khi đó, ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận những người
phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong lĩnh vực thi hành án dân
sự còn chưa cao; tại nhiều địa phương, đã để xảy ra tình trạng người phải thi hành án
chống đối cơ quan thi hành án bằng nhiều hình thức như phân tán hoặc làm hư hỏng tài
sản thuộc diện kê biên để không thực hiện nghĩa vụ thi hành án, thậm chí là phá huỷ niêm
phong, huỷ hoại tài sản đã kê biên..... Điển hình như việc người phải thi hành án là bà
N.T.B.B, ở xã Mỹ An, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp, khi cơ quan thi hành án tiến
1
Nguyễn Thắng Lợi – phó Chánh Thanh tra Bộ tư pháp, bài viết đăng trên trang thông tin điện tử của
Bộ tư pháp ngày 11/6/2014.
1
Đề tài: Quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
hành làm thủ tục cưỡng chế chặt một cây xoài nhưng người phải thi hành án lại chống đối
bằng cách trèo lên trên cây, khi đó lực lượng chấp hành viên, cũng như lực lượng công
an, Viện kiểm sát tham gia việc trên chỉ biết ngồi đợi khi nào người trên cây xuống hết thì
mới tiến hành cưa cây được hoặc lập biên bản sự việc xảy ra mà không ra quyết định xử
phạt vi phạm hành chính đối với hành vi chống đối trên.
Thực tế đó đã chứng tỏ vi phạm hành chính trong lĩnh vực này không những chưa
giảm mà còn có xu hướng ngày càng nhiều hơn và phức tạp hơn. Từ những phân tích nêu
trên, tác giả chọn đề tài “Quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thi hành án dân sự” làm đề tài cho Luận văn tốt nghiệp để tìm hiểu về
pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án và hoàn thiện pháp
luật.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích những vấn đề lý luận pháp luật và thực
tiễn về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Chỉ ra những hạn
chế, bất cập trong thực tiễn áp dụng. Từ đó, tìm ra một số giải pháp nhằm khắc phục
những hạn chế, bất cập về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
3. Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian có hạn, nên việc nghiên cứu để thực hiện Luận văn, tác giả chỉ tập
trung vào những cơ sở pháp lý trong việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi
hành án dân sự. Việc nghiên cứu chỉ tập trung vào giai đoạn từ năm 1989 cho đến nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phân tích, đánh giá những tài liệu thu được qua sách báo, tạp chí, báo cáo …; đối
chiếu so sánh các văn bản quy phạm pháp luật.
5. Kết cấu đề tài
Trong luận văn tốt nghiệp này, người viết trình bày theo bố cục sau:
Lời mở đầu
Chƣơng 1: Lý luận chung về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi
hành án án dân sự
Chƣơng 2: Những quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thi hành án dân sự
Chƣơng 3: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
Kết luận
2
Đề tài: Quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Một số khái niệm liên quan đến xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính.
Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy
định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của
pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính2.
Để tìm hiểu khái niệm “vi phạm hành chính” một cách chi tiết và cụ thể hơn, trước
hết chúng ta sẽ xem xét các dấu hiệu pháp lý và yếu tố cấu thành pháp lý của vi phạm
hành chính sau đây3:
Về mặt khách quan của vi phạm hành chính, bao gồm các dấu hiệu: hành vi;
tính trái pháp luật của hành vi; hậu quả thiệt hại mà hành vi gây ra cho xã hội; quan hệ
nhân quả; thời gian, địa điểm, phương tiện vi phạm.
Hành vi: vi phạm hành chính cũng như mọi vi phạm pháp luật bất kỳ trước hết phải
là hành vi, nó chỉ được thực hiện bởi hành vi. Theo C.Mác: con người chỉ tồn tại đối với
pháp luật thông qua hành vi của mình. Suy nghĩ, quan niệm, tư tưởng, khi chưa thể hiện
hành vi trái với yêu cầu của quy phạm pháp luật thì dù tệ hại thế nào cũng chưa phải là vi
phạm pháp luật. Hành vi có thể được thực hiện dưới hình thức hành động hoặc không
hành động.
Tính trái pháp luật của hành vi: vi phạm hành chính là hành vi trái pháp luật, tính
chất đó thể hiện ở chỗ là nó được thực hiện ngược với yêu cầu của quy phạm pháp luật.
Nói cách khác, đó là những hành vi xâm phạm những quy định pháp luật nói chung được
chế định trách nhiệm hành chính bảo vệ, là những hành vi bị pháp luật hành chính cấm,
hoặc không thực hiện hay thực hiện không đúng hành động mà pháp luật hành chính buộc
phải thực hiện.
Thời gian, địa điểm, phương tiện, phương pháp thực hiện hành vi: hành vi nào
cũng phải diễn ra trong một thời gian, địa điểm nhất định và được thực hiện bằng phương
pháp nhất định. Trong nhiều vi phạm hành chính người ta có tính đến các dấu hiệu này.
Ví dụ: gây gổ đánh nhau nơi công cộng, đánh nhau có dùng hung khí, hút thuốc ở những
nơi cấm hút thuốc, trì hoãn không áp dụng biện pháp phòng cháy theo yêu cầu của cơ
2
3
Khoản 1 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Giáo trình luật hành chính Việt nam của PGS.TS Nguyễn Cửu Việt, trang 498 đến trang 504.
3
Đề tài: Quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
quan có thẩm quyền.
Hành vi đó phải được một văn bản pháp luật quy định là vi phạm hành chính và
phải chịu trách nhiệm hành chính: dấu hiệu quan hệ nhân quả trong vi phạm hành chính
không có ý nghĩa quan trọng trong đa số các trường hợp, vì thế, khoa học luật hành chính
coi vi phạm hành chính đa phần có cấu thành hình thức, nghĩa là chỉ cần tồn tại ba dấu
hiệu hình thức: hành vi; tính trái pháp luật của hành vi; hành vi đó phải được một văn bản
pháp luật quy định là vi phạm hành chính và phải chịu trách nhiệm hành chính. Đây là ba
dấu hiệu hình thức – ba dấu hiệu cơ bản ở mặt khách quan của vi phạm hành chính.
Khách thể: khách thể của vi phạm pháp luật là cái mà vi phạm đó xâm hại. Khách
thể của vi phạm hành chính là những quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật hành
chính bảo vệ. Khách thể là yếu tố quan trọng quy định tính chất, mức độ nguy hiểm của
hành vi trái pháp luật. Các loại khách thể của vi phạm hành chính rất đa dạng, đó là: trật
tự nhà nước và xã hội, sở hữu của nhà nước, của tổ chức và quyền, tự do và lợi ích hợp
pháp của công dân, trật tự quản lý. Trong đó, thuật ngữ “trật tự nhà nước và xã hội” chỉ
tất cả những quan hệ xã hội hình thành trong hoạt động của nhà nước và xã hội, thuật ngữ
“trật tự quản lý” chỉ tất cả những quan hệ xã hội hình thành trong hoạt động nội bộ các cơ
quan, tổ chức nhà nước.
Từ đó ta thấy, khách thể vi phạm hành chính rất rộng, còn rộng hơn cả khách thể
tội phạm, tuy rằng, trong đa số các trường hợp, khách thể vi phạm hành chính và tội phạm
là đồng nhất. Nhưng cần lưu ý rằng, không phải toàn bộ các quan hệ quản lý nhà nước là
khách thể của vi phạm hành chính, mà chỉ những quan hệ được bảo vệ bằng các biện pháp
trách nhiệm hành chính trong số đó mà thôi.
Khách thể cụ thể của vi phạm hành chính, cũng tương tự như khách thể của tội
phạm, vị dụ: Là các quan hệ xã hội trong lĩnh vực bảo vệ trật tự an toàn giao thông; bảo
vệ môi trường, trong đó bảo vệ rừng, đất đai, nguồn nước, vệ sinh đô thị; bảo đảm an toàn
các chất dễ cháy, nổ, phóng xạ; bảo vệ sức khỏe con người khỏi các bệnh truyền nhiễm từ
người, động vât, thực vật; phòng chống buôn lậu; làm hàng giả, kinh doanh trái phép; sử
dụng nhãn hiệu hàng hóa; chế độ quản lý giá cả, thu, nộp thuế; chế độ sử dụng ngoại tệ;
tài sản, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của công dân; bảo đảm an toàn lao động; bảo vệ
tài sản nhà nước; trật tự quản lý trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng nhà
ở; trật tự an toàn nơi công cộng.
Chủ thể: chủ thể của vi phạm hành chính, theo định nghĩa “vi phạm hành chính”
tại khoản 1 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, là cá nhân hoặc tổ chức.
Theo Điều 5 “Đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính” cụ thể bao gồm: Cá nhân, tổ chức,
cá nhân, tổ chức nước ngoài.
4
Đề tài: Quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
Cá nhân: Người chưa thành niên được coi là có năng lực hành vi chưa đầy đủ.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì chỉ bị xử phạt về vi phạm hành chính thực hiện
do cố ý. Đối với người dưới 14 tuổi, suy từ quy định trên, thì không xử phạt mà áp dụng
biện pháp giáo dục.
Người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt về mọi vi phạm hành chính.
Cán bộ, công chức, viên chức nói chung và người có thẩm quyền nói riêng chịu
trách nhiệm hành chính như mọi công dân bình thường. Nhưng các pháp lệnh và Luật xử
lý vi phạm hành chính năm 2012 đều không nhắc đến loại chủ thể rất quan trọng này tại
điều chung về đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính. Chỉ có một quy định “lợi dụng
chức vụ, quyền hạn để vi phạm” là một tình tiết tăng nặng (điểm e khoản 1 Điều 10 Luật
xử lý vi phạm hành chính năm 2012). Nhưng như thế là chưa đầy đủ. Nguyên tắc tăng
nặng mức xử phạt đối với những người có thẩm quyền, cán bộ, công chức, viên chức là
một vấn đề lý luận về xử lý vi phạm hành chính có ý nghĩa thực tiễn lớn mà pháp luật các
nước đều quy định.
Người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân vi phạm hành chính
thì bị xử lý như đối với công dân khác; trường hợp cần áp dụng hình thức phạt tước quyền
sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn liên quan
đến quốc phòng, an ninh thì người xử phạt đề nghị cơ quan, đơn vị Quân đội nhân dân,
Công an nhân dân có thẩm quyền xử lý.
Tổ chức: pháp luật nước ta coi tổ chức cũng là chủ thể vi phạm hành chính. Theo
khoản 10 Điều 2 “giải thích từ ngữ” Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì: “Tổ
chức là cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã
hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ
trang nhân dân và tổ chức khác được thành lập theo quy định pháp luật”. Đây là định
nghĩa liệt kê theo kiểu “rập khuôn” trong nhiều văn bản, nêu không hết phải mở ra bằng
câu rất vô định “và tổ chức khác được thành lập theo quy định của pháp luật”. Khái niệm
“pháp nhân” có tính pháp lý, do đó khoa học hơn lại không được sử dụng.
Theo điểm b khoản 1 Điều 5 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì: “Tổ
chức bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra”. Quy
định này chỉ có từ Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1989 nhằm xử lý nhanh
chóng vi phạm hành chính, vì trong nhiều trường hợp khó hoặc không thể xác định được
cá nhân cụ thể nào có lỗi. Tuy nhiên, quy định như vậy trong trường hợp tổ chức nhà
nước là chủ thể vi phạm còn có vấn đề. Nếu là “tổ chức nhà nước” thì ngân sách nhà nước
không những bị chuyển từ “ túi này” qua “túi khác” mà còn bị thất thoát do trích thưởng
và các nguyên nhân khác. Nếu quy định cá nhân thủ trưởng tổ chức, cơ quan phải bị xử lý
5
Đề tài: Quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
khi phát hiện vi phạm hành chính của tổ chức, cơ quan phải bị xử lý khi phát hiện vi
phạm hành chính của tổ chức, thì dù là “tổ chức nhà nước” hay “tổ chức phi nhà nước”
vẫn đều có hiệu quả. Có như vậy thủ trưởng “mới sốt sắng” để tìm người có lỗi và xử lý
bằng cách “bồi hoàn”.
Cá nhân, tổ chức nước ngoài: cá nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm hành chính
trong phạm vi lãnh thổ, vùng tiếp giáp lãnh thổ, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam; trên tàu bay mang
quốc tịch Việt nam, tàu biển mang cờ quốc tịch Việt nam thì bị xử phạt vi phạm hành
chính theo quy định của pháp luật Việt nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam là thành viên có quy định khác (điểm c khoản 1 Điều 5
Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012).
Mặt chủ quan của vi phạm hành chính: mặt chủ quan của vi phạm hành chính
thể hiện ở tính chất lỗi của nó.
Lỗi: lỗi là dấu hiệu bắt buộc của vi phạm hành chính cũng như vi phạm pháp luật
nói chung. Mỗi một hành vi trái pháp luật không có nghĩa là hành vi vi phạm pháp luật,
nếu chưa xác định được lỗi, tức là yếu tố chủ quan, là thái độ, động cơ, ý chí của người vi
phạm đối với hành vi của mình. Như ta đã biết, có hai hình thức lỗi: cố ý và vô ý.
Lỗi cố ý thể hiện ở chỗ người có hành vi vi phạm nhận thức được tính chất và hậu
quả hành vi của mình nhưng vẫn thực hiện.
Lỗi vô ý có hai hình thức: vô ý do cẩu thả - người có hành vi vi phạm không biết
và không nhận thức được rằng hành vi của mình là trái pháp luật mặc dù cần biết và nhận
thức được điều đó. Vô ý do quá tự tin – người có hành vi vi phạm nhận thức được điều
này nhưng do khinh suất cho rằng có thể ngăn ngừa được dễ dàng hậu quả của hành vi trái
pháp luật đó của mình.
Động cơ, mục đích vi phạm: động cơ mục đích vi phạm là yếu tố cũng được tính
đến khi xem xét mặt chủ quan của nhiều vi phạm hành chính để quyết định các hình thức
và mức xử phạt cụ thể.
Tóm lại, từ những phân tích trên đây, có thể định nghĩa vi phạm hành chính như
sau: “vi phạm hành chính là hành vi (hành động hoặc không hành động) trái pháp luật,
có lỗi (cố ý hoặc vô ý) do cá nhân có năng lực trách nhiệm hành chính hoặc tổ chức thực
hiện, xâm phạm trật tự nhà nước và xã hội, trật tự quản lý, sở hữu của nhà nước, tổ chức
và cá nhân, xâm phạm các quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của con người, của công dân
mà theo quy định của pháp luật phải chịu trách nhiệm hành chính”.
1.1.2. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính
Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình
6
Đề tài: Quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi
phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính4.
1.1.3. Khái niệm về thi hành án dân sự.
Thi hành án dân sự là một giai đoạn nhằm thực hiện những Bản án, Quyết định có
hiệu lực pháp luật của tòa án. Tuy nhiên, hiện nay trong các văn bản quy phạm pháp luật
hiện hành vẫn chưa có điều luật nào nêu lên khái niệm cụ thể thế nào là thi hành án dân
sự. Để làm rõ khái niệm thi hành án dân sự, trước tiên cần phải làm rõ khái niệm thi hành
án.
Thi hành án là một hoạt động tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền
tiến hành theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định để đưa Bản án, Quyết định của tòa án
hoặc Quyết định khác theo quy định của pháp luật được thực hiện trên thực tế nhằm bảo
đảm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa.5
Đối với lĩnh vực thi hành án dân sự, trước hết cần phải hiểu thi hành án dân sự là
thực hiện các Bản án, Quyết định dân sự của tòa án hoặc quyết định khác do pháp luật
quy định trên thực tế. Đó là các Bản án, Quyết định dân sự được quy định tại Điều 375
của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.
“1. Những bản án, quyết định dân sự của Tòa án được thi hành là những bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật, bao gồm: Bản án, quyết định hoặc phần bản án,
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm; Bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm của Tòa án;Bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của
Trọng tài nước ngoài đã có quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án Việt Nam công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam.
2. Những bản án, quyết định sau đây của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành ngay
mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị: Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả công lao
động, nhận người lao động trở lại làm việc, trả lương, trợ cấp mất việc làm, bảo hiểm xã
hội hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất tinh thần của công dân;
Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời”.
Những Bản án, Quyết định nêu trên không chỉ bao gồm những Bản án, Quyết định
về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế mà còn bao gồm Quyết định dân sự,
phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí
4
Khoản 2 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Xem, Th.s. Nguyễn Quan Thái,”Một số khái niệm về thi hành án và thi hành án dân sự ở Việt nam”,
Dân chủ & Pháp luật, số 5 (158)-2005.
5
7
Đề tài: Quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
trong Bản án, Quyết định của tòa án về hình sự, Quyết định về phần tài sản trong Bản án,
Quyết định của tòa án về hành chính, Bản án, Quyết định dân sự của tòa án nước ngoài,
Quyết định của Trọng tài nước ngoài đã có Quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án
Việt nam công nhận và cho thi hành tại Việt nam.
Như vậy, những Bản án, Quyết định được đưa ra thi hành bao gồm hai loại, đó là:
Thứ nhất, những Bản án, Quyết định dân sự của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Đó
là Bản án, Quyết định hoặc phần Bản án, Quyết định của tòa án cấp sơ thẩm không bị
cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; Bản án, Quyết định của tòa án cấp phúc thẩm;
Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của tòa án; Bản án, Quyết định dân sự của tòa án
nước ngoài, Quyết định của Trọng tài nước ngoài đã có Quyết định có hiệu lực pháp luật
của tòa án Việt nam công nhận và cho thi hành tại Việt nam.
Thứ hai, những Bản án, Quyết định dân sự của tòa án chưa có hiệu lực pháp luật
nhưng được thi hành ngay. Đó là những Bản án, Quyết định của tòa án cấp sơ thẩm về
cấp dưỡng, trả công lao động, nhận người lao động trở lại làm việc, trả lương, trợ cấp mất
việc làm, bảo hiểm xã hội hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất tinh
thần của công dân; Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Để Bản án, Quyết định của tòa án được đưa ra thi hành phải thỏa mãn theo những
điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều 375 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 như
đã nêu trên.
Dưới góc độ lý luận, thi hành án dân sự ở Việt nam hiện nay còn hai quan điểm
khác nhau về nghĩa rộng và nghĩa hẹp về khái niệm “Dân sự”.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: khái niệm “Dân sự” trong thi hành án dân sự được
hiểu là những Bản án, Quyết định liên quan đến tài sản và nhân thân phi tài sản như Bản
án, Quyết định về giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, lao động, thương mại 6. Quan điểm như thế vì dựa trên cơ sở Điều 1
của Bộ luật dân sự năm 2005, theo đó quan hệ dân sự bao gồm quan hệ về tài sản và nhân
thân phi tài sản phát sinh trong giao lưu dân sự.
Quan điểm thứ hai cho rằng: khái niệm “Dân sự” ở đây phải được hiểu theo nghĩa
rộng, đó không chỉ bao gồm các Bản án, Quyết định về giải quyết tranh chấp đối với các
loại hợp đồng dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, lao động, thương mại, và một số
loại án khác có tính chất dân sự của Tòa án, mà còn bao gồm: quyết định về tài sản trong
Bản án, quyết định hình sự về bồi thường thiệt hại; quyết định hành chính7.
6
Xem, Th.s. Nguyễn Quan Thái, “Một số khái niệm về thi hành án và thi hành án dân sự ở Việt nam”,
Dân chủ & Pháp luật, số 5 (158)-2005.
7
Xem, Th.s. Nguyễn Quan Thái, “Một số khái niệm về thi hành án và thi hành án dân sự ở Việt nam”,
Dân chủ & Pháp luật, số 5 (158)-2005.
8
Đề tài: Quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
Người viết đồng tình với quan điểm thứ hai, bởi lẽ: theo quy định của pháp luật
hiện hành, nhiều vụ việc có tính chất khác nhau, được giải quyết theo các trình tự khác
nhau, nhưng đến giai đoạn thi hành án đều được áp dụng theo trình tự, thủ tục thi hành án
dân sự. Vì vậy, phạm vi thi hành án dân sự phải được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm: Bản
án, Quyết định dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình; quyết định về tài sản trong
Bản án, Quyết định hình sự về bồi thường thiệt hại; Quyết định về tài sản và quyền tài sản
trong Bản án, Quyết định hành chính.
Từ những phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm về thi hành án dân sự như sau:
“Thi hành án dân sự là hoạt động tư pháp do cơ quan thi hành án, chấp hành viên
tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, để đưa Bản án, Quyết định dân sự
có hiệu lực pháp luật của tòa án hoặc các quyết định khác theo quy định của pháp luật
được thực thi trên thực tế, nhằm đảm bảo lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa8”.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực thi hành án dân sự
1.2.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân
sự
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự là hoạt động của các
chủ thể có thẩm quyền, căn cứ vào các quy định của pháp luật đối với các chủ thể thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến các quan hệ xã hội phát sinh trong tổ chức
và hoạt động thi hành án dân sự. Căn cứ vào thực tiễn để xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thi hành án dân sự là hành vi vi phạm pháp luật trong thi hành án dân sự.
Do đó, để hiểu được bản chất của vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi
hành án dân sự thì trước hết cần phải tìm hiểu về vi phạm pháp luật trong thi hành án dân
sự.
Vi phạm pháp luật là những hành vi tiêu cực của một số cá nhân, tổ chức đi ngược
lại ý chí của Nhà nước, quyền và lợi ích chính đáng của xã hội, cộng đồng. Những hành
vi đó gây hại cho Nhà nước, xã hội và công dân, do đó chúng ta phải đấu tranh ngăn chặn,
loại bỏ các vi phạm pháp luật đó ra khỏi đời sống xã hội.
Do đó, ta có thể hiểu vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự là hành
vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, vi phạm quy định của
pháp luật về quản lý nhà nước trong tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự mà không
phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
8
Xem, Th.s. Nguyễn Quan Thái, Một số khái niệm về thi hành án và thi hành án dân sự ở Việt Nam,
Dân chủ & Pháp luật, số 5 (158)-2005.
9
Đề tài: Quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự có các
đặc điểm như sau:
- Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự được áp
dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự theo
quy định của pháp luật. Nói cách khác vi phạm hành chính là cở sở để tiến hành hoạt
động xử phạt vi phạm hành chính. Luật xử lý vi phạm hành chính và các Nghị định hướng
dẫn quy định hành vi vi phạm hành chính, hình thức, biện pháp xử phạt vi phạm hành
chính áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý hành
chính nhà nước là cơ sở để tiến hành hoạt động xử phạt vi phạm hành chính.
- Kết quả của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân
sự thể hiện ở các quyết định xử phạt vi phạm hành chính, trong đó ghi nhận các hình thức,
biện pháp xử phạt áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi
hành án dân sự. Việc quyết định áp dụng các biện pháp xử phạt đó thể hiện sự trừng phạt
nghiêm khắc của Nhà nước đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính trong lĩnh vực
thi hành án dân sự, qua đó giáo dục cho mọi người ý thức tuân thủ pháp luật trong lĩnh
vực thi hành án dân sự nói riêng và pháp luật nói chung.
1.2.2. Đặc điểm của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án
dân sự
Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự được tiến
hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực thi hành án dân sự quy định: toàn bộ quá trình phát hiện ra hành vi vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực thi hành án dân sự, cho đến việc ngăn chặn, xử lý, truy cứu trách nhiệm
pháp lý và tổ chức thi hành đối với việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật đó của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, đều được pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thi hành án dân sự quy định cụ thể bằng các quy định của pháp luật. Từ đó
những hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự đều bị xử lý nghiêm minh.
Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự mang tính
đặc thù riêng, cho phép chúng ta phân biệt được với hoạt các động xử phạt vi phạm hành
chính khác của đời sống xã hội được thể hiện ở một số đặc điểm như sau:
- Căn cứ thực tiễn để xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
là những hành vi vi phạm pháp luật xâm hại trực tiếp các quan hệ xã hội trong tổ chức và
hoạt động trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
- Chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án
dân sự: Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên, Thanh tra Bộ tư pháp.
10
Đề tài: Quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
- Đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự là rất
đa dạng và phức tạp, có thể là Chấp hành viên, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự,
người được thi hành án, người phải thi hành án….
Như vậy, hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
cũng tương tự như hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khác của đời
sống xã hội, đó là hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm
quyền nhằm xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật hành chính. Bên cạnh đó việc
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự có những nét đặc thù, phản
ánh được những nét riêng trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Đây chính là những đặc
trưng cho phép phân biệt với hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khác
của đời sống xã hội.
1.2.3. Vai trò của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân
sự
Thứ nhất, những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thi hành án dân sự được
phát hiện và xử lý trên cở sở những quy định của pháp luật, bảo đảm tính đúng đắn và
nghiêm minh của pháp luật. Qua việc xử lý đó, chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực thi hành án dân sự phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi tương ứng
với hành vi, tính chất và mức độ nguy hiểm do hành vi trái pháp luật của mình gây ra.
Đồng thời, qua việc áp dụng các hình thức xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực thi hành án dân sự, mà ý thức chấp hành pháp luật về thi hành án dân sự
của người dân được nâng cao, tự ý thức được trách nhiệm pháp luật của mình và không
thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
Thứ hai, thi hành án dân sự là hoạt động nhằm đưa ra thi hành những Bản án,
Quyết định. Tuy nhiên việc thi hành những Bản án, Quyết định đó trong quá trình thi
hành gặp phải những khó khăn như người phải thi hành án chống đối không cho thi hành
như: cản trở việc thi hành án, chống đối hoặc trì hoãn việc thi hành án. Việc chống đối, trì
hoãn, cản trở đó đều có thể bị xử phạt vi phạm hành chính, việc thi hành quyết định xử
phạt hành chính có thể do người đang trực tiếp thi hành công vụ lập biên bản xử phạt về
hành vi vi phạm đó. Việc xử phạt đối với những hành vi vi phạm pháp luật này có tính
chất ngăn chặn và loại bỏ những hành vi chống đối, trì hoãn, cản trở trong quá trình thi
hành án. Qua đó góp phần đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự nói riêng và những quy định trong các lĩnh
vực khác của pháp luật nói chung.
11
Đề tài: Quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của chế định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 1995
Trong thời kỳ này một văn bản quan trọng về xử phạt vi phạm hành chính được ban
hành. Đó là Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính, được Hội đồng Nhà nước thông qua
ngày 07/12/1989, có hiệu lực thi hành ngày 01/01/1990. Pháp lệnh năm 1989 này mới chỉ
quy định về đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính (Điều 5), nguyên tắc xử phạt vi
phạm hành chính (Điều 6), thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính (Điều 9), các hình thức
xử phạt vi phạm hành chính (Điều 11) và trong Chương III có quy định về thẩm quyền xử
phạt hành chính. Những quy định trên đều chưa quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Sau đó Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành
chính năm 1989 đã được thay thế bằng Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 và
các văn bản pháp luật có liên quan cũng chỉ dừng lại ở mức quy định có tính chất định
hướng cho việc xử phạt vi phạm hành chính, chưa có quy định chi tiết và hướng dẫn cụ
thể để tiến hành xử phạt các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp nói
chung, trong lĩnh vực thi hành án dân sự nói riêng.
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2002
Sau khi Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 ra đời, thay thế Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính năm 1995. Trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm
2002 tại Điều 35 quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan thi
hành án dân sự: Đội trưởng Đội thi hành án dân sự, Trưởng phòng thi hành án dân sự,
Trưởng phòng thi hành án Quân khu và cấp tương đương có quyền: Phạt cảnh cáo, phạt
tiền đến 500.000 đồng. Tuy Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 có bước tiến
quan trọng về quy định thẩm quyền xử phạt của Cơ quan thi hành án dân sự nhưng vẫn
chưa quy định chi tiết, cụ thể. Chính vì những quy định chưa chi tiết, cụ thể về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính năm 2002, đến năm 2008 Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử
lý vi phạm hành chính năm 2002 ra đời và có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 8 năm
2008.
1.3.3. Giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2008
Sau khi Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 ra đời, thay thế Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính năm 1995 (tiếp tục được sửa đổi, bổ sung vào năm 2007 và
2008), Nghị định số 134/2003/NĐ-CP (sau đây viết tắt là Nghị định 134/2003/NĐ-CP)
ngày 14 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Pháp lệnh được ban hành và đặc biệt là Nghị định số 173/2004/NĐ-CP ngày 30 tháng 9
12
Đề tài: Quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
năm 2004 của Chính phủ quy định về mức phạt vi phạm hành chính, thẩm quyền xử phạt
vi phạm hành chính, thủ tục xử phạt vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự cũng được ban hành gồm có ba điều
(Điều 32, 33 và 34 tại Chương V), là những cơ sở pháp lý cụ thể, chi tiết đầu tiên cho việc
tiến hành xử phạt các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Tiếp
theo, Nghị định số 37/2005/NĐ-CP được Chính phủ ban hành ngày 18 tháng 3 năm 2005
quy định thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế xử phạt vi phạm hành chính. Sau đó,
Nghị định số 76/2006/NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ quy định xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp được ban hành đã thay thế toàn bộ những quy
định có liên quan tại Nghị định số 173/2004/NĐ-CP.
Một bước tiến mới và quan trọng, đó là năm 2008 Luật thi hành án dân sự ra đời,
trong đó có quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành
án dân sự, các quy định đó được quy định tại Điều 163.
1.3.4. Giai đoạn từ năm 2009 cho đến hiện nay
Ngày 23 tháng 07 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 60/2009/NĐ-CP,
có hiệu lực thi hành ngày 18 tháng 9 năm 2009 đã thay thế Nghị định số 76/2006/NĐ-CP
ngày 02 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực tư pháp.
Luật Xử lý vi phạm hành chính được Quốc hội thông qua ngày 20/6/2012, có hiệu
lực thi hành 01/7/2013. Trên cơ sở đó, ngày 24/9/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 110/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp,
hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp
tác xã (sau đây viết tắt là Nghị định 110/2013/NĐ-CP), thay thế Nghị định số
60/2009/NĐ-CP ngày 23 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực tư pháp; Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm
2001 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình;
Nghị định số 10/2009/NĐ-CP ngày 06 tháng 02 năm 2009 của Chính phủ quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản. Ngày 19 tháng 07 năm
2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 81/2013/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều và
biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sau đây viết tắt là Nghị
định 81/2013/NĐ-CP). Ngày 12 tháng 11 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị định số
166/2013/NĐ-CP quy định về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính,
có hiệu lực thi hành từ ngày 28 tháng 12 năm 2013 (sau đây viết tắt là Nghị định
166/2013/NĐ-CP); thay thế Nghị định số 37/2005/NĐ-CP ngày 18 tháng 3 năm 2005 của
Chính phủ quy định thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế xử phạt vi phạm hành
13
Đề tài: Quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
chính.
Đây là những văn bản tạo cơ sở pháp lý chi tiết, cụ thể nhất và trực tiếp nhất hiện
nay cho việc tiến hành xử phạt các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án
dân sự.
14
Đề tài: Quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
CHƢƠNG 2
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH
CHÍNH TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
2.1. Đối tƣợng bị xử phạt hành chính và nguyên tắc xử phạt hành chính
trong lĩnh vực thi hành án dân sự
2.1.1. Đối tƣợng bị xử phạt hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
Theo quy định tại Điều 2, Nghị định 110/2013/NĐ-CP quy định, đối tượng có thể
bị xử phạt hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự là rất rộng, bao gồm các cá
nhân, tổ chức vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự như: người được thi
hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Trong Luật xử lý
vi phạm hành chính năm 2012 chưa có điều luật nào quy định rõ vấn đề là có xử phạt vi
phạm hành chính đối với Chuyên viên, Thư ký, Chấp hành viên của cơ quan thi hành án
dân sự khi đang thi hành công vụ cũng là người trực tiếp thực hiện hành vi vi phạm hành
chính. Luật nào sẽ được áp dụng để xử lý và hành vi vi phạm pháp luật nào sẽ bị xử phạt
vi phạm hành chính.
Ví dụ: Việc người phải thi hành án, bà Ng.T.P ngụ ấp Mỹ Tây 2, xã Mỹ Quý,
huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp có hành vi vi phạm hành chính là cản trở không cho
Chấp hành viên Chi cục thi hành án dân sự huyện Tháp Mười thi hành kê biên tài sản là
1000 m2 đất ruộng, bà cản trở Chấp hành viên bằng cách giật thước đo và xô đẩy Chấp
hành viên ngã xuống ruộng, thách thức ai vào đo là đánh. Chấp hành viên sai phạm trong
việc cưỡng chế kê biên tài sản là 1000m2 đất ruộng của bà P là kéo dài thời gian để ra
quyết định cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất 1000 m2.
Trong Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, ở khoản 10 Điều 1 chỉ giải thích
thuật ngữ “Tổ chức” và khoản 1 Điều 5, không có sự phân biệt giữa Cán bộ, Công chức,
Viên chức với cá nhân khác và không có sự phân biệt giữa cơ quan nhà nước với không
phải là cơ quan nhà nước. Vấn đề xử phạt hành chính đối với những người có thẩm quyền
khi đang thi hành công vụ là Chấp hành viên, Thư ký, Chuyên viên của cơ quan thi hành
án dân sự khi đang thi hành công vụ mà cũng là người có hành vi vi phạm hành chính thì
sẽ không bị xử phạt vi phạm hành chính theo Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
2.1.2. Nguyên tắc xử phạt trong lĩnh vực thi hành án dân sự
Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính là những nội dung cơ bản, quan trọng chi
phối mọi hoạt động trong quá trình xử phạt vi phạm hành chính. Các nguyên tắc trong
Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 vừa mang tính kế thừa từ Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính năm 2002. Bên cạnh đó Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 cũng
15
Đề tài: Quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
có những nguyên tắc được quy định mới nhằm phù hợp với thực tế trong xã hội. Những
nguyên tắc đó được quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật xử lý vi phạm hành chính năm
2012.
Kế thừa Pháp lệnh:
Qua thực tế thi hành pháp Luật xử lý vi phạm hành chính, các nguyên tắc xử lý vi
phạm hành chính được quy định trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 đã
khẳng định được sự cần thiết đúng đắn, do đó tiếp tục được quy định tại khoản 1 Điều 3
Luật luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 như các nguyên tắc sau:
+ Nguyên tắc thứ nhất: Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn
kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải
được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật;
+ Nguyên tắc thứ hai: Việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất,
mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng;
+ Nguyên tắc thứ ba: Chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành
chính do pháp luật quy định.
Từ nguyên tắc thứ ba đưa ba trường hợp cụ thể như sau: một hành vi vi phạm hành
chính chỉ bị xử phạt một lần; nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính
thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt về hành vi vi phạm hành chính đó; một người thực
hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt
về từng hành vi vi phạm.
Từ nguyên tắc thứ ba vừa phân tích ta có thể nêu một ví dụ như sau: Khi một
người đang tham gia giao thông trên đoạn đường A không đội mũ bảo hiểm, khi gặp cảnh
sát giao thông đang làm nhiệm vụ bắt gặp và chắc chắn người không đội mũ bảo hiểm đó
sẽ bị xử phạt hành chính với lỗi không đội mũ bảo hiểm. Khi vừa thực hiện xong hành vi
không đội mũ bảo hiểm và đã bị xử phạt vi phạm hành chính, và chạy được khoảng 100 m
nữa nếu cũng gặp một anh cảnh sát giao thông đang thi hành công vụ và chắc chắn người
này sẽ tiếp tục phải bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi không đội mũ bảo hiểm.
Những quy định mang tính kế thừa này thể hiện sự nhất quán trong chính sách xử
lý hành chính của Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay, đó là nguyên tắc chủ động
phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm minh đối với mọi hành vi vi phạm hành
chính, khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra.
Quy định mới:
Bên cạnh những nguyên tắc được kế thừa từ Pháp lệnh, một số nguyên tắc mới
được quy định trong Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 như:
+ Nguyên tắc bảo đảm công bằng, công khai, khách quan, tôn trọng quyền giải
16
Đề tài: Quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
trình của cá nhân, tổ chức (Điểm b khoản 1);
+ Nguyên tắc người có thẩm quyền xử phạt, người có thẩm quyền áp dụng biện
pháp xử lý hành chính có trách nhiệm chứng minh hành vi vi phạm bằng việc áp dụng các
biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ việc một cách khách quan, toàn diện và
đầy đủ; cá nhân, tổ chức bị xử phạt, cá nhân bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính có
quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm
hành chính (Điểm đ khoản 1);
+ Để phân định mức phạt tiền giữa cá nhân và tổ chức vi phạm, phù hợp với tính
chất vi phạm, một trong những nguyên tắc mới được quy định tại Luật xử lý vi phạm
hành chính năm 2012, đó là: “đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt
tiền đối với tổ chức bằng hai lần mức phạt tiền đối với cá nhân” (Điểm e khoản 1)
Việc bổ sung những nguyên tắc này là rất cần thiết để khắc phục thực trạng cơ
quan hành chính ban hành quyết định xử phạt mang tính đơn phương, áp đặt ý chí chủ
quan của người có thẩm quyền xử phạt.
2.2. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính và thời hạn đƣợc coi là chƣa bị xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
2.2.1. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính
Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là khoảng thời gian do pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính quy định mà nếu hết thời gian đó thì không được xử phạt đối với cá
nhân, tổ chức vi phạm.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, thời
hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự: là 01 năm (đối với một số lĩnh
vực khác là 02 năm, hoặc có quy định riêng). Luật xử lý vi phạm hành chính có bổ sung
quan trọng về cách xác định thời điểm để tính thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính:
- Đối với vi phạm hành chính đã kết thúc thì thời hiệu được tính từ thời điểm chấm
dứt hành vi vi phạm.
- Đối với vi phạm hành chính đang được thực hiện thì thời hiệu được tính từ thời
điểm phát hiện hành vi vi phạm.
Trường hợp xử phạt vi phạm hành chính đối với cá nhân do cơ quan tiến hành tố
tụng chuyển đến, Luật nhấn mạnh thời gian cơ quan tiến hành tố tụng thụ lý, xem xét
được tính vào thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính. Đây là thay đổi cơ bản so với Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002. Luật quy định chỉ tính lại thời hiệu trong trường
hợp cá nhân, tổ chức cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt thì thời hiệu xử phạt vi phạm
hành chính được tính lại kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử phạt.
17
Đề tài: Quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
2.2.2. Thời hạn đƣợc coi là chƣa bị xử phạt vi phạm hành chính
Luật xử lý vi phạm hành chính quy định thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi
phạm hành chính theo hướng rút ngắn hơn so với quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính năm 2002, cụ thể: Đối với cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính,
nếu trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt cảnh cáo hoặc
01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính khác hoặc từ ngày hết
thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà không tái phạm thì được coi
là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.
Vậy làm thế nào để chúng ta có thể biết và tính được thời gian, thời hạn, thời hiệu
trong xử phạt vi phạm hành chính. Cũng giống như Bộ luật dân sự hiện hành, cách tính
thời gian, thời hạn và thời hiệu là ngày bình thường. Tuy nhiên một số điều luật trong
Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 cũng quy định rõ và giống Bộ luật lao động
hiện hành là ngày làm việc (không bao gồm ngày nghỉ).
2.3. Trƣờng hợp không xử phạt vi phạm hành chính và những quy định của
pháp luật về hành vi vi phạm hành chính và hình thức xử phạt trong lĩnh vực thi
hành án dân sự
2.3.1. Những trƣờng hợp không xử phạt vi phạm hành chính
Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 đã quy định rất rõ về các trường hợp
không xử phạt vi phạm hành chính khi thực hiện hành vi vi phạm hành chính, trong các
trường hợp được quy định tại Điều 11 Luật xử lý vi phạm hành chính quy định:
“Không xử phạt vi phạm hành chính đối với các trường hợp sau đây: Thực hiện
hành vi vi phạm hành chính trong tình thế cấp thiết; Thực hiện hành vi vi phạm hành
chính do phòng vệ chính đáng; Thực hiện hành vi vi phạm hành chính do sự kiện bất ngờ;
Thực hiện hành vi vi phạm hành chính do sự kiện bất khả kháng; Người thực hiện hành vi
vi phạm hành chính không có năng lực trách nhiệm hành chính; người thực hiện hành vi
vi phạm hành chính chưa đủ tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 5 của Luật này.”
2.3.2. Những quy định của pháp luật về hành vi vi phạm hành chính và hình
thức xử phạt
Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy
định của pháp luật về quản lý Nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của
pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính. Trong hoạt động thi hành án dân sự, các
hành vi vi phạm hành chính và hình thức xử phạt những hành vi vi phạm hành chính đó
đã được quy định cụ thể tại Điều 52 của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP.
Về hình thức xử phạt, việc xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án
18
Đề tài: Quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
dân sự không áp dụng hình thức xử phạt bổ sung mà chỉ áp dụng hình thức xử phạt chính,
gồm hình thức phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền.
Nghị định số 60/2009/NĐ-CP chỉ quy định có 03 mức phạt tiền, mức thấp nhất là
từ 50.000đ đến 200.000 đồng, từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng và từ 2.000.000 đồng
đến 5.000.000 đồng. Những quy định này đã không còn phù hợp và không có tính răn đe
trong tình hình hiện nay. Khắc phục hạn chế trên, Nghị định số 110/2013/NĐ-CP đã tách
các hành vi vi phạm hành chính trước đây thành các hành vi riêng biệt và áp dụng 07 mức
xử phạt theo các khung sau:
+ Khung 1: Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng;
+ Khung 2: Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng;
+ Khung 3: Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng;
+ Khung 4: Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng;
+ Khung 5: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng;
+ Khung 6: Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng;
+ Khung 7: Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng.
Căn cứ vào tính chất nguy hiểm, phức tạp của các hành vi vi phạm, Nghị định số
110/2013/NĐ-CP quy định mức xử phạt tương ứng với các hành vi như sau:
Thứ nhất, phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối
với hành vi đã nhận giấy báo, giấy triệu tập lần thứ hai của người có thẩm quyền thi hành
án nhưng không đến địa điểm ghi trong giấy báo, giấy triệu tập mà không có lý do chính
đáng. Ví dụ, người phải thi hành án là ông Trần.V.T đã nhận được giấy triệu tập lần thứ
hai là phải có mặt vào lúc 8 giờ ở ấp 3, xã Mỹ Hòa, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp để
cơ quan thi hành án tiến hành làm thủ tục kê biên phần đất mà ông Trần.V.T là người phải
thi hành. Ông T vắng mặt không có lý do và ông T cũng không trình bày được lý do mình
vắng mặt vào thời gian trên. Với lý do vắng mặt không lý do của ông T thì cơ quan thi
hành án dân sự huyện Tháp Mười đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số
tiền là 50.000 đồng.
Thứ hai, phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi không
cung cấp thông tin, không giao giấy tờ liên quan đến tài sản bị xử lý để thi hành án theo
yêu cầu của người có thẩm quyền thi hành án mà không có lý do chính đáng. Ví dụ, người
phải thi hành án là bà A, bà A phải thi hành nghĩa vụ trong Bản án là phải chuyển giao lại
cho hộ ông B 10.000m2 đất ruộng. Đã hết thời gian tự nguyện thi hành án mà bà A chưa
thực hiện nghĩa trong Bản án. Cơ quan thi hành án dân sự tiến hành làm các thủ tục để
xác minh lại diện tích đất trên và yêu cầu bà A cung cấp các giấy tờ có liên quan về phần
đất là 10.000m2 trên, nhưng bà A không cung cấp và cố tình trốn tránh. Với hành vi
19
Đề tài: Quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự
không cung giấy tờ liên quan về diện tích đất trên bà A có thể bị cơ quan thi hành án dân
sự xử phạt hành chính với số tiền là 1000.000 đồng.
Thứ ba, phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong 04
hành vi: không thực hiện công việc phải làm, không chấm dứt thực hiện công việc không
được làm theo bản án, quyết định; trì hoãn thực hiện nghĩa vụ thi hành án trong trường
hợp có điều kiện thi hành án; không thực hiện đúng cam kết đã thỏa thuận theo quyết định
công nhận sự thỏa thuận của Tòa án nhân dân; cung cấp chứng cứ giả cho cơ quan thi
hành án dân sự.
Thứ tƣ: phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong 03
hành vi: làm hư hỏng tài sản để không thực hiện nghĩa vụ thi hành án hoặc để trốn tránh
việc kê biên tài sản; phá hủy niêm phong tài sản đã kê biên; không chấp hành quyết định
của người có thẩm quyền thi hành án về việc trừ vào thu nhập.
Thứ năm, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong
các hành vi: tẩu tán tài sản để không thực hiện nghĩa vụ thi hành án hoặc để trốn tránh
việc kê biên tài sản; sử dụng trái phép, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc
thay đổi tình trạng tài sản đã kê biên; hủy hoại tài sản đã kê biên; không chấp hành quyết
định của người có thẩm quyền thi hành án về việc thu tiền của người phải thi hành án
đang do người thứ ba giữ; cố ý không thực hiện quyết định áp dụng các biện pháp khẩn
cấp tạm thời của tòa án nhân dân hoặc bản án, quyết định phải thi hành ngay. Ví dụ, ông
A có vay một số tiền của bạn bè để kinh doanh hàng vải, do làm ăn thua lỗ nên chưa trả
được nợ, vì vậy bị khởi kiện ra Tòa án. Các chủ nợ đề nghị Tòa án kê biên tài sản là nhà
đất để bảo đảm thi hành án sau này và Tòa án, cơ quan thi hành án huyện đã ra quyết định
phong tỏa tài sản của ông A.
Thứ sáu, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các
hành vi: không chấp hành quyết định của người có thẩm quyền thi hành án về việc khấu
trừ tài khoản, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án; không chấp hành quyết
định của người có thẩm quyền thi hành án về việc thu tiền từ hoạt động kinh doanh của
người phải thi hành án; về việc thu tiền của người phải thi hành án đang giữ. ,
Thứ bảy, phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với hành vi
không thực hiện việc phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án theo quyết định của
người có thẩm quyền thi hành án.
2.4. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân
sự
Để thực hiện việc xử phạt hành chính đúng thì phải xác định đúng thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Thẩm quyền xử phạt vi phạm
20