Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (621.42 KB, 60 trang )

Tr-ờng đại học vinh
Khoa luật
=== ===

trần thị thu hằng

giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý
của giao dịch dân sự vô hiệu

khóa luận tốt nghiệp đại häc
Ngµnh luËt

Vinh - 2012


Tr-ờng đại học vinh
Khoa luật
=== ===

giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý
của giao dịch dân sự vô hiệu

khóa luận tốt nghiệp đại học
Ngành luật

GV h-ớng dẫn:

ThS. Nguyễn Thị Thanh

Sinh viên thực hiện: trần thị thu h»ng
Líp:



49B1 - LuËt

Vinh - 2012


LỜI CẢM ƠN
Khóa luận tốt nghiệp là bước cuối cùng đánh dấu sự trưởng thành của
một sinh viên ở giảng đường Đại học, để trở thành một cử nhân đóng góp những
gì mình đã học được cho sự phát triển đất nước.
Để hồn thành khóa luận tốt nghiệp cuối khóa, ngoài sự nỗ lực cố gắng
của bản thân, em đã nhận được sự giúp đỡ của Hội đồng khoa học Khoa Luật,
các Thầy giáo, Cô giáo trong tổ bộ môn Luật Tư pháp. Đặc biệt là sự hướng dẫn
và giúp đỡ nhiệt tình, chu đáo của Cơ giáo - ThS. Nguyễn Thị Thanh.
Em xin trân trọng cảm ơn Cô giáo - ThS. Nguyễn Thị Thanh - người trực
tiếp hướng dẫn khóa luận, xin chân thành cảm ơn Hội đồng khoa học Khoa
Luật, các Thầy giáo, Cô giáo trong tổ bộ môn Luật Tư pháp đã tạo điều kiện
thuận lợi cho em trong q trình triển khai đề tài khóa luận.
Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu không nhiều cũng như năng lực
nghiên cứu khoa học của bản thân có hạn nên bài khóa luận tốt nghiệp khơng
tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp của
Hội đồng khoa học Khoa Luật, các Thầy giáo, Cô giáo cũng như những người
quan tâm tới vấn đề này.
Xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 5 năm 2012
Sinh viên
Trần Thị Thu Hằng


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 10
1.

Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài ..................................................................... 2

3.

Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu ............................................ 3

4.

Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 3

5.

Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 3

6.

Kết cấu của khóa luận ............................................................................. 4

Chương 1.

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ
VÔ HIỆU VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA GIAO DỊCH

DÂN SỰ VÔ HIỆU ..................................................................... 5

1.1.

Khái niệm và đặc điểm chung của GDDS .............................................. 5

1.2.

Khái niệm và đặc điểm chung về GDDS vô hiệu ................................... 8

1.3.

Phân loại GDDS vô hiệu ....................................................................... 14

1.4.

Quy định về GDDS vô hiệu trong pháp luật dân sự Việt Nam qua
các thời kỳ ............................................................................................. 16

1.4.1. GDDS vô hiệu dưới thời nhà Lê và nhà Nguyễn .................................. 16
1.4.2. Các quy định về GDDS dưới thời Pháp thuộc ...................................... 18
1.4.3. Thời kỳ từ năm 1945 đến nay ............................................................... 19
Chương 2.

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ
VÔ HIỆU VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ
VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU ..................................... 21

2.1.


Quy định pháp luật hiện hành về GDDS vô hiệu .................................. 21

2.1.1. Các trường hợp về GDDS vô hiệu ........................................................ 21
2.1.2. Thời hiệu u cầu Tịa án tun bố GDDS vơ hiệu .............................. 34
2.2.

Giải quyết hậu quả pháp lý của GDDS vô hiệu .................................... 35

2.2.1. Xử lý hậu quả giao dịch vô hiệu ........................................................... 35


2.2.2. Vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích của người thứ ba ngay tình khi
GDDS bị tuyên bố là vô hiệu ................................................................ 37
2.3.

Một số vướng mắc thường gặp trong GDDS vô hiệu trên thực tế ........ 40

Chương 3.

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT DÂN SỰ VỀ GIAO DỊCH DÂN
SỰ VÔ HIỆU VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ GIAO DỊCH
DÂN SỰ VÔ HIỆU ................................................................... 45

3.1.

Một số kiến nghị xây dựng pháp luật dân sự về GDDS vô hiệu và
hậu quả pháp lý của GDDS vô hiệu ...................................................... 45

32.


Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử GDDS vô hiệu .... 48

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 53


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

:

Bộ luật dân sự

GDDS

:

Giao dịch dân sự

Nxb

:

Nhà xuất bản


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Có thể nói rằng trong công cuộc phát triển kinh tế hội nhập như ở nước ta
hiện nay thì GDDS được xem là yếu tố vô cùng quan trọng, đây được xem là
một trong những phương thức hữu hiệu cho cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ
hợp tác xác lập và thực hiện các quyền nghĩa vụ dân sự nhằm thỏa mãn các
nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng và trong sản xuất, kinh doanh.
Xuất phát từ tầm quan trọng, cũng như ý nghĩa thực tiễn của GDDS
thì BLDS nước ta đã quy định cụ thể, chi tiết, chặt chẽ về việc xác lập, thực
hiện cũng như các điều kiện có hiệu lực của GDDS. Các quy định đó của
BLDS đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia GDDS,
tạo nên sự ổn định của các quan hệ tài sản trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, tạo động lực thúc đẩy cho quá trình hội nhập khu vực
và thế giới của nước ta.
Song trong thực tiễn xét xử, giải quyết về các GDDS vơ hiệu hiện nay
vẫn cịn nhiều vướng mắc. Một số quy định cứng nhắc, chưa đầy đủ đã gây
nên những cách hiểu khơng thống nhất. Ví dụ như: các căn cứ để tun bố
GDDS vơ hiệu cịn có nhiều điểm chưa rõ ràng; hậu quả pháp lý của GDDS
vô hiệu cịn quy định một cách chung chung, khó áp dụng. Quyền lợi của
các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự không được đảm bảo khỏa
đáng khi GDDS bị tuyên bố vô hiệu, nhất là khi các tranh chấp về giao dịch
dân có xu hướng ngày càng gia tăng, trong đó các GDDS vơ hiệu do vi
phạm về điều kiện có hiệu lực của giao dịch chiếm tỷ lệ khơng nhỏ. Do đó
việc tun bố GDDS vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý khi GDDS vô
hiệu vẫn là vấn đề phức tạp nhất hiện nay.
Từ những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn trên đây tôi thấy rằng
việc nghiên cứu vấn đề GDDS và hậu quả pháp lý của GDDS vô hiệu là

1


một vấn đề vô cùng quan trọng và cần thiết, do đó tơi quyết định chọn đề tài
“Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vơ hiệu”

làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay thì việc nghiên cứu GDDS, GDDS vơ hiệu và hậu quả pháp
lý của GDDS vô hiệu đã được nhiều nhà khoa học pháp lý quan tâm trong
các thời kỳ, dưới những góc độ khác nhau. Vấn đề GDDS vơ hiệu và hậu
quả pháp lý của GDDS vô hiệu chủ yếu được đề cập trong các bài giảng
trong giáo trình luật dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật Đại
học Quốc gia, trong một số ấn phẩm như: Bình luận BLDS của Bộ Tư pháp,
hay như trong một số cơng trình nghiên cứu như của tiến sĩ Bùi Đăng Hiếu:
GDDS vô hiệu tương đối và GDDS vô hiệu tuyệt đối; hay như trong một số
cơng trình nghiên cứu: Luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Cường: “GDDS vô
hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của GDDS vô hiệu” năm 2004; Luận
văn thạc sĩ Nguyễn Thị Thanh: “xử lý hợp đồng vô hiệu theo pháp luật dân
sự Việt Nam”. Hồng Thị Thanh: Quy định "GDDS vơ hiệu do khơng tn
theo các quy định về hình thức"; Phan Tấn Phát: GDDS vô hiệu và hậu quả
pháp lý của GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức; Luận
văn thạc sĩ luật học của tác giả Trần Trung Trực: Một số vấn đề GDDS vô
hiệu và hậu quả pháp lý của nó...
Như vậy, việc nghiên cứu đề tài "Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu
quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu" là một đề tài rộng, có nhiều khía
cạnh để khai thác khác nhau, nhất là trong khi sự phát triển của tình hình
kinh tế xã hội, các quan hệ xã hội biển đổi ngày càng phức tạp và đa dạng
hơn, vấn đề xử lý GDDS vô hiệu và hậu quả pháp lý của GDDS vô hiệu, đặc
biệt là sau khi BLDS năm 2005 ra đời cũng nảy sinh nhiều vấn đề cấp thiết,
địi hỏi cần có sự sửa đổi bổ sung sao cho phù hợp với các xu hướng mới.
2


3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài nhằm góp phần làm sáng tỏ khái

niệm, đặc điểm pháp lý về GDDS; làm rõ căn cứ pháp lý xác định GDDS vô
hiệu và phân tích thực tiễn giải quyết hậu quả pháp lý khi GDDS vô hiệu.
Việc nghiên cứu đề tài và hồn thành khóa luận này phải thực hiện
được các nhiệm vụ:
- Phân tích và lý giải nhằm làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của GDDS vô
hiệu và hậu quả pháp lý của GDDS vô hiệu;
- Nghiên cứu thực trạng và đánh giá hiệu quả của những quy định pháp
luật hiện hành về GDDS vô hiệu và các quy định về hậu quả pháp lý của
GDDS vô hiệu;
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật
về GDDS vô hiệu và cơ sở pháp lý để giải quyết hậu quả pháp lý của
GDDS vơ hiệu.
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của khóa luận tốt nghiệp, người viết tập trung nghiên
cứu các quy định của pháp luật dân sự, cũng như vấn đề thực tiễn về GDDS
vô hiệu và hậu quả pháp lý của GDDS vơ hiệu của Tịa án nhân dân.
5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận được sử dụng trong việc nghiên cứu đề tài luận
án là triết học Mác - Lênin. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả dựa trên các
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam liên quan đến đề tài của luận án.
Ngoài việc dựa trên phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin, trong quá trình nghiên cứu và hồn thiện luận án, tác giả
sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau như: so sánh pháp
luật, logic pháp lý, hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp, khảo sát thực tiễn... để làm
3


rõ vấn đề lý luận cũng như thực tiễn quá trình giải quyết các tranh chấp
GDDS vơ hiệu và hậu quả của nó trong giai đoạn hiện nay.

Tác giả cịn kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp so sánh
- Kết hợp giữa lý luận với thực tiễn
6. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của của khóa luận bao gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giao dịch dân sự vô hiệu và hậu
quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
Chương 2: Quy định của pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu và
thực tiễn giải quyết hậu quả về giao dịch dân sự vô hiệu
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
dân sự về giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của
giao dịch dân sự vô hiệu

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐÊ LÝ LUẬN VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU
VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU
1.1. Khái niệm và đặc điểm chung của GDDS
Giao dịch được hiểu một cách chung nhất là mối liên hệ phổ biến trong
xã hội loài người và đây cũng được xem là một trong những chế định pháp lí
cổ điển, nó xuất hiện từ rất lâu đời. Ngay từ trong giai đoạn sơ khai, khi mà
xã hội lồi người có sự phân cơng lao động và xuất hiện các hình thức trao
đổi hàng hố, thì giao dịch đã hình thành và giữ một vị trí quan trọng trong
việc điều tiết các quan hệ, từ đó dẫn đến việc chi phối các mối quan hệ khác
nhau trong xã hội, qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, cho đến ngày nay,

trong cuộc sống hiện đại thì giao dịch được xem là “cơng cụ” thơng dụng và
có hiệu quả, bảo đảm cho các quan hệ dân sự được thực hiện một cách linh
hoạt và có hệ thống, nhằm thúc đẩy giao lưu dân sự phát triển. Không những
thế, GDDS cịn là phương tiện pháp lí quan trọng giúp cho các công dân thoả
mãn nhu cầu vật chất, tinh thần trong sản xuất kinh doanh cũng như sinh hoạt
tiêu dùng.
Chính bởi tầm quan trọng như trên mà chế định về GDDS đã được đề
cập đến trong pháp luật của nhiều quốc gia khác nhau, điển hình như: Trong
BLDS của nước Nhật Bản cũng đã đưa ra chế định hành vi pháp lý đơn
phương bao trùm lên chế định hợp đồng và chế định thừa kế theo di chúc, còn
trong BLDS của nước Cộng hịa Pháp lại khơng đưa ra chế định GDDS mà lại
chỉ đưa ra chế định hợp đồng dân sự và chế định thừa kế. Cịn dưới góc độ
khoa học thì các nhà khoa học của Nhật Bản nhận định “GDDS là hành vi
hợp pháp nhằm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”.
Việt Nam chế định GDDS được quy định trong chương VI phần I của
BLDS nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 121 BLDS quy định
5


“GDDS là hợp đồng hoặc hành vi pháp lí đơn phương làm phát sinh, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Dưới góc độ khoa học thì các nhà
khoa học Việt Nam đề cập trong nhiều tài liệu với góc độ khác nhau về khái
niệm GDDS như sau: “GDDS là hành vi được thực hiện nhằm thu được kết
quả nhất định và pháp luật tạo điều kiện cho kết quả thành hiện thực”.
Nhìn chung, dù các nhà khoa học pháp lí có đưa ra khái niệm về GDDS
dưới góc độ nào đi chăng nữa thì đều khẳng định GDDS bao gồm:
Một là: Hợp đồng dân sự
Hai là: Hành vi pháp lí đơn phương.
Xét theo phương diện khách quan thì hợp đồng dân sự được hiểu là các
quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã

hội phát sinh trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể
với nhau.
Xét theo phương diện chủ quan thì hợp đồng được hiểu là sự thỏa thuận
giữa các chủ thể nhằm xác lập, thay đổi, hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ
trong các quan hệ xã hội cụ thể.
Tại điều 388 BLDS năm 2005 đã định nghĩa: “Hợp đồng dân sự là sự
thỏa thuận giữa các bên về việc chấm dứt, thay đổi các quyền và nghĩa vụ
dân sự”.
Ví dụ: Khi phát sinh hợp đồng mua bán tài sản giữa anh An và anh
Bình sẽ làm phát sinh quyền của anh An, tương ứng với nghĩa vụ của anh
Bình và ngược lại.
Hay nói cách khác thì hợp đồng dân sự là loại giao dịch phổ biến nhất,
thơng dụng nhất, nó phát sinh thường xuyên trong đời sống hàng ngày của
chúng ta và giữ vai trò quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ tài sản, nhất
là trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Hành vi pháp lí đơn phương là hành động thể hiện ý chí của một bên
nhằm làm phát sinh, phát triển hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự mà
6


khơng phụ thuộc ý chí của bên kia. Hiện nay thì hành vi pháp lý đơn phương
tồn tại cũng khá phổ biến, tác động đến nhiều mối quan hệ khác nhau.
Ví dụ như: Ơng An viết di chúc để lai tồn bộ tài sản cho anh Hùng là
con của Ơng. Như vậy, ý chí của người tặng tài sản khơng phụ thuộc vào ý
của người khác, nhưng bằng hành vi tặng tài sản theo đúng quy định của pháp
luật làm phát sinh một loại quan hệ pháp luật thuộc GDDS.
Thông thường hành vi pháp lý đơn phương do một chủ thể thực hiện,
nhưng cũng có thể do nhiều chủ thể thực hiện (tổ chức hoặc nhiều cá nhân…)
Ví dụ: Hành vi để lại tài sản cho một tổ chức cho một tổ chức.
Từ khái niệm GDDS có thể nhận thấy GDDS có những đặc điểm sau:

Thứ nhất: Phải thể hiện được ý chí của các bên tham gia giao dịch.
Giao dịch dấn sự đóng vai trị quan trọng trong cuộc sống của con người, nó
diễn ra hàng ngày, hàng giờ không ngừng chi phối nhu cầu đa dạng của con
người. Khi tham gia vào giao dịch, các chủ thể đều đạt mục đích nhất định
nhằm thoả mãn nhu cầu sản xuất, kinh doanh hoặc sinh hoạt, tiêu dùng.
Thứ hai: Các bên tham gia giao dịch phải tự nguyện. Đây là sự phản
ánh tính thống nhất ý chí của các bên, cho nên nó là một nguyên tắc quan
trọng để thiết lập nên giao dịch. Trong các GDDS nếu thiếu các yếu tố này
không thể coi là giao dịch được.
Thứ ba: Chế tài trong giao dịch mang tính chất bắt buộc nhưng cũng rất
linh hoạt. Pháp luật của phần lớn các nước trên thế giới hiện nay đều xây
dựng các chế định của GDDS trên nguyên tắc tự do thoả thuận, tự do cam kết
và xác định chế tài. Đây là nguyên tắc cơ bản của luật dân sự nói chung cũng
như GDDS nói riêng
Thứ tư: Nội dung của giao dịch không được trái pháp luật và đạo đức
xã hội. Trong GDDS khi tham gia giao dịch các chủ thể đều phải nhằm đạt
được một mục đích nhất định và mong muốn mục đích của mình trở thành
hiện thực. Do vậy, để đạt được mục đích ấy các chủ thể có quyền đặt ra
7


những yêu cầu, cam kết phù hợp với ý chí của mình. Tuy nhiên các cam kết
đó khơng được trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Từ khái niệm, đặc điểm của GDDS đã cho thấy tầm quan trọng của
GDDS trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, cụ thể như:
+ Là cơ sở pháp lí để giải quyết các tranh chấp xảy ra
+ Bảo đảm cho việc kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể khi tham gia giao dịch
+ Góp phần ổn định trong quan hệ sở hữu tài sản
Như vậy chế định giao dịch có ý nghĩa hết sức quan trọng, thiết thực

góp phần thúc đẩy các giao lưu dân sự phát triển, phù hợp với quá trình phát
triển của nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh như hiện nay, đồng thời giúp
các chủ thể tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh, khắc phục những thiệt
hại có thể xảy ra đối với các bên tham gia giao dịch, góp phần ổn định trong
quan hệ sở hữu tài sản nói riêng và quan hệ dân sự nói chung.
1.2. Khái niệm và đặc điểm chung về GDDS vô hiệu
Vô hiệu hiểu theo nghĩa thơng thường là: “khơng có hiệu lực, khơng có
hiệu quả”. Như vậy có thể suy ra là GDDS vơ hiệu là giao dịch không tồn tại
theo quy định của pháp luật, khơng có hiệu lực pháp lí. Theo quy định trong
BLDS Việt Nam thì để xác định một GDDS vơ hiệu căn cứ vào quy định tại
điều 127 “GDDS không có một trong các điều kiện quy định tại điều 122 thì
vơ hiệu”.
Như vậy, GDDS vơ hiệu là GDDS mà các chủ thể tham gia giao dịch
không tuân thủ theo các điều kiện mà pháp luật quy định đối với GDDS có
hiệu lực pháp luật. Do đó dẫn đến hậu quả là không làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể tham gia giao dịch. Đối với một GDDS vơ hiệu thì
cho dù các bên tham gia giao kết đã thực hiện hoặc thực hiện một phần của
giao dịch theo cam kết của các bên… thì vẫn khơng được công nhận về mặt
8


pháp lí và mọi cam kết khơng có giá trị bắt buộc đối với các bên kể từ thời
điểm các bên xác lập giao dịch đó.
Ví dụ như: Anh Nguyễn Bình Minh và anh Mai Anh Phúc có ký với
nhau hợp đồng mua bán 100 con sếu đầu đỏ (sếu đầu đỏ là loài động vật quý
hiếm, nhà nước cấm khai thác, mua bán). Như vậy, giao dịch trên đương
nhiên là vơ hiệu, khơng có giá trị pháp lý ngay từ thời điểm giao kết vì giao
dịch trên đã vi phạm điều cấm của pháp luật.
Xuất phát từ khái niệm, cũng như các quy định trong BLDS năm 2005
về GDDS vơ hiệu cho thấy GDDS vơ hiệu thường có những đặc điểm chung

như sau:
Một là: không đáp ứng một trong các điều kiện theo quy định của pháp
luật đối với GDDS có hiệu lực như:
* Khơng đáp ứng điều kiện về năng lực hành vi dân sự của người tham
gia giao dịch:
Khi các chủ thể tham gia vào GDDS thì phải có đầy đủ năng lực pháp
luật và năng lực hành vi dân sự. Năng lực pháp luật được hiểu là năng lực vốn
có của các chủ thể, năng lực này được pháp luật quy định là có từ khi người
đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết. Năng lực pháp luật của các chủ thể
sẽ không bị ảnh hưởng bởi các trạng thái tinh thần, tuổi tác, hồn cảnh, tài
sản… Cịn năng lực hành vi được pháp luật quy định là: Khả năng của các cá
nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự.Như
vậy khi các chủ thể bằng hành vi của mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ
dân sự nhất định trong các GDDS cụ thể thì bản thân các chủ thể đó phải đáp
ứng đầy đủ năng lực hành vi dân sự nêu trên.
Pháp luật chia thành các mức độ hành vi dân sự dựa trên độ tuổi và
trình độ nhận thức. Nếu chủ thể là cá nhân thì phải là người từ đủ 18 tuổi trở
lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có nghĩa là các chủ thể này không bị
mắc các bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà pháp luật quy định là mất năng
9


lực hành vi dân sự. Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có năng lực hành
vi chưa đầy đủ, nhưng khi xác lập, thực hiện GDDS đã có sự đồng ý của
người đại diện theo pháp luật, hoặc có thể tự mình thực hiện, xác lập những
GDDS nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thực hiện các giao dịch trong phạm
vi số tài sản riêng của mình (trừ trường hợp là lập di chúc phải có sự đồng ý
của cha, mẹ hoặc người giám hộ). Trừ trường hợp bị tòa án tuyên bố mất năng
lực hành vi dân sự, tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Ngược lại, nếu các chủ thể khi tham gia GDDS mà không thỏa mãn các
điều kiện trên đây thì đương nhiên vơ hiệu. Cụ thể như những trường hợp
tham gia giao dịch không có năng lực hành vi dân sự, hoặc có năng lực hành
vi dân sự một phần, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự… mà pháp luật không
cho phép tham gia GDDS một cách độc lập.
Ví dụ như: Người đủ 18 tuổi nhưng lại bị mắc bệnh tâm thần, hoặc các
bệnh khác dẫn đến bị mất năng lực hành vi dân sự, hoặc hạn chế hành vi dân
sự theo quyết định của tòa án. Hoặc người dưới 6 tuổi (thuộc vào trường hợp
mất năng lực hành vi dân sự) thì thực hiện mọi hành vi dân sự cũng đều
được xem là vơ hiệu, khơng có giá trị pháp lý và sẽ khơng được pháp luật
cơng nhận.
Di chúc muốn có hiệu lực thì chủ thể lập di chúc cũng phải thỏa mãn
đầy đủ các quy định về chủ thể mà pháp luật dân sự quy định. Người lập di
chúc phải là người minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc, không bị lừ
dối, đe dọa, nếu là người từ đủ 18 tuổi trở lên thì phải là người có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ, không bị mắc các bệnh tâm thần, hoặc các bệnh khác
mà pháp luật quy định bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Nếu di chúc do chủ
thể từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thì di chúc đó phải được lập thành văn
bản, phải có cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.

10


* Mục đích và nội dung của giao dịch khơng đáp ứng đầy đủ yêu cầu
của pháp luật hoặc trái với đạo đức xã hội:
Mục đích của GDDS chính là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn
đạt được khi xác lập giao dịch, còn nội dung của GDDS là tổng hợp các điều
khoản mà các bên đã cam kết, thỏa thuận GDDS (điều khoản xác định quyền,
nghĩa vụ của các bên). Trong GDDS thì yếu tố thể hiện ý chí là một trong các
nguyên tắc chủ yếu và đặc trưng của GDDS. Theo nguyên tắc này chủ thể

tham gia giao dịch có quyền tự do thể hiện ý chí của mình, tự do trong việc
quyết định nội dung, hình thức của giao dịch, thể hiện khi xác lập giao dịch
thì các chủ thể có quyền tự do lựa chọn đối tác, tự do thoả thuận nội dung của
giao dịch, hình thức giao kết. Nhưng sự tự do đó khơng mang tính tuyệt đối
mà bị ràng buộc trong khn khổ pháp luật cho phép. Sự ràng buộc này chính
là sự hạn chế do của các chủ thể khi tham gia giao dịch, nếu chủ thể tham gia
giao dịch không tuân theo sự hạn chế của pháp luật dẫn tới GDDS vơ hiệu,
điều này cũng có nghĩa là một khi mục đích và nội dung của GDDS vi phạm
điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì giao dịch đó cũng đương nhiên
vơ hiệu.
* Chủ thể tham gia giao dịch khơng tự nguyện
Trong GDDS thì sự tự nguyện ý chí của các chủ thể là rất quan trọng,
vì vậy mà các chủ thể khi tham gia vào GDDS phải thể hiện ý chí đích thực
của mình trong khn khổ pháp luật cho phép mà không bị sự ép buộc của bất
kỳ một yếu tố nào khác.
Ví dụ: Anh A với anh B, tiến hành thỏa thuận và đi đến giao kết với
nhau một hợp đồng mua bán nhà đất của anh B, thì GDDS này chỉ có hiệu lực
khi sự ký kết của hai bên đảm bảo tất cả các điều kiện để một GDDS có hiệu
lực như: Điều kiện về mục đích, nội dung, hay hình thức, và điều quan trọng
là việc ký kết này phải xuất phát từ sự tự nguyện của các bên tham gia giao
dịch, có nghĩa là việc anh A và anh B ký với nhau hợp đồng mua bán đất là
11


xuất phát từ ý chi và nguyện vọng của hai bên, không bị một yếu tố quyền lực
nào từ bên ngoài chi phối, ép buộc, gây áp lực để bắt các bên thực hiện giao
kết hợp đồng, còn nếu xuất hiện sự ép buộc dẫn đến việc ký kết thì hợp đồng
đương nhiên vơ hiệu. Do đó bất kỳ thỏa thuận nào mà khơng phản ánh đúng ý
chí của các bên tham gia vào giao dịch thì đều dẫn đến sự vơ hiệu của GDDS
* Hình thức giao dịch khơng đúng với quy định của pháp luật

Bên cạnh nội dung của GDDS thì hình thức của GDDS cũng là một yếu
tố vô cùng quan trọng của mối giao dịch. Tùy vào mỗi tình huống GDDS cụ
thể mà việc quy định hình thức để giao dịch có hiệu lực cũng rất khác nhau.
Có thể bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Khi các chủ thể
tham gia vào GDDS mà không đáp ứng các điều kiện về hình thức này thì
đương nhiên giao dịch đó cũng được xem là GDDS vơ hiệu. Các hình thức
giao dịch khác nhau thì lại có những quy định khác nhau về hình thức
Trước hết là hình thức bằng miệng (bằng lời nói): Đây được xem là
hình thức phổ biến nhất trong hoạt động GDDS trong xã hội ta hiện nay, phần
lớn các giao dịch này ít chịu sự chi phối của các quy định của pháp luật về
hình thức giao dịch, nhưng bên cạnh đó cũng có giao dịch được xác lập bằng
miệng, những phải tuân thủ các quy định của pháp luật, nếu khơng tn thủ
thì giao dịch đó cũng đương nhiên vơ hiệu.
Ví dụ như: Theo quy định tại khoản 5 Điều 652 BLDS năm 2005 thì
“Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí
cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó
những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời
hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di
chúc phải công chúng hoặc chứng thực”. Như vậy trong trường hợp lập di
chúc bằng miệng mà chủ thể lập di chúc không thỏa mãn các điều kiện trên
đây như là: Khơng có người chứng kiến, hoặc có mà khơng đủ số lượng, có
đủ người chứng kiến nhưng những người đó lại không ghi chép lại, không ký
12


tên, hay có ghi chép, có ký tên nhưng lại khơng cơng chứng, chứng thực thì di
chúc đó đã vi phạm điều kiện về hình thức miệng của di chúc, và di chúc
được lập bằng hình thức miệng đó cũng được xem là vơ hiệu.
Hình thức GDDS thứ hai, được áp dụng phổ biến, rộng rãi hơn trong
các GDDS là hình thức bằng văn bản. Văn bản lại chia làm hai loại, đó là:

Văn bản thường và văn bản có công chứng chúng thực, văn bản thường áp
dụng trong trường hợp các bên trong giao dịch tự thỏa thuận hoặc pháp luật
quy định giao dịch phải thể hiện bằng hình thức văn bản, có chữ ký xác nhận
của các bên, ví dụ: hợp đồng th nhà dưới 6 tháng…. Cịn hình thức văn bản
thứ 2 là văn bản có cơng chúng, chứng thực
Từ thực tế trên cho thấy việc quy định một số loại giao dịch phải tuân
thủ các quy định về hình thức là cơ sở để các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền kiểm tra, giám sát việc chuyển dịch các tài sản có giá trị lớn.
Do đó mỗi chủ thể tham gia giao dịch phải tùy vào hồn cảnh để lựa
chọn các hình thức giao dịch đó, sao cho vừa đảm bảo quyền lợi của các chủ
thể mà không vi phạm các quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của
giao dịch.
Hai là: Các bên tham gia giao dịch phải gánh chịu hậu quả pháp lí
nhất định
Khi GDDS vơ hiệu, trở lại trạng thái ban đầu, các bên tham gia giao
dịch hoàn lại cho nhau những gì đã nhận. Về mặt lí thuyết thì đây là sự tổn
thất của các bên, vì các bên khơng đạt được mục đích như đã mong muốn đó
là xác lập giao dịch để đáp ứng nhu cầu hoặc vật chất của mình mà phải quay
lại tình trạng như trước khi tham gia giao dịch. Tuy nhiên về mặt thực tế khi
tun bố giao dịch vơ hiệu có bên được hưởng lợi, có bên thiệt hại, có thể nói
đây là vấn đề phức tạp nhất khi giải quyết hậu quả pháp lí GDDS vơ hiệu
trong thực tế.

13


Khi GDDS vơ hiệu thì quyền và nghĩa vụ các bên coi như không được
xác lập kể từ điểm xác lập giao dịch, cũng đồng nghĩa với việc giao dịch đó
khơng có hiệu lực pháp lý trên thực tế:
Từ những phân tích trên và qua việc xác định đặc điểm chung của

GDDS vơ hiệu, có thể đi đến một khái niệm khoa học về GDDS vô hiệu như
sau: “GDDS vô hiệu là loại giao dịch mà khi xác lập các bên (hoặc chủ thể có
hành vi pháp lí đơn phương) đã có vi phạm ít nhất một trong các điều kiện có
hiệu lực do pháp luật quy định dẫn tới hậu quả pháp lí mà khơng làm phát
sinh bất kì một quyền hay nghĩa vụ dân sự nào”. Và lúc này thì các bên tham
gia giao dịch phải áp dụng các quy định về hậu quả pháp lý của hợp đồng vô
hiệu theo quy định tại điều 137 BLDS năm 2005.
1.3. Phân loại GDDS vô hiệu
Khi phân loại GDDS vô hiệu, thơng thường, các nhà khoa học căn cứ
vào tính trái pháp luật dẫn đến giao dịch vô hiệu để phân ra thành giao dịch
vô hiệu tuyệt đối và GDDS vô hiệu tương đối. GDDS vô hiệu tuyệt đối là
GDDS khơng có hiệu lực ngay từ khi giao kết, khơng có giá trị về mặt pháp
lý, khơng làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Do vậy, kể cả trường
hợp các bên tham gia giao dịch đã ký kết và thực hiện sẽ khơng có giá trị
pháp lý. Các bên phải chấm dứt thực hiện và quay lại tình trạng ban đầu và
hồn lại cho nhau những gì đã nhận.
Ví dụ: Trong trường hợp ơng Hồng ký với ông Long hợp đồng mua
bán gố quý hiếm, nhưng loại gỗ này được nhà nước bảo vệ, cấm khai thác, do
đó giao dịch trên sẽ vơ hiệu tồn bộ (vì hợp đồng ký kết trên đã vi phạm điều
cấm của pháp luật theo quy định tại điều 128 BLDS năm 2005)
Cịn đối với giao dịch vơ hiệu tương đối là loại giao dịch có khả năng
khắc phục, nó được coi là một loại GDDS có thể có hiệu lực nhưng cũng có
thể bị vơ hiệu theo sự lựa chọn của một trong các bên tham gia giao dịch.
14


Giao dịch này thông thường không xâm phạm trật tự cơng cộng và đạo đức xã
hội và chỉ có thể bị vơ hiệu đối với bên có lỗi mà khơng bị vơ hiệu đối với
bên khơng có lỗi. Khi xác định GDDS vơ hiệu thì các quyền và nghĩa vụ của
các bên đã thỏa thuận đều khơng có giá trị pháp lý, cịn trong trường hợp giao

dịch đó được thừa nhận sau khi đã khắc phục thì đương nhiên quyền và nghĩa
vụ của các bên sẽ được pháp luật bảo hộ, bảo vệ theo sự cam kết của các bên,
giao dịch khắc phục được coi là giao dịch mới.
Còn đối với giao dịch vơ hiệu tuyệt đối thì lại hồn toàn khác. Đây
thường là giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật nên trong thực tế Tòa án
và các cơ quan có thẩm quyền khơng cho phép khắc phục cho dù các bên
mong muốn được khắc phục. Giao dịch này khơng có hiệu lực ngay từ thời
điểm ký kết, cho dù nó có bị Tịa án tun bố vơ hiệu hay không
Đối với GDDS vô hiệu tuyệt đối tất cả những người liên quan đến giao
dịch đều có quyền u cầu Tịa án tun bố giao dịch vơ hiệu, cịn đối với
GDDS vơ hiệu tương đối thì chỉ có người nào được pháp luật bảo vệ mới có
quyền yêu cầu Tịa án tun bố giao dịch vơ hiệu. Pháp luật quy định thời
hiệu khởi kiện đối với giao dịch tuyệt đối là vơ thời hạn, cịn đối với giao dịch
vơ hiệu tương đối thì thời hiệu khởi kiện được nhà lập pháp quy định một thời
gian nhất định. Việc phân loại này có ý nghĩa cả trong lý luận và thực tiễn, vì
khi đưa ra các biện pháp xử lý các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng
pháp luật có thể cân nhắc các giải pháp tối ưu để quyền và nghĩa vụ của các
bên ít bị ảnh hưởng, tổn thất.
Nếu căn cứ vào thời hiệu khởi kiện thì xếp giao dịch vơ hiệu về hình
thức là giao dịch vơ hiệu tuyệt đối, cịn căn cứ vào tiêu chí có khả năng khắc
phục thì giao dịch vơ hiệu về hình thức là giao dịch vơ hiệu tương đối... Trong
trường hợp này, cần xác định hình thức của giao dịch chỉ là điều kiện khi thực
hiện việc xác lập giao dịch, nếu các bên tham gia giao dịch không thực hiện

15


điều kiện theo đúng hình thức thì giao dịch vơ hiệu, nó khơng thuộc loại
GDDS vơ hiệu tương đối hay GDDS vơ hiệu tuyệt đối.
Nhìn chung, GDDS vơ hiệu là GDDS mà các chủ thể tham gia giao

dịch không tuân thủ theo các điều kiện mà pháp luật quy định đối với GDDS
có hiệu lực pháp luật. Hậu quả là không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể tham gia giao dịch. Đối với một GDDS vô hiệu thì cho dù các bên
tham gia giao kết đã thực hiện hoặc thực hiện một phần của giao dịch theo
cam kết của các bên... thì vẫn khơng được cơng nhận về mặt pháp lý và mọi
cam kết khơng có giá trị bắt buộc đối với các bên kể từ thời điểm các bên xác
lập giao dịch đó.
1.4. Quy định về GDDS vô hiệu trong pháp luật dân sự Việt Nam qua các
thời kỳ
1.4.1. GDDS vô hiệu dưới thời nhà Lê và nhà Nguyễn
Trong các đạo luật phong kiến Việt Nam khơng có khái niệm về giao
dịch mà chỉ nêu các loại khế ước chung như: mua bán, cho thuê, cho vay... và
chế định về thừa kế.
Một là: Đối với các quy định về khế ước
Xuất phát từ chính sách: “Trọng nơng ức thương’’ của triều đình phong
kiến mà luật phong kiến Việt Nam lúc này không quy định rõ vấn đề nghĩa vụ
khế ước, nội dung của các loại khế ước. Tuy vậy trong Luật Hồng Đức hay
Luật Gia Long cũng có ghi nhận về các loại khế ước chung như: Mua bán,
cho thuê, cho vay... và Luật Hồng Đức cũng được xem là đỉnh cao của lịch sử
lập pháp của thời kỳ phong kiến nước ta lúc bấy giờ. Về GDDS thời kỳ này
có những đặc điểm sau:
+ Về tự do khế ước: Luật khơng có một điều khoản nào quy định về tự
do khế ước nhưng cho phép mọi người tự do giao kết khế ước với nhau, Luật
chỉ can thiệp khi việc kết lập khế ước vi phạm thuần phong mĩ tục hay rối
16


loạn xã hội. Luật của nước ta lúc bấy giờ ghi nhận và đảm bảo nguyên tắc tự
do khế ước, nghiêm trị các hành vi cưỡng bức giao kết thế ước. Ví dụ: Điều
355 Luật Hồng Đức quy định: “Người nào ức hiếp mua ruộng đất của người

khác thì bị xử biếm hai tư, cho được trả tiền mua”. Như vậy trong trường hợp
khơng có sự tự nguyện của một bên trong khế ước thì cũng bị coi là vơ hiệu.
+ Về việc Quy định Khế ước dân sự vô hiệu do người mất năng lực
hành vi thực hiện: Trong luật Gia Long quy định, đối với người thác loạn tinh
thần, họ phải bị xiềng xích, trơng nom cẩn thận. Vì vậy, họ khơng thể được
giao kết khế ước, kể cả trong lúc họ tỉnh táo.
+ Về hình thức của khế ước
Về nguyên tắc chung trong luật phong kiến, khi đương sự đồng ý nội
dung của khế ước, đối với các kế ước không quan trọng hoặc giá trị không lớn
như: mua bán vật thông thường, vay mượn thời gian ngắn, số lượng ít...
khơng phải lập giấy tờ. Cịn đối với vật có giá trị tương đối lớn gồm: nhà cửa,
đất đai, số tiền lớn, trâu bò... phải lập giấy tờ, tức là phải lập thành văn bản
các bên cùng ký. Trong văn bản ghi rõ quyền và nghĩa vụ của các bên. Nếu
người khơng biết chữ có thể nhờ người khác viết thay và chứng kiến.
Hai là: Đối với thừa kế theo di chúc
Pháp luật thời phong kiến đó đều dựa trên nguyên tắc "tôn trọng ý
muốn và quyết định của người có tài sản". Tuy nhiên, bị chi phối bởi các tư
tưởng nho giáo mà Nhà nước đã đề lên thành luật, quy định về thừa kế chỉ đề
cập tới một loại tài sản duy nhất đó là điền thổ, di chúc dưới dạng văn bản gọi
là chúc thư, người lập di chúc tự lập văn bản, nếu trong trường hợp khơng tự
lập được thì nhờ xã trưởng lập hộ (Điều 366 Quốc triều hình luật). Trong mọi
trường hợp chứng thư không tuân thủ theo quy định về hình thức thì sẽ khơng
có giá trị pháp lý, tài sản thừa kế được chia theo pháp luật quy định.

17


Còn trong Bộ luật Gia Long vấn đề thừa kế theo di chúc đã được đề cập
đến tại điều 388: “Nếu có mệnh lệnh của cha mẹ, phải làm theo đúng. Vi
phạm điều này sẽ mất phần của mình’’.

1.4.2. Các quy định về GDDS dưới thời Pháp thuộc
Thời Pháp thuộc, lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, luật dân sự được
ban hành với tư cách là luật độc lập. Các bộ luật trong thời kỳ này gồm: Bộ
Dân Luật Giảm Yếu năm 1883, Bộ Dân Luật Bắc Kỳ năm 1931 và Bộ Hồng
Việt Trung Kỳ năm 1936 - cịn gọi là Bộ Dân Luật Trung Kỳ. Nhìn chung,
các bộ luật này chịu ảnh hưởng trực tiếp của Bộ dân luật Pháp năm 1804
nhưng đã sửa đổi cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, phong tục tập
quán của Việt Nam
+ Quy định về khế ước
Theo quy định thời Pháp thuộc thì một khế ước được hình thành khi có
các điều kiện sau:
- Phải có sự thống nhất ý chí giữa các bên về hình thức, nội dung khế
ước và mọi điểm mà các bên đã đưa ra thỏa thuận.
- Phải xác định rõ đối tượng của khế ước, đối tượng phải thuộc quyền
sở hữu hoặc quyền sử dụng hợp pháp của các bên.
- Phải có một việc đích thực chính đáng.
Khế ước vơ hiệu là khế ước khơng có một trong các điều kiện làm cho
khế ước hợp pháp, cụ thể là:
- Trái với nguyên tắc tự do giao kết khế ước như
Về hậu quả của khế ước thì pháp luật thời Pháp thuộc khơng quy định
cụ thể về vấn đề này mà chỉ nêu chung chung: “Nghĩa vụ.... có sự giả dối
hoặc phi pháp thì khơng có hiệu lực gì”
+ Về thừa kế theo di chúc
Pháp luật thừa kế được quy định trong các Bộ dân luật Bắc kỳ và
Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật chủ yếu dựa trên khuôn mẫu của BLDS
18


Napoleon của Pháp, so với pháp luật thời nhà Lê và thời nhà Nguyễn thì có
quy định chi tiết hơn. Theo Điều 321 Dân luật Bắc kỳ và Điều 313 Hồng

Việt Trung kỳ hộ luật, thì chỉ có những người đã thành niên hoặc đã thốt
quyền, có đủ trí khơn thì có quyền để lại di chúc (quy định tại Điều 261 và
Điều 262 Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật
1.4.3. Thời kỳ từ năm 1945 đến nay
Thời kỳ nước ta mới giành được độc lập chưa có điều kiện ban hành
văn bản pháp luật để thay thế những bộ luật của chế độ cũ. Nhà nước thời bấy
giờ tạm sử dụng một số luật lệ ban hành ở Bắc - Trung - Nam với nguyên tắc:
Những luật lệ ấy không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và
chính thể dân chủ cộng hịa
Sau khi có Hiến pháp mới năm 1959, Tòa án tối cao đã ra Chỉ thị số
772/CT-TATC về việc đình chỉ áp dụng của luật lệ của đế quốc, phong kiến,
ở miền nam chính quyền Nguyễn Văn Thiệu cũng cơng bố thi hành BLDS
của chính quyền Sài
Đến thời kỳ thay đổi nền kinh tế từ kế hoạch hóa sang kinh tế thị trường,
lúc này cần thiết phải có BLDS ra đời thay thế các văn bản pháp luật này.
Năm 1995 BLDS được ban hành và có hiệu lực kể từ ngày 01/71996,
đồng thời chấm dứt hiệu lực của pháp lệnh hợp đông dân sự năm 1991, BLDS
đã xóa bỏ được những tàn dư của chế độ phong kiến mang tính chất cổ hủ, lạc
hậu và bất bình đẳng trong xã hội, đồng thời tiếp thu được những tinh hoa của
pháp luật trước đó và pháp luật quốc tế. Có thể nói rằng, chúng ta đã có
BLDS mang tính ưu việt của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều
kiện kinh tế - chính trị - xã hội của nước ta.
Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa án về GDDS được
xác lập và thực hiện trước khi có BLDS phải áp dụng các văn bản trước đây
để giải quyết, nhưng các văn bản thời kỳ này mang tính chắp vá, cịn nhiều
điều khoản chưa phù hợp. BLDS năm 1995 ra đời nhưng Pháp lệnh hợp đồng
19



×