Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tài liệu Hội chứng mệt mỏi mạn tính doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.44 KB, 5 trang )

Hội chứng mệt mỏi mạn tính

Hội chứng mệt mỏi mạn tính là tên gọi đối với những rối loạn đặc trưng bởi
sự mệt mỏi, yếu sức và những khó chịu khác về cơ thể, thể trạng và thần kinh tâm
lý như mệt mỏi, khó tập trung sự chú ý, đau đầu, đau cơ, đau khớp, khó ngủ, các
rối loạn tâm lý, đau họng, sốt nhẹ... Hội chứng mệt mỏi mạn tính gặp nhiều ở nữ
giới gấp 2 lần nam giới, hay gặp ở lứa tuổi từ 25 đến 45. Tình trạng mệt mỏi mạn
tính là một triệu chứng thường gặp ở bất kỳ một căn bệnh nào và gặp ở khoảng
20% số bệnh nhân đến khám bệnh ở phòng khám đa khoa.

Mệt mỏi mạn tính tác động đến hệ thần kinh và nội tiết của người bệnh
Hội chứng mệt mỏi mạn tính thường gặp sau nhiễm virut kết hợp với các
rối loạn miễn dịch và thường kèm theo trầm cảm. Có một số virus (Herpes,
Retrovirus, Enterovirus...) là các tác nhân gây bệnh tiềm tàng. Các virut này có
khả năng tồn tại lâu trong cơ thể và gây ra các bệnh mạn tính. Những nghiên cứu
gần đây đối với những bệnh nhân bị hội chứng mệt mỏi mạn tính thấy rằng có sự
bất thường về chức năng nội tiết làm giảm sản xuất hormon giải phóng
corticotropin ở vùng dưới đồi. Độ tập trung cortisol trung bình thấp hơn người
bình thường, mức độ ACTH lại cao. Có những bất thường về thần kinh - nội tiết
có thể góp phần làm ảnh hưởng đến sinh lực và khí sắc của người bệnh. Những
thay đổi này càng chứng tỏ bản chất phức tạp và đa nguyên nhân của hội chứng
mệt mỏi mạn tính. Trầm cảm mức độ từ nhẹ đến vừa được thấy ở 2/3 bệnh nhân.
Có thể nhiều bệnh nhân bị trầm cảm phản ứng, nhưng tỷ lệ cao hơn rất nhiều so
với những bệnh thực thể mạn tính khác.
Khó phát hiện bệnh cụ thể ở người mệt mỏi mạn tính
Trong trường hợp điển hình, hội chứng mệt mỏi mạn tính khởi phát đột
ngột ở những người trước đây vốn năng động. Một số bệnh nhân có một vài sự
căng thẳng cấp tính. Mệt mỏi dai dẳng hoặc tái phát hoặc dễ bị mệt mỏi không thể
chịu đựng được, không đỡ sau khi nghỉ ngơi. Những triệu chứng khác như đau
đầu, đau họng, sưng hạch, đau cơ và đau khớp. Bệnh nhân thường có sốt nhẹ làm
cho ta có thể nhầm lẫn với một số bệnh nhiễm khuẩn. Sau vài tuần, những dấu


hiệu này giảm dần đi thì những triệu chứng khác đặc trưng của hội chứng trở nên
rõ rệt hơn như rối loạn giấc ngủ, khó tập trung sự chú ý và trầm cảm. Người bệnh
thường đi khám chuyên khoa dị ứng, tim mạch, truyền nhiễm, tâm thần... song
thường không tìm ra bệnh. Khi mô hình của bệnh đã được thiết lập, triệu chứng có
thể có một vài thay đổi. Vào giai đoạn mà mệt mỏi đạt cao điểm, người bệnh
thường cảm thấy đau ở nhiều nơi và khó tập trung được sự chú ý. Người bệnh
cũng cảm thấy căng thẳng quá mức về thể xác và tinh thần có thể làm triệu chứng
của họ trầm trọng hơn. Phần lớn bệnh nhân vẫn duy trì được các công việc gia
đình hay nơi làm việc. Một số người cảm thấy không đủ khả năng thực hiện bất kỳ
một công việc nào. Thậm chí một số bệnh nhân yêu cầu được giúp đỡ trong các
hoạt động sinh hoạt hằng ngày. Cuối cùng cảm giác bị cô lập, sự cam chịu và sự
hẫng hụt có thể xuất hiện theo tiến trình kéo dài của bệnh. May mắn là hội chứng
mệt mỏi mạn tính không tiến triển thêm. Ngược lại, nhiều bệnh nhân cảm thấy
bệnh đỡ dần và cuối cùng bình phục.
Thăm khám lâm sàng và làm các xét nghiệm cận lâm sàng thường quy cần
được tiến hành để tìm ra các nguyên nhân khác gây ra triệu chứng mệt mỏi này.
Tuy nhiên, không có xét nghiệm cận lâm sàng nào là đặc hiệu để có thể chẩn đoán
được trạng thái này hay đo được mức độ trầm trọng của bệnh. Bệnh nhân và bác sĩ
đều có chung một tình trạng khó xử là hội chứng mệt mỏi mạn tính không có triệu
chứng bệnh lý đặc trưng mà là một tập hợp các triệu chứng và phải dựa vào chẩn
đoán loại trừ.
Mệt mỏi mạn tính cần được chăm sóc và điều trị lâu dài
Người bệnh cần được biết về bệnh và bệnh sinh của nó, ảnh hưởng của nó
đối với cơ thể, tâm lý và xã hội, cũng như tiên lượng của bệnh. Bệnh nhân thường
cảm thấy yên tâm hơn khi những khó chịu của họ được bác sĩ hay người nhà quan
tâm. Cần tái khám định kỳ để đánh giá tiến triển của quá trình điều trị cũng như
những triệu chứng mới phát sinh. Có nhiều triệu chứng của hội chứng mệt mỏi
mạn tính đáp ứng với điều trị. Thuốc chống viêm giảm đau không steroid làm
giảm đau đầu, đau lan tỏa và sốt nhẹ. Viêm mũi và viêm xoang dị ứng thường hay
gặp ở các bệnh nhân này do vậy các loại thuốc kháng histamin có thể có lợi. Mặc

dù các bệnh nhân không muốn được chẩn đoán là tâm thần nhưng vẫn cần phải đối
mặt với triệu chứng trầm cảm nổi bật. Thuốc chống trầm cảm làm an dịu, cải thiện
khí sắc và rối loạn giấc ngủ do đó phần nào làm giảm mệt mỏi. Thậm chí chỉ cải
thiện triệu chứng ở mức độ vừa cũng đã đủ gây ra một ảnh hưởng tốt đối với sự tự
tin và khả năng cảm nhận niềm vui cuộc sống của người bệnh. Thầy thuốc cần đưa
ra các lời khuyên về lối sống lành mạnh. Ăn nhiều, uống rượu và cà phê vào ban
đêm có thể gây khó ngủ cùng với cảm giác mệt mỏi. Nghỉ ngơi hoàn toàn là có
hại, nó làm cho tình trạng bệnh lý xấu đi và bệnh nhân tự cho mình là tàn phế.
Cảm giác bị kiệt sức tăng lên nếu quá cố gắng hoạt động, căng thẳng... do vậy sẽ
làm cho bệnh nhân né tránh hoàn toàn sự luyện tập. Vì vậy cần khuyên bệnh nhân
có một chế độ hoạt động thể lực và lao động sinh hoạt phù hợp. Các thầy thuốc
cần khuyến khích và động viên tinh thần cho bệnh nhân. Liệu pháp tâm lý rất có
hiệu quả nhằm xua tan những nhận thức sai lệch làm người bệnh không chịu hoạt
động và thất vọng. Các thầy thuốc cần áp dụng tổng hợp các phương pháp tiếp cận
về mặt thể chất, tâm lý và xã hội.

×