Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng của ngành ngân hàng tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.59 KB, 21 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đã là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới từ ngày
7/1/2007. Ngành tài chính Ngân hàng Việt Nam sẽ mở cửa hội nhập mạnh mẽ với khu
vực và thế giới. Đến năm 2010, các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam sẽ
được đối xử bình đẳng như các ngân hàng trong nước. Theo dự đoán của các chuyên gia
trong ngành, nếu khơng có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt để nâng cao năng lực cạnh
tranh, các ngân hàng Việt Nam sẽ khó tồn tại khi có sự lấn sân ngày càng sâu của ngân
hàng ngoại.
Thực tiễn đã cho thấy thất bại của các ngân hàng Việt Nam trong hoạt động tín
dụng gắn chặt với lý do thiếu hiểu biết về khách hàng. Với mong muốn tìm hiểu một cách
sâu sắc hơn về thực trạng dịch vụ tín dụng và những khó khăn của ngân hàng Việt Á để
từ đó đưa ra giải pháp khả thi nhằm phát triển dịch vụ tín dụng một cách hiệu quả nhất,
nhóm chúng tôi đã chọn “Thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng của ngành
ngân hàng tại Việt Nam” làm đề tài cho bài tiểu luận kết thúc môn học “Kinh tế vi mô”.
Xuất phát từ thực tiễn cung cấp dịch vụ tín dụng trong thời gian qua tại Việt Nam
nhóm thực hiện đưa ra ba mục tiêu nghiên cứu chính như sau:
(1) Xác định mức độ thơng tin bất cân xứng giữa những giữa ngân hàng và khách
hàng
(2) Xác định các yếu tố nào có tác động mạnh đến mức độ thơng tin bất cân xứng
trên thị trường tín dụng hiện nay.
(3) Gợi ý chính sách cần thiết nhằm làm giảm thông tin bất cân xứng.


Chương 1: TÌNH TRẠNG THƠNG TIN BẤT CÂN
XỨNG TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÀNH
NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
1.1. Lý thuyết về thông tin bất cân xứng
1.1.1. Giới thiệu sơ lược về lịch sử lý thuyết thông tin bất cân xứng
G.A.Akerlof (1970)
Theo Auronen (2003, tr.7), người đầu tiên giới thiệu về lý thuyết thông tin bất cân
xứng là G.A. Akerlof (1970). Trong quá trình nghiên cứu tình huống mua bán xe Ơ tơ


trên thị trường, Ơng cho rằng người bán xe có tính chủ động hơn đối với người mua.
Người bán có thể biết rõ đặc tính của chiếc xe mình muốn bán và muốn bán với giá cao.
G.A. Akerlof giả định rằng: xác suất để mua xe tốt là q thì xác suất mua xe xấu là
(1-q) (thị trường được phân loại xe tốt và xấu). Khi đó mức giá trung bình (P) được giả
định mua xe là: P = P1q + P2(1-q).
Trong đó: P1 là giá xe tốt; P2 là giá xe xấu.
Ông lại cho rằng người mua xe tiềm năng xem mức giá của các loại xe tốt hay xấu
là ngang nhau, vì họ khơng thể phân biệt đặc tính của xe nên họ chỉ có thể mua xe (bất kể
tốt hay xấu) tại mức giá trung bình trên thị trường. Thực tế, đối với xe tốt thì giá cao hơn
mức giá trung bình. Vì thế tại mức giá trung bình đó chỉ có những xe xấu được giao dịch.
Khi đó xác suất để mua xe tốt bây giờ là q’ < q. Như vậy người mua thường là mua được
những chiếc xe xấu, việc lựa chọn xe để mua trong trường hợp này gọi là sự lựa chọn bất
lợi vì họ có thể trả giá cao hơn đối với xe xấu và người bán lại không thể bán được do giá
bán thấp hơn chất lượng xe tốt.
Một phương cách để giảm bớt thông tin bất cân xứng trên thị trường là thông qua
các tổ chức trung gian trên thị trường. Tổ chức trung gian này có thể giới thiệu rõ hơn
thông tin sản phẩm đến với người mua như bảo hành, nhãn mác, thông số kỹ thuật…
chính điều này đã làm cho các bên giao dịch cân bằng hơn về thơng tin sản phẩm, khi đó
giao dịch sẽ dễ dàng thực hiện.
Michael Spence (1973): Phát tín hiệu


Tiếp tục phát triển lý thuyết của G.A. Akerlof, Spence đã nghiên cứu trên thị
trường Lao động (Auronen, 2003, tr.10). M. Spence xem việc thuê lao động là một quyết
định đầu tư khơng chắc chắn. Tính khơng chắc chắn ở đây là việc thuê lao động mà người
chủ không biết được khả năng đóng góp, khả năng tạo ra năng suất của người lao động là
bao nhiêu. Vì thế việc thuê lao động có thể thuê được lao động có chất lượng hoặc không.
Một trong những phương cách giúp người chủ thuê được lao động có năng lực đó là ông
chủ có thể xem qua chất lượng bằng cấp, kinh nghiệm,… của người lao động. Đó được
gọi là những tín hiệu được phát ra của người lao động. Như vậy việc phát tín hiệu này đã

làm giảm thơng tin bất cân xứng giữa những người lao động và ông chủ.
Joseph Stiglitz (1975): Cơ chế sàng lọc
Cơ chế sàng lọc của J. Stiglitz cũng là lý thuyết phát triển lý thuyết của Michael
Spence (Auronen, 2003, tr.13). Theo Ông bất cứ hàng hóa nào cũng đều có những đặc
tính khác nhau như chất lượng khác nhau, mẫu mã khác nhau nên cần phải phân loại
chúng. Đối với lao động cũng có lao động có khả năng, tay nghề cao và lao động có khả
năng, tay nghề thấp. Vì vậy khơng thể trả lương theo một mức lương cân bằng. Để
khuyến khích người có khả năng cao, tạo ra năng suất lao động cao thì cần phải trả lương
cao để khuyến khích họ. Đối với người có khả năng thấp, việc cố gắng đạt được một mức
năng suất sản xuất để nhận được lương cao sẽ tốn chi phí rất lớn so với người có khả
năng cao. Vì vậy việc phân nhóm lao động để trả lương là việc làm cần thiết để khuyến
khích những người có khả năng nâng cao trình độ và mang lại hiệu quả cao cho xã hội.
1.1.2. Khái niệm về thông tin bất cân xứng
Như vậy, trong kinh tế học nói chung, tình trạng thơng tin bất cân xứng
(asymmetrical information hoặc information asymmetry) phát sinh khi trong một giao
dịch, một trong các bên tham gia có nhiều thơng tin hơn hoặc có thơng tin tốt hơn (các)
bên cịn lại.
Chúng ta có thể tham khảo một số khái niệm về thông tin bất cân xứng dưới đây:
(1) Thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên giao dịch có nhiều thơng tin hơn
một bên khác. Điển hình là người bán biết nhiều về sản phẩm hơn đối với người mua
hoặc ngược lại (Trang từ điển Wikipedia).


(2) ‘Thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên đối tác nắm giữ thơng tin cịn bên
khác thì khơng biết đích thực mức độ thơng tin ở mức nào đó’ (Nguyễn Trọng Hồi,
2006).
1.1.3. Giải pháp lý thuyết hạn chế thông tin bất cân xứng
Trong nhiều lĩnh vực xuất hiện thơng tin bất cân xứng thì các giải pháp thường
được áp dụng chung để hạn chế mức độ thông tin bất cân xứng là cơ chế phát tín hiệu, cơ
chế sàng lọc và cơ chế giám sát (Nguyễn Trọng Hồi, 2006):

1.1.4.1. Phát tín hiệu
Đối với thị trường tài chính, để giao dịch được hiệu quả thì người đi vay có thể
vay được vốn với chi phí thấp, người cho vay chắc chắn khả năng thu hồi được nợ hay
người cho vay và đi vay phải nắm rõ quyền lợi và trách nhiệm của riêng mình. Thơng
thường người đi vay là người nắm rõ thơng tin về mình nhất thế nên họ sẽ được lợi nhiều
hơn trong giao dịch. Tuy nhiên, ngân hàng sẽ không dễ dàng cho vay nếu như họ khơng
biết rõ về khách hàng của mình. Thế nên, người đi vay phải phát tín hiệu rằng mình là
người có khả năng trả được nợ tốt. Vấn đề phát tín hiệu trong trường hợp này là: Uy tín
của công ty, qui mô và danh tiếng công ty, năng lực tài chính, tài sản đảm bảo vv, ngược
lại ngân hàng cũng phải phát tín hiệu để người đi vay thực hiện trách nhiệm của mình
trong hợp đồng vay như cơ chế xử lý tài sản, lãi suất cho vay …
1.1.4.2. Sàng lọc
Để hạn chế sự lựa chọn bất lợi của mình, các ngân hàng thường áp dụng hạn mức
tín dụng khác nhau đối với mỗi đối tượng vay, dự án vay và thời hạn vay. Đối với tổ chức
bảo hiểm, cơ chế sàng lọc được thể hiện qua việc chỉ bảo hiểm một phần, điều này cho
thấy ngay cả đối với nhóm bất cẩn cũng phải có trách nhiệm một phần của mình trong sự
cố bồi thường có thể xảy ra
1.1.4.3. Cơ chế giám sát
Cơ chế giám sát được áp dụng nhằm mục đích kiểm sốt tâm lý ỷ lại, cơ chế bao
gồm: giám sát trực tiếp và giám sát gián tiếp:
- Giám sát trực tiếp: ngân hàng sẽ bỏ ra nguồn lực để đạt được kiểm sốt thơng
tin, cơ chế giám sát này tốn nhiều chi phí và sức lực, khả năng giám sát của ngân hàng
muốn người đi vay sẽ bị hạn chế.


- Giám sát gián tiếp: mặc nhiên người đi vay phải có trách nhiệm thơng báo trực
tiếp hoặc gián tiếp đến ngân hàng. Ngồi ra cịn có giám sát thị trường: căn cứ đánh giá
của thị trường để biết nhiều thông tin hơn về các khách hàng sau khi thực hiện hợp đồng
tín dụng.
Cơ chế giám sát được thực hiện rất chặt chẽ trên thị trường tín dụng. Vì ngân hàng

không thể bỏ ra một số tiền mà không biết số tiền đó được sử dụng như thế nào.

Hình 1: Tóm tắt mơ hình thơng tin bất cân xứng


1.2. Tình trạng, nguyên nhân và hệ quả tình trạng thơng tin bất cân xứng
trong hoạt động tín dụng tại Việt Nam
Hoạt động cung cấp tín dụng, cũng giống như các giao dịch bảo hiểm hay các hoạt
động mua bán một sản phẩm nào đó, do thơng tin của các bên giao dịch khác nhau nên
luôn tồn tại hai hệ quả của giao dịch này là lựa chọn bất lợi (còn gọi là lựa chọn đối
nghịch) và tâm lý ỷ lại (còn gọi là rủi ro đạo đức).
1.2.1. Lựa chọn bất lợi (còn gọi là lựa chọn đối nghịch)
‘Lựa chọn bất lợi là kết quả của thông tin bị che đậy, nó xảy ra trước khi thực hiện
giao dịch hay nói cách khác trước khi ký hợp đồng’ (Nguyễn Trọng Hoài, 2006).


Những người đi vay tiềm ẩn rủi ro cao lại là những người tích cực trong việc tìm

kiếm các khoản vay. Như vậy, những người có nhiều khả năng đem lại kết quả không
mong muốn lại là những người mong muốn trở thành một bên trong giao dịch.
Ví dụ: những người liều lĩnh hay có động cơ lừa đảo thường là những người hăm hở chấp
nhận khoản vay , bởi vì họ biết rõ khả năng trả lại khoản vay là khơng hoặc khó xảy ra.
Do đó, sự lựa chọn đối nghịch có thể làm tăng khả năng khoản tín dụng sẽ được cấp cho
người có rủi ro cao, ngược lại ngân hàng lại có thể từ chối bất kỳ những khoản tín dụng
nào cho những người tin cậy trên thị trường.


Hoặc khi nguồn tín dụng dồi dào, lãi suất cho vay thấp, thì các dự án có suất sinh

lời thấp, rủi ro thấp, đảm bảo khả năng trả nợ một cách chắc chắn và dự án có suất sinh

lời cao, rủi ro cao với khả năng trả nợ ít chắc chắn hơn đều được cấp tín dụng để thực
hiện. Tuy nhiên, khi nguồn vốn khan hiếm, lãi suất cho vay bị đẩy lên cao, khi đó dự án
an tồn khơng được cấp tín dụng mà chỉ có những dự án có rủi ro cao với suất sinh lời
cao được thực hiện. Như vậy, khi mà các dự án có độ rủi ro cao được thực hiện thì nguy
cơ vỡ nợ của các tổ chức tín dụng là rất cao.
Ngân hàng khó nhận biết chính xác thiện chí trả nợ, uy tín của khách hàng như thế nào.
Khách hàng trước khi được cho vay ln tỏ ra có thiện chí và có uy tín. Ngân hàng gặp
khó khăn trong việc tiếp cận thông tin về khách hàng khi nguồn thơng tin và khả năng
phát tín hiệu của khách hàng cịn hạn chế, thì việc thực thi luật phá sản của Việt Nam
chưa triệt để đã làm cho những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ vẫn còn tồn tại trên thị
trường. Hiện tượng này gây ra hiện tượng nhiễu thông tin, vì những đối tượng ln tìm


mọi cách để che đậy thông tin hoặc tạo ra thông tin ngược để được vay vốn ngân hàng và
tiến hành đầu tư vào những lĩnh vực mạo hiểm để hy vọng thốt khỏi tình trạng phá sản.


Khi dùng tài sản để thế chấp, cầm cố cho ngân hàng để vay vốn

thì chỉ có khách hàng là biết rõ về hiện trạng của tài sản như sự hỏng
hóc trong các dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị, hoặc là ngơi nhà
rất khó bán do một số đặc điểm gì đó, trong khi trình độ cán bộ ngân
hàng khơng có đầy đủ chuyên môn trong nhiều lĩnh vực nên họ khơng
thể đánh giá được chính xác hiện trạng của các máy móc thiết bị cũng
như nắm được những thơng tin không tốt về ngôi nhà; điều này ảnh
hưởng rất lớn đến giá trị mua bán của nó và họ thường đánh giá dựa
trên vị trí và hiện trạng của ngơi nhà; vì vậy khi xảy ra rủi ro thì việc
phát mãi tài sản để thu hồi nợ thì gặp khó khăn và có thể khơng thu
hồi được nợ.
Ngồi ra, tâm lý dựa chủ yếu vào tài sản bảo đảm đã làm cho chất lượng thẩm định khoản

vay nên không đánh giá chính xác hiệu quả và an tồn của khoản vay, dễ dẫn đến việc
cho vay những dự án rủi ro, khách hàng khơng uy tín, làm giảm chất lượng tín dụng. Đây
là thực trạng đáng lo ngại trong quan điểm cấp tín dụng hiện nay của các ngân hàng, nhất
là các khách hàng là hộ tư nhân dùng đất nhà để thế chấp.
Từ sự lựa chọn không chắc chắn khách hàng tốt để cung cấp tín dụng nên để giảm
bớt rủi ro ngân hàng đã tính một phần rủi ro vào trong lãi vay ngân hàng, làm cho người
vay tốt phải gánh chịu một mức lãi vay cao hơn mức đáng ra họ được hưởng.
Ví dụ: Ngân hàng XYZ cho doanh nghiệp chế biến gỗ A vay vốn để ứng tiền mua gỗ sản
xuất cho Công ty khai thác gỗ B theo hợp đồng ký kết giữa hai bên để Công ty B chuyển
xe, máy và lao động đến vùng khai thác, với biện pháp bảo đảm là thế chấp một phần tài
sản của Doanh nghiệp A và cầm cố lơ gỗ (tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay). Sau
khi giải ngân vốn vay ngân hàng XYZ đã phát hiện bên vay không sử dụng vốn vay để
mua gỗ mà dùng để trả nợ vay bên ngoài, hợp đồng ký kết giữa hai công ty chỉ mang tính
thủ tục để được vay vốn ngân hàng. Vì thế khi khoản tiền ngân hàng cho vay chuyển vào
tài khoản của Công ty B, công ty B đã phát hành ngay ủy nhiệm chi để chuyển tiền toàn
bộ số tiền trên vào tài khỏan của Doanh nghiệp A ở một ngân hàng khác, đồng thời hai
bên ký biên bản thanh lý hợp đồng trước hạn, không thực hiện hợp đồng vì một lý do nào


đấy. Doanh nghiệp A đã rút số tiền này ra để trả nợ bên ngoài. Như vậy, khi Ngân hàng
phát hiện ra thì chuyện đã rồi, Doanh nghiệp đã gặp khó khăn nhưng ngân hàng lại khơng
có thơng tin kịp thời nên đã đánh giá sai về khách hàng và khoản vay. Nợ vay khơng có
nguồn thu chỉ cịn chờ vào việc phát mãi tài sản để thu hồi nợ.
Đây là một ví dụ điển hình trong việc cho vay với hình thức bảo đảm nợ vay kết hợp vừa
thế chấp, cầm cố, vốn tự có tham gia và bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
Ngân hàng khơng thể đánh giá đầy đủ tài chính của khách hàng:



Theo sổ sách kế toán (chưa qua kiểm toán) và các thông tin khách hàng cung cấp

Ngân hàng thực hiện thẩm định các chỉ tiêu tài chính, nhưng Ngân hàng khơng thể đảm
bảo là đã thẩm định chính xác hay chưa. Do sổ sách kế toán mà doanh nghiệp cung cấp
cho ngân hàng nhiều khi mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Thậm chí, các doanh
nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam thường xây dựng hệ thống sổ sách báo cáo kế toán
(thường là 3). Một dùng cho nội bộ (số liệu thực), một dùng để báo cáo với cơ quan thuế
(kết quả kinh doanh thấp hơn thực tế), một dùng để vay vốn ngân hàng (kết quả báo cáo
thường cao hơn thực tế). Với tình trạng như vậy, khi doanh nghiệp gặp khó khăn thì ngân
hàng rất khó nhận biết tình trạng thực của doanh nghiệp. Ngân hàng có thể gặp rủi ro tín
dụng với các đối tượng này.
Ngân hàng không thể đánh giá đầy đủ năng lực quản trị của khách hàng:



Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của công ty và cũng
có nghĩa là quyết định hiệu quả đồng vốn của ngân hàng. Tuy nhiên, việc đánh giá nguồn
nhân lực, nhất là bộ phận lãnh đạo của khách hàng hồn tồn chưa có cơ sở. Trong quy
định xếp loại khách hàng vay vốn của ngân hàng nhà nước, cũng như trong bản cung cấp
thông tin cho Trung tâm cung cấp thơng tin phịng ngừa rủi ro của Ngân hàng nhà nước
(CIC) đều quy định các tổ chức tín dụng phải đánh giá năng lực điều hành của giám đốc
công ty nhưng lại khơng nêu ra tiêu chí đánh giá cụ thể cho nên mỗi ngân hàng làm một
kiểu, chủ yếu là liệt kê bằng cấp. Kết quả là việc đánh giá năng lực của khách hàng mang
tính hình thức, không đánh giá đúng thực chất về năng lực của khách hàng.
Đánh giá dự án vay:


-

Đánh giá hiệu quả dự án vay vốn là khâu quan trọng, ảnh hưởng lớn nhất đến khả
năng thu hồi vốn của ngân hàng. Khi nhận được một dự án vay vốn cán bộ thẩm



định sẽ phải tiến hành thẩm định các khía cạnh như yếu tố thị trường, kỹ thuật,
công nghệ và cả các yếu tố kinh tế, xã hội của dự án.
-

Việc thẩm định dự án trong một môi trường thông tin vừa thiếu, vừa yếu của Việt
Nam là một thách thức lớn đối với các cán bộ thẩm định. Hơn nữa, trình độ xây
dựng dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp,
đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn yếu kém.

-

Trên thị trường hiện nay, có rất ít cơng ty hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu thị
trường. Do đó, khi đánh giá thị trường đối với sản phẩm của dự án cán bộ thẩm
định chủ yếu phải dựa vào các nguồn thơng tin khơng chính thức, thu thập qua
internet,… Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách thường xun
thay đổi, khơng có tính minh bạch và khơng có tính dự báo của Việt Nam cũng có
thể gây ra nhiều rủi ro cho dự án, như các chiến lược phát triển vùng, ngành; các
quy định liên quan đến xuất nhập khẩu; các tiêu chuẩn về môi trường, …

-

Ngoài ra, thẩm định kỹ thuật đối với dự án hầu như chỉ được thực hiện mang tính
hình thức vì hầu hết các khoản vay đều do một cán bộ thẩm định tiến hành. Kết
quả là việc đánh giá về kỹ thuật khơng mang tính khả thi, nhất là trong điều kiện
trình độ cán bộ thẩm định của Việt Nam cịn chưa được chun sâu.

-

Một khó khăn khác trong việc thẩm định dự án là xác định một suất chiết khấu

phù hợp mức độ rủi ro của dự án và doanh nghiệp vay vốn. Ở Việt Nam, thị
trường chứng khoán và các dịch vụ tài chính chưa phát triển nên việc xác định suất
chiết khấu dựa trên mơ hình CAPM không thể thực hiện được. Các cán bộ thẩm
định thường sử dụng lãi suất ngân hàng làm suất chiết khấu. Suất chiết khấu được
áp dụng cào bằng như nhau giữa các dự án có mức độ rủi ro khác nhau có thể để
lọt những dự án có độ rủi ro cao.

-

Xác định mục tiêu chính xác của dự án vay vốn cũng là một việc làm rất khó khăn,
nhất là khi các doanh nghiệp cố tình che dấu mục đích vay vốn thực của mình.
Ví dụ: Khách sạn X là liên doanh giữa Cơng ty Y thuộc Bộ quốc phịng với một

Công ty Zcủa Singapore. Tổng vốn đầu tư của Dự án là 27 triệu USD, vốn pháp định là 6
triệuUSD; trong đó Cơng ty Y góp 30% (1,8 triệu USD) vốn pháp định bằng quyền sử
dụng đất, Công ty Z góp 70% (4,2 triệu USD) vốn pháp định bằng tiền mặt. Liên doanh


này sau đó đầu tư khách sạn X bằng việc vay thêm 21 triệu USD từ Công ty mẹ tại
Singapore của Công ty Z.
 Trong thời gian họat động từ năm 1997 đến năm 2004, Khách sạn X lỗ liên tục và số
lỗ lũy kế lên đến 15 triệu USD tính đến cuối năm 2004. Tồn bộ nguồn thu của
Khách sạn X trong các năm hoạt động (1997 – 2004) được chi trả chủ yếu vào những
khoản sau:
 Trả cho Công ty quản lý khách sạn (là 1 công ty Singapore thuộc công ty mẹ
của Công ty Z khoảng 2 triệu USD/năm theo Hợp đồng quản lý dài hạn đã ký
với Liên doanh suốt thời gian hoạt động của Dự án)
 Trả lãi vay cho Công ty mẹ của Công ty Z (vào khoảng 1,2 triệu USD/năm).
 Trả nợ gốc của khoản vay: 3 triệu USD/năm (đến cuối năm 2004 , tòan bộ nợ
gốc đã được thu hồi đủ, lãi từ khoản vay (với lãi suất và phí cao gấp 2 lần so với

lãi suất SIBOR tại thị trường Singapore vào thời điểm đó) cũng được trả đúng
hạn.
 Lương cho đội ngũ lãnh đạo chủ chốt (Tổng giám đốc, giám đốc tài chính là
người Singapore) rất cao.
 Tầm quan trọng của việc xác định mục tiêu đầu tư của Chủ đầu tư Ngoài ra, các
khách hàng từ Singapore từ một Công ty tại Singapore đưa qua (thiết nghĩ cũng là 1
Công ty thành viên giống như Công ty Z) được hưởng mức giá thuê khách sạn rất rẻ,
chưa bằng ½ giá quy định của Khách sạn
 Như vậy bằng các hình thức trên, Cơng ty Z (hay nói đúng hơn là Công ty mẹ của
công ty Z ở Singapore) đã thu hồi được toàn bộ vốn đầu tư sau 8 năm, đồng thời vẫn
sở hữu 70% cổ phần tại Liên doanh X.
 Đến đầu năm 2005, một Công ty khác của Singapore (Cơng ty S) có ý định mua lại
cổ phần của Công ty Z trong Khách sạn X, Công ty Z đề nghị định giá lại Khách sạn
X, việc định giá này thông qua 1 Công ty chuyên định giá bất động sản của
Singapore và Khách sạn X bây giờ được định giá lại (bao gồm cả thương hiệu) là 30
triệu USD. Như vậy 70% cổ phần của Công ty Z bây giờ trị giá 21 triệu USD. Công
ty S lập Dự án mua lại cổ phần của Công ty Z, trong đó vốn tự có 30% là 6,3triệu


USD, vốn vay 70% là 14,7 triệu USD. Tài sản bảo đảm là chính Khách sạn X, điều
này đã được Hội đồng quản trị của Liên doanh đồng ý.
 Ở đây một vấn đề được đặt ra : mục tiêu của việc mua lại 70% cổ phần Công ty Z là
gì? Nếu cơng ty S thật sự kinh doanh thì việc thẩm định Dự án mới có ý nghĩa. Cịn
nếu Công ty S cũng là một Công ty thành viên của Công ty mẹ lập ra chỉ để mua lại
cổ phần của Công ty Z với định giá cổ phần cũng của một Cơng ty thuộc tập đồn
này thì sao? Lúc đó, việc đầu tư vào Việt Nam của Cơng ty mẹ tại Singapore đã kết
thúc,Công ty đã thu hồi được vốn đầu tư, đồng thời thu thêm một khoản lợi nhuận
chính bằng khỏan vay là 14,7 triệu USD sau đó thế chấp tồn bộ khách sạn và nếu
khách sạn kinh doanh có lãi, trả được nợ thì Cơng ty mẹ tiếp tục hưởng lợi, nếu
khách sạn hoạt động không hiệu quả, Công ty S sẽ tuyên bố phá sản. Thực tế diễn ra

đúng như vậy, Công ty S chỉ có 2 thành viên đó là Chủ tịch HĐQT kiêm tổng giám
đốc người Singapore, 1 thư ký người Việt Nam.
 Hiện nay, quyết định cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại lệ thuộc nhiều vào
ý chủ quan của những người liên quan đến cơng tác tín dụng. Vấn đề không đơn
thuần về đạo đức mà do sự hạn chế về các công cụ đánh giá, chủ yếu là nguồn thông
tin nên việc đánh giá khách hàng và khoản vay khơng chính xác.
1.2.2. Tâm lý ỷ lại (cịn gọi là rủi ro đạo đức)
Hệ quả thứ hai mà thông tin bất cân xứng gây ra là tâm lý ỷ lại. Tâm lý ỷ lại là
hành động của bên có nhiếu thông tin hơn thực hiện sau khi ký hợp đồng gây tổn hại cho
bên có ít thơng tin hơn.
Với các hợp đồng vay ngân hàng thì tâm lý ỷ lại phát sinh từ phía người đi vay.



Họ sử dụng tiền vay khơng hiệu quả và đúng mục đích.
-

Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh
cụ thể, khả thi. Để đảm bảo khả năng trả nợ như theo kế hoạch đã thẩm định thì
địi hỏi doanh nghiệp phải sử dụng vốn để giải ngân vào đúng mục đích kinh
doanh đã giải trình thì mới đảm bảo vịng quay vốn và dịng tiền về đúng hạn trả
nợ. Tuy nhiên, có một số doanh nghiệp lại dùng vốn vay vào các hoạt động khơng
đúng với mục đích ban đầu khi xin vay vốn làm ảnh hưởng đến dịng tiền và ảnh
hưởng ln đến khả năng trả nợ vay cho ngân hàng, hệ quả là làm phát sinh nợ
xấu.


-

Có trường hợp khách hàng dùng vốn vay ngắn hạn để đầu tư trung và dài hạn. Đầu

tư dự án dài hạn trong khi chưa thu xếp đầy đủ nguồn vốn dẫn đến đầu tư dở dang,
thiệt hại xảy ra, làm phát sinh nợ quá hạn. Trong năm 2008, khi Ngân hàng nhà
nước thắt chặt tiền tệ, nhiều ngân hàng khác cũng từ chối cho vay dự án, dẫn đến
tình trạng doanh nghiệp khơng cịn vốn hoạt động, dự án đầu tư cũng bị dang dở,
doanh nghiệp bị thiệt hại lớn và mất khả năng thanh toán trong ngắn hạn, nợ quá
hạn tại ngân hàng phát sinh.

-

Khách hàng dùng vốn vay sản xuất kinh doanh để đầu tư bất động sản, kinh doanh
chứng khoán nên khi thị trường chứng khoán đi xuống, giá bất động sản giảm,
khách hàng bị thiệt hại, khơng những khơng bảo tồn được vốn vay mà còn bị thua
lỗ, dẫn đến nợ quá hạn ngân hàng.
Người vay không nổ lực tối đa để sử dụng vốn vay hiệu quả.


-

Vấn đề này rất là phổ biến trong cho vay các doanh nghiệp nhà nước. Do có
tâm lý ỷ lại vào cơ chế xử lý của nhà nước, kinh doanh có thua lỗ thì cũng được
tồn tại, trả nợ vay khơng được thì nhà nước cũng sẽ có cơ chế xử lý. Chính vì tâm
lý này mà một số doanh nghiệp nhà nước rất thiếu sự cẩn trọng trong việc quyết
định đầu tư. Chỉ cần có ý tưởng là làm dự án và vay vốn ngân hàng thực hiện.
Chính vì khơng có sự nghiêm túc trong quyết định đầu tư nên quá trình triển khai
thực hiện dự án gặp rất nhiều trục trặc, có khi dẫn đến dự án bị phá sản, toàn bộ
nguồn vốn đã đầu tư đều bị mất.

-

Hành vi ỷ lại này thể hiện rất rõ trong quá trình triển khi thực hiện dự án

của các doanh nghiệp nhà nước. Rất hiếm khi các doanh nghiệp này thực hiện
đánh giá kết quả thực hiện cho từng giai đoạn của dự án để thấy được những
những mặt làm được cũng như những tồn tại cần phải chỉnh sửa, khắc phục và dự
báo những khó khăn, trở ngại phải đối mặt trong thời gian tới để bảo đảm cho việc
thực thi dự án thành cơng. Chính từ những sự thiếu trách nhiệm này đã dẫn đến
một số dự án bị thua lỗ trong khi hồn tồn có thể thực hiện hiệu quả nếu người
thực thi nó là một cơng ty tư nhân. Bởi vì nếu tư nhân khơng trả được nợ do dự án
thất bại thì họ sẽ bị mất tài sản nên họ rất nghiêm túc trong quyết định đầu tư và
nỗ lực rất cao trong q trình thực hiện. Cịn đối với doanh nghiệp nhà nước thì
khác hẳn, người điều hành cơng ty sẽ khơng mất gì, đơi khi lại thu được lợi, khơng
được trả nợ vay ngân hàng thì chắc chắn sẽ có cơ chế xử lý.


-

Một phổ biến trong tâm lý ỷ lại của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay là
do sự can thiệp của nhà nước vào việc vay vốn ngân hàng, việc nhận được nguồn
vốn vay dồi dào so với các thành phần kinh tế khác đã làm cho vốn vay sử dụng
khơng được cẩn trọng, hiệu quả và gây thất thốt vốn, vốn ngân hàng gặp nhiều
rủi ro.

1.3. Tại sao ngân hàng phải xử lý thông tin bất cân xứng
Trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng ln là người có ít thông tin về khách
hàng, về thiện chí trả nợ, về khả năng thanh toán, về dự án, về mục đích sử dụng khoản
tín dụng được cấp hơn khách hàng. Do đó, để đảm bảo an tồn trong hoạt động của
mình, bản thân các tổ chức tín dụng phải xử lý thông tin bất cân xứng để hạn chế lựa
chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại nhằm cho vay đúng người đúng đối tượng và giám sát
chặt chẽ để khách hàng vay vốn có hành vi đúng đắn nhằm đảm việc thu hồi cả gốc và
lãi khoản tín dụng đã cấp ra.
Trong một nền kinh tế, hầu như không một ngân hàng nào có đủ khả năng tự

mình xử lý được vấn đề thông tin bất cân xứng mà cần phải có một cơ sở hạ tầng và
những điều kiện cần thiết cho nền kinh tế đó nhằm tránh xảy ra những vấn đề về hệ
thống ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế.


Chương 2: GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG
THƠNG TIN BẤT CÂN XỨNG
2.1. Giải pháp trước khi cho vay – hạn chế lựa chọn đối nghịch
2.1.1 Hệ thống thông tin kế tốn và báo cáo tài chính
Hệ thống thơng tin kế tốn và báo cáo tài chính là một cơ sở cực kỳ quan trọng
giúp cho các bên có liên quan nắm bắt được tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Nếu một hệ thống thơng tin kế tốn và báo cáo tài chính khơng được tổ chức tốt và
khơng minh bạch và có độ tin cậy cao sẽ rất khó có thể căn cứ để xem xét "sức khoẻ" của
doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, Luật kế toán năm 2003 quy định đơn vị kế toán phải thu thập,
phản ánh khách quan, đầy đủ, đúng thực tế và đúng kỳ kế toán mà nghiệp vụ kinh tế, tài
chính phát sinh. Đơn vị kế tốn có trách nhiệm cơng khai các báo cáo tài chính. Mặt
khác, các chuẩn mực kế tốn theo thơng lệ chung đã dần được áp dụng tại Việt Nam.
Tuy nhiên hiện tại, hệ thống tiêu chuẩn kế toán Việt Nam (VAS) vẫn còn những khác
biệt so với với hệ thống tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IAS).
Theo Nghị định về kiểm tốn độc lập, trừ một số loại hình doanh nghiệp phải
thực hiện kiểm toán như bảo hiểm, ngân hàng, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi, doanh nghiệp nhà nước, số còn lại (chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt động
theo luật doanh nghiệp), nhà nước chỉ khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện kiểm
tốn các báo báo tài chính. Mặt khác, tại hầu hết các tổ chức tín dụng chưa yêu cầu
khách hàng đến xin cấp tín dụng phải có báo cáo tài chính được kiểm tốn.
2.1.2 Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu
Một hệ thống thông tin đầy đủ về khách hàng như: lịch sử hình thành và quá
trình phát triển, năng lực tài chính, mức độ tín nhiệm, đội ngũ điều hành là cơ sở hết sức
quan trọng giúp cho việc thẩm định,xếp loại, lựa chọn khách hàng trong hoạt động của

các tổ chức tín dụng. Nếu hệ thống này khơng đầy đủ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả
năng đánh giá, thẩm định khách hàng của các ngân hàng.
Hiện nay, Trung tâm tín dụng thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (CIC) là tổ
chức duy nhất thực hiện công tác thu thập thơng tin của các khách hàng có quan hệ tín
dụng với tất cả các tổ chức tín dụng. Cơ chế thu thâp thông tin của CIC theo quy chế


hoạt động thơng tin tín dụng do Ngân hàng Nhà nước ban hành. Trong đó quy định các
tổ chức tín dụng theo định kỳ có trách nhiệm báo cáo các thông tin liên quan đến khách
hàng cho CIC và các tổ chức tín dụng được quyền khai thác thơng tin của CIC. Hơn nữa,
để nâng cao tính hiệu quả của trung tâm thơng tin tín dụng, có thể nghiên cứu chuyển đổi
trung tâm sang hình thức cơng ty cổ phần có sự góp vốn của các ngân hàng thương mại.
Nghiên cứu và cho áp dụng mơ hình cơng ty xếp hạng tín dụng độc lập ở Việt Nam để hỗ
trợ các ngân hàng trong hoạt động kinh doanh, có thể thu hút sự chuyển giao công nghệ
và học tập kinh nghiệm của các cơng ty xếp hạng tín dụng có uy tín trên thế giới
2.1.3 Hệ thống thơng tin nội bộ của từng tổ chức tín dụng:
Hiện nay, bản thân trong một tổ chức tín dụng, hệ thống lưu trữ, xử lý thơng tin cũng
chưa hiệu quả và tính hệ thống gần như khơng có. Thậm chí việc kiểm sốt tổng dự nợ
của một khách hàng (kể cả các đơn vị trực thuộc hạch toán báo sổ) là một vấn đề rất khó
khăn đối với các tổ chức tín dụng. Do đó, Ngân hàng phải quan tâm đầu tư cơng nghệ,
chương trình máy tính để có thể thống kê nhanh và chuẩn xác các số liệu liên quan đến
các hoạt động tín dụng, dùng để phân tích đánh giá những biến động nhằm phát hiện các
rủi ro tiềm tàng, kịp thời có chính sách điều chỉnh, chủ động ứng phó khi rủi ro xảy ra.
2.1.4 Hệ thống thông tin phục vụ cho việc thẩm định dự án
Ngồi hệ thống thơng tin dùng để đánh giá khách hàng, khi thẩm định dự án,
phương án kinh doanh, các tổ chức tín dụng cần phải có hệ thống thơng tín nhằm xác
định, kiểm tra các thông số đầu vào và đầu ra của dự án, nhất là các thông số về thị
trường các nguyên liệu đầu vào và thị trường đầu ra của sản phẩm…
Thực tế, hiện nay các tổ chức tín dụng thường sử dụng các thông lấy được
trên mạng internet với tính hệ thống khơng cao. Việc truy cập, tìm kiếm những số

liệu này phụ thuộc rất nhiều vào trình độ của các bộ tín dụng với u cầu phải có khả
năng đọc tốt tiếng anh. Do vấn đề về hệ thống thông tin phục vụ cho công tác thẩm định
dự án của các tổ chức tín dụng hiện nay vẫn đang là vấn đề rất lớn. Những biến số
quan trọng nhất quyết định đến hiệu quả của dự án như giá nguyên vật liệu, giá bán, khả
năng tiêu thụ… lại thiếu thơng tin nhất trong q trình thẩm định.
Thực tế, hiện nay các tổ chức tín dụng thường sử dụng các thơng lấy được trên
mạng internet với tính hệ thống khơng cao. Việc truy cập, tìm kiếm những số liệu này
phụ thuộc rất nhiều vào trình độ của các bộ tín dụng với u cầu phải có khả năng đọc tốt


tiếng anh. Do vấn đề về hệ thống thông tin phục vụ cho công tác thẩm định dự án của các
tổ chức tín dụng hiện nay vẫn đang là vấn đề rất lớn. Những biến số quan trọng nhất
quyết định đến hiệu quả của dự án như giá nguyên vật liệu, giá bán, khả năng tiêu thụ …
lại thiếu thông tin nhất trong q trình thẩm định. Do đó, ngân hàng cần bồi dưỡng thêm
cho cán bộ tín dụng nâng cao trình độ.
2.1.5 Hệ thống các tiêu chuẩn và kỹ thuật đánh giá
Sau khi có đủ các thơng tin với độ tin cậy cao, điều kiện cần thiết tiếp theo là phải
có cá tiêu chuẩn và kỹ thuật đánh giá phù hợp. Chúng ta cùng xem xét thực tế này ở Việt
Nam
2.1.5.1 Các tiêu chuẩn đánh giá năng lực khách hàng
Theo quy định đối với những người điều hành doanh nghiệp đồi hỏi phải có một
số tiêu chuẩn nhất định nào đó (về bằng cấp). Nhưng thực tế những quy định này nặng về
hình thức hơn. Những căn cứ, tiêu chuẩn để dựa vào đó đánh giá khả năng điều hành của
một doanh nghiệp, một tổ chức gần như không có.
2.1.5.2. Các tiêu chuẩn phân tích báo cáo tài chính
Hai điều kiện cơ bản nhất để phân tích báo cáo tài chính nhằm đưa ra các đánh giá,
kết luận có độ tin cậy là phải có hệ thống thơng tin báo cáo tài chính đủ độ tin cậy và có
hệ thông các chỉ tiêu, chuẩn mực đánh giá. Phần thứ nhất đã được trình bày ở phần trên.
Hiện nay chưa có các tiêu chuẩn, chuẩn mực được cho là hiệu quả để so sánh đánh giá
một báo cáo tài chính của một khách hàng là tốt hay không tốt, đủ tiêu chuẩn hay chưa đủ

tiêu chuẩn.
Hiện nay, Bộ tài chính đã ban hành các thông tư hướng dẫn chỉ tiêu đánh giá hiệu
quả hoạt động tài chính của tổ chức tín dụng nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước. Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam đã giao cho Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) thực hiện đánh
giá xếp loại khách hàng theo một số tiêu chuẩn. Trên cơ sở những tiêu chí của Ngân hàng
Nhà nước đưa ra, các tổ chức tín dụng cũng xây dựng hệ thống chỉ tiêu đấnh giá, xếp loại
khách hàng. Cần phải sớm đưa việc đánh giá dựa vào các tiêu chuẩn này vào thực tế chư
khơng dừng lại ở ở trong q trình thử nghiệm như hiện nay.
2.1.5.3. Các tiêu chuẩn thẩm đinh dự án đầu tư
Đây là những thông số, nhưng tiêu chuẩn vô cùng cần thiết như hệ số chiết khấu,
mức độ rủi ro… Trong quá trình thẩm định một sự án, có rất nhiều tiêu chuẩn để đánh giá


dự án, nhưng hai tiêu chuẩn thông dụng nhất là dự vào giá trị hiện tại ròng (NPV) và suất
thu hồi vốn nội bộ (IRR). Một dự án có NPV dương hay suất thu hồi vốn nội bộ lớn hơn
một ngưỡng yêu cầu là có thể quyết định đầu tư hoặc cấp tín dụng cho dự án đó. Vấn đề
khó khăn đầu tiên đối với các tổ chức tín dụng khi tính NPV hoặc đánh giá theo tiêu
chuẩn IRR thì suất chiết khấu nào được sử dụng ở đây. Cơ thể sử dụng mơ hình định giá
tài sản vốn (CAPM)5 hoặc các mơ hình khác để xác định giá trị này. Điều này là bất khả
thi vì các hệ số gần như khơng thể xác định được hoặc nếu có xác định được thì chúng
khơng có ý nghĩa xác thực để lấy đó làm căn cứ.
Thực tế tại các tổ chức đang làm là lấy lãi suất cho vay trung dài hạn của chính tổ
chức tín dụng đó cộng (+) thêm một tỷ lệ nữa để có được suất chiết khấu. Với phương
thức này có thể tạm chấp nhận được vì dù sao cũng có cơ sở. Nhưng cở sở này là rất cảm
tính.
2.1.5.4. Các kỹ thuật phân tích báo cáo tài chính, thẩm định dự án
Kỹ thuật đánh giá, thẩm định dự án nói riêng, dự báo nói chung hiện nay được sử
dụng phổ biến nhất là dựa vào phân tích mơ phỏng (phân tích động) để tính xác suất có
khả năng xảy ra các trường hợp tốt và các trường hợp bất lợi cho dự án. Việc nhìn vào
biểu đồ phân bố xác xuất của dự án có thể bết được xác suất để NPV dương là bao nhiêu,

âm là bao nhiêu.
Hiện nay ở Việt Nam, các kỹ thuật phân tích báo cáo tài chính, thẩm định dự án
tiên tiến chưa được áp dụng và phổ biến rộng rãi tại Việt nam do điều kiện về công nghệ
và những người am hiểu về nó cịn rất hạn chế. Vì vậy việc áp dụng đại trà gặp rất nhiều
khó khăn.
Từ thực tế nêu trên, một người am hiểu một chút về kỹ thuật thẩm định dự án là có
thể biến một dự án có xác xuất NPV dương hay IRR lớn hơn ngưỡng cần thiết đạt 100%.
Khi muốn bác một dự án hoặc đánh giá một doanh nghiệp hoạt động khơng hiệu quả là
vấn đề hết sức khó khăn đối với cán bộ tín dụng. Nhất là đối với những dự án của những
doanh nghiệp có "mối quan hệ" tốt.
Với những vấn đề nên trên, việc xử lý lựa chọn bất lợi của khách hàng trong hoạt
động tín dụng của các tổ chức tín dụng Việt Nam hiện nay đang là vấn đề rất lớn. Đó
mới là những vấn đề trước khi quyết định cho vay. Bây giờ chúng ta cùng xem xét vấn
đề xử lý tâm lý ỷ lại của các tổ chức tín dụng sau khi cho vay. Hay nói cách khác việc


giám sát sử dụng vốn vay, thu hồi nợ vay của các tổ chức tín dụng.

2.2. Giải pháp sau khi cho vay – khắc phục tâm lý ỷ lại
Để có thể kiểm tra giám sát, đảm bảo việc sử dụng vốn vay đúng mục đích địi hỏi
các tổ chức tín dụng phải biết được dòng tiền vào và dòng tiền ra trong quá trình sử dụng
vốn vay của bên vay. Đây là một vấn đề rất lớn đang đặt ra đối với các tổ chức tín
dụngViệt Nam vì việc kiểm sốt dịng tiền bảo đảm bên vay sử dụng vốn đúng mục đích
khơng phải là vấn đề đơn giản vì khác với các nền kinh tế phát triển, đối với Việt Nam, tỷ
lệ thanh toán bằng tiền mặt vẫn ở mức rất cao. Đây chính là khó khăn rất lớn trong việc
giám sát chi tiêu của người vay vốn.
Ngân hàng cần có biện pháp bảo đảm các chi nhánh, phịng giao dịch thực hiện
giải ngân các khoản vay theo đúng các điều kiện phê duyệt tín dụng. Đối chiếu mục đích
vay vốn và các chứng từ bổ sung chứng minh cho mục đích vay vốn mà khách hàng đã
cam kết trong các hợp đồng tín dụng. Hạn chế giải ngân cho khách hàng bằng tiền mặt

ngoại trừ một số mục đích vay vốn đặc thù mà thực tế khách hàng cần phải có lượng một
tiền mặt để thực hiện phương án kinh doanh như: thu nguyên vật liệu của các cơ sở
khơng đăng ký kinh doanh, thanh tốn tiền hàng cho các đối tác nhỏ lẻ không sử dụng tài
khoản ngân hàng ... cịn lại nên thực hiện thanh tốn chuyển khoản trực tiếp cho đối tác
nhằm đảm bảo kiểm sốt mục đích vay vốn của khách hàng đúng đắn.
Để phòng ngừa các rủi ro xuất hiện sau khi cho vay do phương án kinh doanh kém
hiệu quả, khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích và ngân hàng khó kiểm sốt dịng
tiền của khách hàng vay vốn, ngân hàng cần tăng cường cơng tác kiểm tra tình hình tài
chính và hoạt động kinh doanh của khách hàng theo định kỳ. Nên sử dụng xếp hạng tín
dụng khách hàng làm cơ sở cho việc xác định thời gian kiểm tra. Nếu khách hàng có
hạng tín dụng cao, có uy tín thì thời hạn kiểm tra dài hơn và ngược lại. Trong kiểm tra
nên có đánh giá về tình hình sử dụng vốn, về cân đối hàng tiền, về tài sản đảm bảo ...
Việc kiểm tra này sẽ giúp ngân hàng phát hiện ra những khoản vay có vấn đề, từ đó có
biện pháp xử lý thích hợp
Đối với khách hàng vay vốn trong quá trình trả nợ gốc và lãi, nếu có dấu hiệu
đóng chậm, hoặc trễ hạn từ hai lần trở lên cần cho nhân viên tiến hành kiểm tra và thẩm
định lại tình hình khoản vay nhằm phát hiện và xử lý ngay khoản vay, hoặc điều chỉnh


khoản vay cho khách hàng do việc định kỳ hạn trả nợ khơng phù hợp thu nhập và dịng
tiền của khách hàng bằng các cơ cấu lại kỳ hạn trả nợ và phương thức trả nợ phù hợp.
 Nâng cao hiệu quả thẩm định và quản lý tài sản đảm bảo
Trong điều kiện thị trường tài chính chưa đạt đến mức độ thơng tin hồn hảo cần
thiết, thì tài sản đảm bảo là cơ chế tốt nhất để giảm thiểu lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại
do thông tin bất cân xứng gây ra. Muốn vậy, cần thực hiện tốt các biện pháp sau:
Ngân hàng Việt Á cần phải tuân thủ các điều kiện quy định của Nhà nước về biện
pháp đảm bảo tiền vay tương ứng. Để thực hiện tốt yêu cầu trên, ngân hàng cần phải có
các biện pháp tích cực, hạn chế tính chủ quan trong quyết định chọn lựa, đặc biệt kiên
quyết xử lý hành vi thông đồng với khách hàng gây thiệt hại cho ngân hàng.
Để có được một biện pháp đảm bảo tiền vay khơng những phù hợp với từng loại

hình khách hàng cụ thể, mà cịn đảm bảo sự an tồn, hiệu quả, trước hết, ngân hàng cần
có sự tính tốn đầy đủ, đồng bộ và cân nhắc chính xác các yếu tố như tình hình sản xuất
kinh doanh, khả năng tài chính, hiệu quả dự án, tài sản đảm bảo, mối quan hệ tín dụng
trên cơ sở có phối hợp kiểm tra đối chiếu thực tế.
Mặc dù cho vay có tài sản đảm bảo, các khoản vay vẫn hàm chứa rủi ro không thu
được nợ do nhiều nguyên nhân khác nhau như tài sản hư hỏng, khó bán, giảm giá trị ... để
lựa chọn đúng đắn biện pháp đảm bảo tiền vay cho từng khoản vay cụ thể đảm bảo an
tồn và hiệu quả thì cần phải đánh giá khách hàng một cách tồn diện và chính xác, sau
đó chọn lấy yếu tố mạnh nhất để đảm bảo tiền vay. Đặc biệt, không được chủ quan cho
vay chỉ căn cứ vào tài sản đảm bảo, xem nhẹ các yếu tố tài chính, dự án/phuơng án sản
xuất kinh doanh của khách hàng.
Trong việc đánh giá tài sản thế chấp cần nhấn mạnh giá trị có thể chuyển đổi thành
tiền thực tế trên thị trường hay còn gọi là giá trị thị trường của tài sản thế chấp.


KẾT LUẬN
Nghiên cứu đề tài này mang lại cho nhóm chúng tơi rất nhiều hữu ích nhưng cũng
đầy khó khăn, thử thách. Được sự định hướng, khuyến khích và giúp đỡ nhiệt tình của
TS. Hay Sinh và sự nhất trí, đồng lịng của cả nhóm; chúng tơi mạnh dạn chọn đề tài này.
Sau quá trình nghiên cứu được trình bày ở trên, chung tôi đã làm rõ các câu hỏi
sau đây cần được trả lời là:
1) Tình trạng thơng tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng của ngành ngân
hàng là gì?
2) Ngun nhân của tình trạng thơng tin bất cân xứng trên trong hoạt động tín
dụng trong lĩnh vực ngân hàng
3) Làm thế nào hạn chế tình trạng thơng tin bất cân xứng đó
Mặc dù với tinh thần làm việc nghiêm túc và sự nỗ lực cao nhưng vì thời gian
ngắn, nguồn tài liệu hạn chế và do cả khả năng, kinh nghiệm cịn hạn chế nên khơng phải
mọi vấn đề liên quan đến đề tài đã được trình bày đầy đủ với sự sâu sắc cần thiết và cũng
khơng thể tránh khỏi sai sót trong phân tích, nhận định vấn đề và rút ra bài học. Vì vậy

em rất mong nhận được nhiều góp ý để đề tài này được mổ xẻ, nhìn nhận thấu đáo hơn
đồng thời giúp em ngày càng tiến bộ hơn trong quá trình luyện tập kỹ năng cần thiết của
những học viên cao học.



TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Trọng Hoài (2006), ‘Bất cân xứng về thơng tin trên các thị trường tài chính’,
Bài giảng cho học viên cao học, Đại học Kinh tế TP.HCM.
[2] Lê An Khang (2008), ‘Ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đối với nhà đầu tư trên
thị trường chứng khoán TP.HCM’, luận văn thạc sĩ kinh tế, Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Nguyễn Trọng Hoài, Đại học Kinh tế TP.HCM
[3] Nick Freeman (2006), Hướng dẫn chính sách cung cấp tài chính cho doanh nghiệp
vừa và nhỏ của Việt Nam, VNCI.
[4] Trang thông tin Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam Http://www.sbv.gov.vn
[5] Trang thông tin Http://en.wikipedia.org



×