Tải bản đầy đủ (.docx) (101 trang)

Tổng quan về hội chứng sảng rượu và tìm hiểu các yếu tố dự báo sảng rượu tại bệnh viện e

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

LÊ THỊ THÚY ANH

TỔNG QUAN VỀ HỘI CHỨNG SẢNG RƯỢU VÀ TÌM
HIỂU CÁC YẾU TỐ DỰ BÁO SẢNG RƯỢU
TẠI BỆNH VIỆN E

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH DƯỢC HỌC

Hà Nội – 2021


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC
LÊ THỊ THÚY ANH

TỔNG QUAN VỀ HỘI CHỨNG SẢNG RƯỢU VÀ TÌM
HIỂU CÁC YẾU TỐ DỰ BÁO SẢNG RƯỢU
TẠI BỆNH VIỆN E

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH DƯỢC HỌC

KHÓA: QH.2016.Y
NGƯỜI HƯỚNG DẪN 1: THS. NGUYỄN VIẾT CHUNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN 2: THS. BÙI SƠN NHẬT

Hà Nội – 2021



LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tơi xin bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến những người
người Thầy: ThS. Nguyễn Viết Chung, ThS. Bùi Sơn Nhật – Trường Đại học Y
Dược – Đại học Quốc gia Hà Nội và nhóm nghiên cứu đề tài cấp cơ sở mã số CS
20.04, Trường Đại học Y Dược – Đại học Quốc gia Hà Nội là những người đã trực
tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, dành nhiều thời gian giúp đỡ và dìu dắt tơi, tạo
điều kiện thuận lợi để tơi có thể nghiên cứu và hồn thành khóa luận này.

Tôi xin được gửi lời cảm ơn đến Trưởng khoa, các bác sĩ, các anh chị điều
dưỡng trong Khoa Nội Gan Mật – Bệnh viện E, đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi
thực hiện nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến tất cả các thầy cô trong Trường Đại học Y Dược

– Đại học Quốc gia Hà Nội đã dạy dỗ, trang bị kiến thức cho tôi trong suốt 5
năm theo học tại Trường.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới những người thân trong
gia đình, những người bạn thân thiết của tơi đã ln động viên tơi, là nguồn
động lực cho tơi hồn thành khóa luận này và tiếp tục phấn đấu trong học tập và
nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 15 tháng 06 năm
2021
Sinh viên

Lê Thị Thúy Anh


KÝ HIỆU VIẾT TẮT
HCCR


Hội chứng cai rượu

HCSR

Hội chứng sảng rượu

ICU

Đơn vị hồi sức tích cực (Intensive Care Unit)

CIWA-Ar Thang điểm đánh giá hội chứng cai rượu trên lâm sàng
(Clinical Institute Withdrawal Assessment for Alcohol)
ICD-10

Bảng Phân loại Quốc tế thống kê bệnh tật và những vấn đề liên
quan đến sức khỏe (International Classification of Disease - 10th)

DSM-5

Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần
(Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, Fifth
Edition)


MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ
ĐẶT VẤN ĐỀ.......................................................................................................1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN............................................................................... 3

1.1. Một vài nét về rượu, lạm dụng rượu và nghiện rượu..........................3
1.2. Hội chứng cai rượu..................................................................................4
1.3. Hội chứng sảng rượu...............................................................................7
1.3.1. Định nghĩa và đặc điểm dịch tễ...........................................................7
1.3.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán..........................................................................8
1.3.3. Triệu chứng......................................................................................... 9
1.4. Các yếu tố dự báo sảng rượu................................................................10
1.4.1. Xã hội học......................................................................................... 10
1.4.2. Đặc điểm về việc sử dụng rượu.........................................................11
1.4.3. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng..................................................11
1.5. Điều trị....................................................................................................13
1.5.1. Nguyên tắc điều trị............................................................................ 13
1.5.2. Thuốc sử dụng để điều trị..................................................................14
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..............21
2.1. Tổng quan hệ thống về điều trị và các yếu tố dự báo sảng rượu......21
2.1.1. Tổng quan hệ thống về điều trị sảng rượu.........................................21
2.1.2. Tổng quan hệ thống về các yếu tố dự báo sảng rượu........................22
2.2. Nghiên cứu các yếu tố dự báo sảng rượu............................................ 24
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu........................................................................24
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu...................................................................24
2.2.3. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu......................................................25
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU........................................................ 26


3.1.

Tổng quan hệ thống về điều trị và các yế

3.1.1.


Tổng quan hệ t

3.1.2.

Tổng quan hệ t

3.2.

Nghiên cứu các yếu tố dự báo sảng rượu

3.2.1.

Đặc điểm chun

3.2.2.

Các yếu tố dự b

CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN .................................................................................
4.1.

Tổng quan hệ thống về điều trị và yếu tố

4.1.1.

Tổng quan hệ t

4.1.2.

Tổng quan hệ t


4.2.

Nghiên cứu các yếu tố dự báo sảng rượu

4.2.1.

Thông tin chun

4.2.2.

Đặc điểm sử dụ

4.2.3.

Đặc điểm lâm s

4.2.4.

Đặc điểm cận l

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN .................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. So sánh các triệu chứng của HCCR và HCSR trong tiêu chuẩn chẩn
đoán của ICD-10 và DSM-5.................................................................................. 9
Bảng 1.2. So sánh các thuốc benzodiazepin........................................................ 15

Bảng 2.1. Các từ khóa và từ đồng nghĩa tìm kiếm trong tổng quan hệ thống các
yếu tố dự báo sảng rượu.......................................................................................23
Bảng 3.1. Các tiêu chuẩn chẩn đoán HCCR, HCSR............................................27
Bảng 3.2. Đặc điểm bệnh nhân và thiết kế nghiên cứu điều trị HCSR................28
Bảng 3.3. Thuốc an thần chính được sử dụng và kết quả chính nghiên cứu.......32
Bảng 3.4. Hướng dẫn dùng thuốc điều trị............................................................36
Bảng 3.5. Liệt kê các thuốc điều trị chính trong điều trị HCSR..........................36
Bảng 3.6. Đặc điểm bệnh nhân, thiết kế nghiên cứu yếu tố dự báo sảng rượu....39
Bảng 3.7. Can thiệp điều trị trong các nghiên cứu yếu tố dự báo sảng rượu.......42
Bảng 3.8. Thống kê các yếu tố nguy cơ có liên quan đến HCSR........................44
Bảng 3.9. Nghề nghiệp và trình độ học vấn của bệnh nhân.................................46
Bảng 3.10. Thang điểm CIWA-Ar cho nhóm nghiên cứu................................... 48
Bảng 3.11. Đặc điểm sử dụng rượu..................................................................... 48
Bảng 3.12. Các triệu chứng cai............................................................................49
Bảng 3.13. Bệnh mắc kèm................................................................................... 50
Bảng 3.14. Các chỉ số cận lâm sàng.....................................................................51
Bảng 3.15. Các chỉ số cận lâm sảng dự báo HCSR.............................................51


DANH MỤC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ
Hình 1.1. Sơ đồ xử trí HCCR nặng......................................................................18
Hình 3.1. Tóm tắt quy trình lựa chọn và loại trừ các nghiên cứu về điều trị HCSR
26
Hình 3.2. Tóm tắt quy trình lựa chọn và loại trừ các nghiên cứu về yếu tố dự báo
sảng rượu..............................................................................................................37
Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ triệu chứng cai nhóm khơng có HCSR.................................. 47
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ triệu chứng sảng rượu............................................................ 47


ĐẶT VẤN ĐỀ

Lạm dụng rượu bia là một trong năm nguyên nhân hàng đầu gây ra tàn tật và
tử vong trên toàn cầu, gây cản trở sự phát triển bền vững ở ba khía cạnh: sức khỏe,
kinh tế và xã hội. Mỗi năm, sử dụng rượu bia ở mức nguy hại gây ra 5,3% số ca tử
vong toàn cầu, cứ mỗi phút có 6 người chết với tổng số 3 triệu ca tử vong

[9]. Tại Hội thảo xây dựng chính sách về phòng, chống tác hại của rượu bia do
Bộ Y tế và Tổ chức Y tế thế giới WHO tổ chức ngày 22/4/2019, Thứ trưởng Bộ
Y tế Nguyễn Trường Sơn cho biết: tại Việt Nam, sản lượng rượu, bia và đồ uống
có cồn khác được sản xuất gia tăng nhanh qua các năm trong khi thế giới đang
giảm dần. Trong đó tỷ lệ nam giới sử dụng rượu bia ở mức có hại là vấn đề đáng
báo động [55].
Nghiện rượu là một bệnh mạn tính, do nhu cầu uống rượu không được
thoả mãn một cách thường xuyên, gây thèm rượu bắt buộc làm ảnh hưởng đến
hiệu suất công tác, đến sức khoẻ tâm thần và thể chất, làm tổn thương đến các
mối quan hệ gia đình và đời sống xã hội [5]. Trường hợp nghiện rượu nặng lâu
ngày mà ngưng uống đột ngột có thể lên cơn co giật thậm chí dẫn đến sảng rượu.
Ở nước ta trước đây các bệnh lý tâm thần do rượu rất hiếm vì vậy các y văn về
lạm dụng rượu, nghiện rượu cũng cịn rất ít. Thế nhưng trong những năm gần
đây xuất hiện ngày càng nhiều trường hợp loạn thần do rượu phải vào điều trị tại
các cơ sở bệnh viện tâm thần.
Bệnh viện E là bệnh viện Đa khoa Trung ương trực thuộc Bộ Y tế và là
một trong những bệnh viện tuyến đầu trong hệ thống chăm sóc sức khỏe của
thành phố Hà Nội. Trong thời gian gần đây bệnh nhân có hội chứng cai rượu,
sảng rượu vào viện điều trị với số lượng khá nhiều, tình trạng bệnh nặng, diễn
biến phức tạp, nhân viên y tế tại đây thường xuyên phải đối mặt với các nguy cơ
và rủi ro của bệnh.
Với mong muốn bổ sung thêm tri thức nhằm góp phần nâng cao chất lượng
và hiệu quả chẩn đốn, tiên lượng và điều trị hội chứng sảng rượu nhằm kịp thời
cấp cứu, chăm sóc và hạn chế tối đa tử vong, đồng thời là tiền đề cho những nghiên


1


cứu đánh giá sau này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Tổng quan về hội chứng
sảng rượu và tìm hiểu các yếu tố dự báo sảng rượu tại Bệnh viện E” với 2 mục
tiêu chính sau:
1.

Tổng quan hệ thống về điều trị và các yếu tố dự báo sảng rượu.

2. Tìm hiểu, đánh giá các yếu tố dự báo sảng rượu từ 10/2020 đến
4/2021 tại Bệnh viện E.

2


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1.

Một vài nét về rượu, lạm dụng rượu và nghiện rượu

Rượu là đồ uống có cồn thực phẩm, được sản xuất từ quá trình lên men từ
một hoặc hỗn hợp của các loại nguyên liệu chủ yếu gồm tinh bột của ngũ cốc,
dịch đường của cây, hoa, củ, quả hoặc là đồ uống được pha chế từ cồn thực phẩm
(như cocktail, nước trái cây) [2].
Hiện nay tại Việt Nam, tình trạng sử dụng rượu bia đang ở mức cao và
tăng nhanh trong những năm qua. Lượng tiêu thụ rượu bia bình quân tại Việt
Nam so với thế giới từng giai đoạn lần lượt là ở từ 3,8 lít với 5,5 lít giai đoạn
2003-2005 lên 4,7 lít với 6,4 lít năm 2009-2011 và 8,3 lít với 6,4 lít trong giai
đoạn 2015-2017. Tổ chức Y tế Thế giới dự báo con số này có thể tăng lên 9,9 lít

vào năm 2020 và 11,4 lít vào năm 2025 nếu khơng có biện pháp can thiệp hiệu
quả vào việc kiểm sốt tác hại của sử dụng rượu bia. Bên cạnh tiêu thụ bình quân
đầu người cao, tình trạng uống rượu bia ở mức nguy hại cũng đang rất phổ biến ở
người trưởng thành tại Việt Nam. Năm 2015, gần một nửa nam giới (44,2%)
uống rượu bia ở mức nguy hại, mức tăng gần gấp đôi so với năm 2010 (25,1%).
Mức tiêu thụ này là rất cao, xếp thứ hai trong các nước Đơng Nam Á/Tây Thái
Bình Dương, xếp thứ 10 Châu Á và thứ 29 thế giới [9].
Để hình dung và ước tính khối lượng cồn nguyên chất đã tiêu thụ, nhiều
quốc gia đã đưa định nghĩa đồ uống có cồn và định nghĩa về đơn vị chuẩn vào
hướng dẫn quốc gia. 50 quốc gia đã định nghĩa đơn vị tiêu chuẩn tính theo gam
chất cồn tuyệt đối. Cho đến nay, 10 gam là mức phổ thông nhất cho 1 đơn vị cồn
tiêu chuẩn (tại 26 quốc gia) [9]. Cách tính đơn vị cồn trong rượu, bia như sau:
Đơn vị cồn = Dung tích (ml) x Nồng độ (%) x 0,79 (hệ số quy đổi)
Ví dụ: chai bia 330ml và nồng độ cồn 5% sẽ có số gam cồn là: 330 x 0,05 x
0,79 = 13g; tương đương 1,3 đơn vị cồn. Như vậy, một đơn vị cồn tương đương với:
3/4 chai hoặc 3/4 lon bia 330 ml (5%); 1 chai hoặc một lon nước trái cây có

3


cồn loại 330ml (4,5%); 1 cốc bia hơi 330 ml (4%); 1 ly rượu vang 100 ml
(13,5%); hoặc một ly nhỏ hoặc cốc nhỏ rượu mạnh 40 ml (30%) [2].
Tiêu chuẩn xác định lạm dụng rượu, bia của WHO: Đối với phụ nữ: trên
14 đơn vị rượu mỗi tuần hoặc 2 đơn vị rượu mỗi ngày, trên ½ đơn vị cồn/ giờ.
Đối với nam giới: trên 21 đơn vị rượu mỗi tuần hoặc 3 đơn vị rượu mỗi ngày,
hơn 1 đơn vị cồn/giờ [9].
Lạm dụng độc chất (bao gồm lạm dụng rượu) là việc sử dụng thái quá một
chất tác động đến tâm thần nào đó có hại cho sức khoẻ về mặt cơ thể cũng như tâm
thần. Một mức độ gây ra hậu quả nghiêm trọng hơn khi sử dụng rượu là nghiện
rượu. Nghiện rượu hay còn gọi là lệ thuộc rượu là toàn bộ những hành vi, nhận thức

và đáp ứng sinh lý của người sử dụng rượu, tác động đến tâm thần làm cho bản thân
người nghiện rượu dần dần không làm được những công việc khác nữa. Theo ICD10, tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện rượu là có từ 3 trở lên các biểu hiện sau đây xảy ra
cùng nhau trong vịng ít nhất 1 tháng hoặc nếu tồn tại trong khoảng thời gian ngắn
hơn 1 tháng, thì cần lặp đi lặp lại cùng nhau trong khoảng thời gian

12 tháng:
(1) Thèm muốn mạnh mẽ hoặc cảm thấy buộc phải sử dụng rượu.
(2) Khó khăn trong việc kiểm sốt tập tính sử dụng rượu về mặt thời
gian bắt đầu, kết thúc hoặc mức sử dụng.
(3) Một trạng thái cai sinh lý khi ngừng hay giảm bớt sử dụng rượu.
(4) Có bằng chứng về hiện tượng tăng dung nạp (chịu đựng) rượu như:
cần phải tăng liều để loại bỏ những cảm giác khó chịu do thiếu rượu gây
ra.

(5) Dần xao nhãng các thú vui hoặc những thích thú trước đây.
(6) Tiếp tục sử dụng rượu mặc dù có bằng chứng rõ ràng về hậu quả
và tai hại [3].
1.2.

Hội chứng cai rượu

4


Hội chứng cai rượu (HCCR) là biểu hiện đặc trưng của nghiện rượu, xuất
hiện khi ngừng hoặc giảm đột ngột lượng rượu tiêu thụ. Cơ chế bệnh sinh gây ra
bệnh cảnh HCCR rất phức tạp và còn nhiều tranh cãi nhưng cơ chế thông qua các
dẫn truyền thần kinh được nhiều tác giả thống nhất hơn cả. Thông thường, chất
dẫn truyền thần kinh kích thích (glutamate) và ức chế gamma-aminobutyric acid
(GABA) ở trong trạng thái cân bằng nội môi. Rượu tạo điều kiện cho hoạt động

của GABA, gây giảm kích thích thần kinh trung ương. Về lâu dài, số lượng các
thụ thể GABA giảm xuống (giảm điều hòa). Điều này dẫn đến việc yêu cầu về
liều lượng rượu ngày càng lớn để đạt được hiệu ứng hưng phấn tương tự (hiện
tượng dung nạp). Rượu có hoạt tính đối kháng thụ thể N-methyl-D-aspartate
(NMDA), do đó làm giảm hưng phấn thần kinh trung ương. Sử dụng rượu lâu dài
dẫn đến sự gia tăng số lượng các thụ thể NMDA (theo cơ chế tăng cường điều
tiết) và sản xuất nhiều glutamate hơn để duy trì cân bằng nội mơi của thần kinh
trung ương. Khi người uống rượu mãn tính ngừng rượu đột ngột, sự ức chế thần
kinh trung ương qua trung gian rượu sẽ giảm xuống, dẫn đến kích thích thần kinh
trung ương. Cơ thể phản ứng bằng cách tăng bù trừ các hệ Dopaminergic,
Noradrenergic, NMDA gây tăng giải phóng Noradrenalin, hậu quả của q trình
này là tình trạng tăng kích thích tâm thần, run, tăng kích thích giao cảm. Yếu tố
giảm kali, magie trong máu cũng có tác động đến cơ chế này. Ngồi ra, ngừng
rượu cịn làm rối loạn hoạt động của trục dưới đồi – tuyến yên – tuyến thượng
thận làm tăng tiết cortisol gây ra các triệu chứng lâm sàng như tăng nhịp tim,
căng thẳng, hoảng loạn… [1, 26, 30].
Triệu chứng của HCCR:
Triệu chứng kinh điển là run, có thể xuất hiện sau 6-8 giờ khi ngừng
rượu.

Các triệu chứng loạn thần (hoang tưởng, ảo giác) xuất hiện sau 8-12 giờ,
còn các cơn co giật xuất hiện trong khoảng 12-24 giờ kể từ khi ngừng sử dụng
rượu. Các cơn co giật liên quan đến HCCR có tính chất lặp lại và thường có
nhiều hơn một cơn co giật trong vịng 3-6 giờ sau cơn đầu tiên.

5


Sảng rượu có thể xuất hiện bất cứ lúc nào trong vòng 72 giờ đầu và nên
theo dõi sự tiến triển sảng rượu trong một tuần đầu cai rượu. Đôi khi HCCR

khơng đi theo tiến trình này mà trực tiếp tiến đến HCSR.
Các triệu chứng cơ thể khác xuất hiện trong vòng 24-48 giờ, bao gồm
các triệu chứng như:
+

Trên hệ tiêu hố: buồn nơn, nơn.

+
Kích thích thần kinh giao cảm: lo lắng, vã mồ hơi, đỏ mặt, đau nhói,
nhịp tim nhanh, tăng huyết áp nhẹ, dễ giật mình [7].
Theo ICD-10, tiêu chuẩn chẩn đốn HCCR (F.10) bao gồm:
Có bằng chứng về việc bệnh nhân mới ngừng hoặc giảm sử dụng rượu sau
khi đã sử dụng rượu với liều cao trong thời gian kéo dài.
Bệnh nhân có ít nhất 3 trong số các triệu chứng cai rượu sau: Run; Đau
đầu; Mất ngủ; Vã mồ hôi; Buồn nôn hoặc nôn; Mệt mỏi; Nhịp tim nhanh hoặc
tăng huyết áp; Động kinh cơn lớn (co cứng – co giật); Kích thích tâm thần vận
động; Có các ảo tưởng, ảo giác nhất thời (ảo thị, ảo thanh, ảo giác xúc giác).
Các triệu chứng và dấu hiệu không thể quy về 1 bệnh lý nội khoa không liên
quan đến sử dụng rượu và không thể quy cho 1 rối loạn tâm thần hay rối loạn hành

vi

khác [10].
Cho đến hiện tại, để đánh giá mức độ trầm trọng của các triệu chứng cai ban

đầu có khá nhiều thang điểm như CIWA-Ar (Clinical Institute Withdrawal
Assessment for Alcohol), MINDS (Minnesota Detoxification Scale), SAS (Sedation
Analgesia

Scale),


RASS

(Richmond

Assessment-Sedation

Scale),

WAS

(Withdrawal Assessment Scale), PAWSS (Prediction of Alcohol Withdrawal
Severity Scale)... Thang điểm CIWA-Ar được sử dụng rất rộng rãi và phổ biến, nó
đã được dịch sang hơn 20 ngôn ngữ khác nhau. Thang điểm này được sáng lập và
phát triển bởi Edward M. Sellers, một giáo sư danh dự tại Đại học Toronto. Thang
điểm CIWA-Ar có 10 mục với các mức điểm khác nhau tương ứng với mức độ trầm
trọng của các triệu chứng cai bao gồm: buồn nơn hoặc nơn; tình trạng run;

6


cơn vã mồ hơi; tình trạng lo âu; tình trạng kích động; rối loạn xúc giác; rối loạn
thính giác; rối loạn thị giác; đau đầu; rối loạn định hướng và sự mù mờ nhận cảm
(điểm và cách cho điểm các mức độ của CIWA-Ar được mô tả chi tiết trong Phụ lục
1). Tổng điểm của các mục trên được chia thành 3 mức độ khác nhau đánh giá sự
nghiêm trọng của HCCR tương ứng như sau: dưới 8 điểm là trạng thái cai rượu

ở mức độ nhẹ; từ 8-15 điểm là trạng thái cai rượu ở mức độ vừa; trên 15 điểm thì
trạng thái cai rượu đã ở mức độ nặng, phức tạp.
1.3.


Hội chứng sảng rượu

1.3.1. Định nghĩa và đặc điểm dịch tễ
Sảng rượu lần đầu tiên được Pearson S.B. (1813) miêu tả lâm sàng và ông
gọi là “loạn thần cấp xuất hiện khi cai rượu”. Sutton T. (1813) đã đặt tên cho hội
chứng trên là “sảng rượu”. Cho đến nay, quan niệm về sảng rượu cơ bản đã thống
nhất, hầu hết các tác giả đều cho rằng sảng rượu là một thể bệnh riêng biệt trong
loạn thần do rượu, là một tình trạng loạn thần cấp của loạn thần do rượu được phát
sinh và phát triển trên cơ sở những người đã nghiện rượu mạn tính [6]. HCSR (hay
sảng run, cơn mê sảng trong HCCR) ít gặp hơn so với HCCR nhưng nguy hiểm hơn
rất nhiều. Hiện nay, HCSR được xem là biến chứng nặng nhất của HCCR được
ICD-10 xếp vào nhóm Rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng rượu.
Trên thế giới, các nghiên cứu về các rối loạn tâm thần do sử dụng rượu hầu
hết đều cho thấy rối loạn tâm thần do rượu là 1 bệnh lý phổ biến và ngày càng có
chiều hướng gia tăng. Tại Pháp theo thống kê, bệnh lý tâm thần do rượu chiếm 22%
số bệnh nhân nội trú tại bệnh viện tâm thần. Một nghiên cứu ở Anh cho thấy 26%
bệnh nhân tâm thần có liên quan đến sử dụng rượu. Năm 2017, Chiung M.C và
cộng sự đã tổng hợp dữ liệu của tất cả các bệnh nhân nội trú ở Mỹ từ năm 2000 đến
năm 2014. Nghiên cứu cho thấy, trong các chẩn đoán liên quan đến rượu ở năm
2014, loạn thần do rượu là nhóm lớn nhất chiếm 49,0%. Mặc dù cịn ít nhưng các
nghiên cứu ở Việt Nam cũng cho thấy rối loạn tâm thần do rượu đang ngày một gia
tăng theo thời gian. Theo tác giả Phạm Liên Hương (2001), tại Viện Sức khỏe Tâm
thần, tỉ lệ bệnh nhân nội trú có chẩn đốn loạn thần do rượu giai đoạn

7


1985-1989 là 0,31%, song đến giai đoạn 1995-2001 tỷ lệ này là 9,6%, tăng gấp
30 lần. Theo Ngô Hải Sơn (2011), rối loạn tâm thần hay gặp nhất ở nhóm bệnh

nhân sử dụng rượu là trạng thái cai chiếm 61,8%, tỷ lệ sảng rượu là 14,7%, tỷ lệ
bệnh nhân xuất hiện hoang tưởng và ảo giác lần lượt là 14,7 và 8,8%. Sảng rượu
gặp ở 59% số người uống mức độ 200-500ml rượu mỗi ngày, ở 41% số người
uống 600-1000ml rượu mỗi ngày [8].
1.3.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán
Theo ICD-10, tiêu chuẩn chẩn đoán trạng thái cai rượu với mê sảng
(F10.4) được mô tả như sau: Sảng rượu là một trạng thái lú lẫn, ngộ độc ngắn
nhưng đôi khi đe dọa tính mạng kèm theo nhiều rối loạn cơ thể. HCSR thường là
biến chứng của cai rượu tuyệt đối hoặc tương đối ở những người nghiện rượu
nặng, lâu ngày. Sảng rượu thường khởi đầu sau khi cai rượu, ở một số trường
hợp, sảng rượu có thể xuất hiện ngay trong một giai đoạn uống nhiều rượu. Có
các dấu hiệu đầu tiên điển hình bao gồm: mất ngủ, run và sợ hãi. Cũng có thể có
co giật do hội chứng cai xuất hiện trước khi bệnh khởi phát. Tam chứng kinh
điển gồm: ý thức mù mờ và lú lẫn, các ảo tưởng và ảo giác sinh động ở bất kỳ
giác quan nào (nhất là trong phạm vi thị giác) và triệu chứng run nặng. HCSR
đơi khi xuất hiện hoang tưởng, kích động, mất ngủ, chu kỳ giấc ngủ bị đảo lộn.
Theo hướng dẫn chẩn đoán của ICD-10, chẩn đoán trạng thái cai với mê
sảng cần sử dụng mã 5 chữ số để phân biệt rõ thêm và trong đó có:
F10.40: Trạng thái cai với mê sảng khơng có co giật.
F10.41: Trạng thái cai với mê sảng có co giật [10].
Ngồi ra, ở DSM - 5 mê sảng do ngộ độc rượu và mê sảng do cai rượu được
xếp chung vào mục 303.0. Tiêu chuẩn để chẩn đoán bao gồm: Rối loạn ý thức cùng
với giảm sự tập trung chú ý, sự chú ý ln dao động; Rối loạn nhận thức: giảm trí
nhớ, rối loạn định hướng, rối loạn ngôn ngữ, hoặc rối loạn khả năng, quan sát; Các
rối loạn này xuất hiện cấp tính (trong vài giờ đến vài ngày) và tiến triển có khuynh
hướng dao động trong ngày; Có bằng chứng về hội chứng cai rượu [14].

8



Bảng 1.1. So sánh các triệu chứng của HCCR và HCSR trong
tiêu chuẩn chẩn đoán của ICD-10 và DSM-5 [26]
Các triệu chứng
HCCR
Bằng chứng rõ ràng về việc gần đây đã ngừng hoặc
giảm sử dụng rượu sau khi đã sử dụng nhiều lần và
thường kéo dài và / hoặc liều cao.
Run lưỡi, mí mắt hoặc cánh tay khi duỗi
Vã mồ hơi
Buồn nơn hoặc nơn
Nhịp tim nhanh hoặc tăng huyết áp
Kích thích tâm thần vận động
Đau đầu
Mất ngủ
Khó chịu hoặc suy nhược
Ảo giác tạm thời về thị giác, thính giác, xúc giác hoặc
ảo tưởng
Động kinh cơn lớn (co cứng – co giật)
Lo lắng
HCSR
Mù mờ ý thức như suy giảm nhận thức về mơi trường
xung quanh, giảm khả năng tập trung, khó duy trì sự
tập trung hoặc dễ bị dịch chuyển sự chú ý
Rối loạn nhận thức
Rối tầm vận động


Rối loạn giấc ngủ hoặc chu kỳ ngủ - thức
Các triệu chứng khởi phát nhanh chóng và biến động
trong ngày

1.3.3. Triệu chứng
Hội chứng sảng rượu là một hình thái lâm sàng nặng khác của HCCR,
thường là hậu quả của cai rượu tuyệt đối hoặc tương đối, một số trường hợp xuất
hiện trong một giai đoạn uống nhiều rượu. HCSR thường liên quan đến bệnh cơ
9


thể và đe doạ đến tính mạng. Các dấu hiệu tiền triệu điển hình như mất ngủ, run
và sợ hãi, có thể co giật do cai xuất hiện trước khi bệnh khởi phát. Các triệu
chứng sảng rượu thường cao điểm trong khoảng 72-96 giờ sau khi uống rượu lần
cuối. Tam chứng kinh điển của sảng rượu bao gồm ý thức mù mờ lú lẫn, các ảo
tưởng, ảo giác sinh động ở bất kì giác quan nào và triệu chứng run nặng. Ngồi
ra, hoang tưởng, kích động, mất ngủ hoặc đảo lộn nhịp thức ngủ và tăng mạnh
hoạt động thần kinh tự trị cũng thường gặp [7].
Giai đoạn khởi phát: Sảng rượu có thể khởi phát cấp tính hay từ từ. Trong
giai đoạn này người bệnh chủ yếu cảm thấy mệt mỏi, chán ăn, rối loạn giấc ngủ,
rối loạn thần kinh thực vật. Thay đổi cảm xúc: hoảng hốt, lo âu. Bệnh tiến triển
nặng dần, nhất là về chiều tối, có thể có ảo tưởng, ảo giác.
Giai đoạn tồn phát: Ý thức mê sảng hoặc lú lẫn. Các ảo tưởng và ảo giác
sinh động, triệu chứng run nặng. Thường có hoang tưởng, kích động, mất ngủ…
Năng lực định hướng thời gian và khơng gian, định hướng xung quanh có thể
lệch lạc và bị rối loạn. Mức độ mù mờ ý thức thường trở nặng lên về chiều tối.
Xuất hiện các ảo giác như: ảo thị, ảo thanh, ảo giác xúc giác. Hoang tưởng cũng
xuất hiện và loại hoang tưởng thường gặp ở bệnh nhân sảng rượu là hoang tưởng
ghen tuông, bị chi phối. Có thể có kích động, rối loạn giấc ngủ. Các triệu chứng
kéo dài thường không quá 1 tuần [3].
1.4. Các yếu tố dự báo sảng rượu
1.4.1. Xã hội học
Yếu tố tuổi tác rất có ý nghĩa trong việc phát sinh và phát triển nghiện rượu.
Sảng rượu thường gặp ở người nghiện rượu mãn tính lứa 30 tuổi trở lên, rất ít gặp

bệnh nhân nghiện rượu dưới 30 tuổi bị sảng rượu [6]. Hiện nay, nghiện rượu ở phụ
nữ cũng khá phổ biến, nhất là ở các nước công nghiệp phát triển. Tuy nhiên tỷ lệ
bệnh lý do rượu ở nam giới vẫn chiếm phần lớn. Tỷ lệ nam/nữ bị nghiện rượu dao
động từ 4/1 đến 8/1. Ở Việt Nam, có lẽ do phong tục tập quán phụ nữ rất ít uống
rượu nên hầu như rất hiếm có bệnh nhân nữ bị nghiện rượu [4].

10


Các nghiên cứu trong và ngoài nước đều cho thấy có một tỷ lệ đáng kể
bệnh nhân nghiện rượu có trình độ học vấn thấp. Một nghiên cứu tại Đại học Y
Dược Thái Nguyên cho thấy trong số bệnh nhân tham gia, trình độ trung học phổ
thơng trở xuống chiếm đa số, số bệnh nhân có trình độ cao đẳng - đại học chiếm
tỷ lệ thấp (11,4%) [4]. Môi trường sống có ảnh hưởng quan trọng đến việc sử
dụng rượu và hình thành các rối loạn tâm thần do rượu. Các yếu tố dự báo có thể
là dân tộc, tơn giáo, nghề nghiệp, khu vực sinh sống, tình trạng hồn nhân. Những
tác động thúc đẩy uống nhiều rượu như: tăng khả năng tương tác xã hội và tạo
dựng các mối quan hệ; giảm bớt nỗi buồn và lo lắng, ý nghĩ dùng rượu để giải
quyết stress; tăng hiệu suất tình dục sẽ làm tăng nguy cơ lạm dụng rượu và
nghiện rượu [12].
1.4.2. Đặc điểm về việc sử dụng rượu
Về thời gian uống rượu, đa số các tác giả đều cho rằng thời gian uống rượu
phải trên 10 năm mới trở thành nghiện rượu và sảng rượu thường phát sinh, phát
triển ở bệnh nhân có thời gian nghiện rượu trên 10 năm, như vậy sảng rượu thường
gặp ở người uống rượu trên 20 năm. Nghiên cứu trên 143 bệnh nhân loạn thần do
rượu, tác giả Lý Trần Tình (2006) cho thấy thời gian uống rượu trung bình là 12.9

± 6.8 năm. Bên cạnh đó, lượng rượu uống mỗi ngày càng nhiều thì tỷ lệ bệnh
càng cao. Theo nghiên cứu của Phạm Quang Lịch (2003), 91,7% bệnh nhân
nghiện rượu sử dụng trên 500 ml/ngày. Bùi Quang Huy (2005) cũng nhận thấy

rằng 91,9% bệnh nhân loạn thần do rượu uống trên 300 ml/ ngày [4].
1.4.3. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng
Về triệu chứng rối loạn thần kinh thực vật ở bệnh nhân sảng rượu, theo
Nguyễn Mạnh Hùng (2009), run là triệu chứng xuất hiện ở 100% bệnh nhân và
cũng có thời gian tồn tại lâu nhất đến tận ngày thứ 21 mới thấy khơng có bênh
nhân nào cịn triệu chứng này. Triệu chứng tốt mồ hơi cũng thấy xuất hiện ở tất
cả các bệnh nhân nhưng có thời gian tồn tại ngắn hơn, xuất hiện nhiều ở ngày thứ
nhất, ngày thứ hai sau đó giảm dần và hết ở ngày thứ 6. Bồn chồn (58,41%) và

11


mạch nhanh (58,41%) là những triệu chứng xuất hiện nhiều thứ ba ở nhóm này
nhưng khơng tồn tại lâu [6].
Các rối loạn các năng lực định hướng không gian, thời gian thường nặng,
định hướng xung quanh đôi lúc bị lệch lạc, còn giữ được định hướng bản thân.
Nghiên cứu của Nguyễn Manh Hùng (2009) chỉ ra đa số bệnh nhân rối loạn các
năng lực định hướng vào ngày thứ thứ nhất, thứ hai. Tỷ lệ rối loạn năng lực định
hướng: định hướng không gian 99,11%, định hướng thời gian 95,57%, định hướng
môi trường (xung quanh) 94,67%. Định hướng bản thân có tỷ lệ ít nhất 14,06%, đến
ngày thứ 5 đã khơng cịn bệnh nhân nào bị rối loạn định hướng này [6].

Triệu chứng loạn thần đa dạng với nhiều loại ảo giác như ảo thị, ảo thanh,
ảo giác xúc giác kỳ lạ phối hợp với các hoang tưởng thường có nội dung bị hại.
Ảo giác chiếm vị trí chủ yếu hay xuất hiện vào buổi chiều tối với nội dung làm
người bệnh ghê sợ, hốt hoảng. Ảo thị thường sinh động kết hợp với ảo giác xúc
giác làm người bệnh đơi khi cảm thấy nhiều loại cơn trùng đang bị trên cơ thể,
cảm thấy đau do động vật cắn. Nghiên cứu của Hồng Văn Trọng (2004) thấy
bệnh nhân có ảo thị (60,3%), ảo giác xúc giác (58,9%) và ảo thanh (20,5%) [11].
Cảm xúc, hành vi bị chi phối mạnh bởi các ảo tưởng, ảo giác nên thường

mang tính kích động và nguy hiểm (tự vệ hay tấn công hoặc bỏ trốn, nhảy qua
cửa sổ). Đồng thời xuất hiện những biểu hiện về thần kinh như run mạnh thường
xuyên, không đều, run tồn bộ cơ thể, nói khó, mất phối hợp vận động với các cử
chỉ vụng về, bước đi chệnh choạng, hay ngã [7].
Một số đặc điểm cận lâm sàng cũng là các yếu tố nguy cơ dẫn đến HCSR
đáng chú ý. Một nghiên cứu lâm sàng trên 159 bệnh nhân tại bệnh viện đa khoa ở
Đức đã chỉ ra rằng có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm bệnh nhân có và khơng có
HCSR về nồng độ các chất điện giải trong máu. Nếu so sánh với các trường hợp có
HCCR ở mức độ trung bình và nhẹ thì các bệnh nhân có HCSR cho thấy sự thấp
hơn về nồng độ Natri, Kali và Clo. Rối loạn điện giải đồ cũng được nhắc đến như là
một yếu tố nguy cơ dẫn đến HCSR trong các trạng thái cai trong một số nghiên cứu
khác trong nước như của Nguyễn Mạnh Hùng (2009), Trịnh Quỳnh

12


Giang (2011). Đặc điểm rất dễ gặp ở bệnh nhân nghiện rượu đó là sự suy giảm
chức năng gan. Đa số các bệnh nhân được chẩn đoán rối loạn tâm thần do sử
dụng rượu đều mắc bệnh lý về gan kèm theo như viêm gan, xơ gan, gan nhiễm
mỡ hay suy gan. Điều này thể hiện rõ khi có sự gia tăng các chỉ số đánh giá chức
năng gan như AST (Aspartate aminotransferase), ALT (Alanine
aminotransferase), hay Bilirubin. Tuy nhiên vẫn có nghiên cứu chỉ ra rằng có sự
chênh lệch có ý nghĩa của các chỉ số này giữa các trường hợp xuất hiện HCSR và
không xuất hiện HCSR. Một nhân tố mới và xuất hiện nhiều trong các nghiên
cứu đánh giá nguy cơ liên quan đến HCSR gần đây là số lượng tiểu cầu. Ghi
nhận tại một nghiên cứu ở Hàn Quốc trên 97 bệnh nhân cho thấy nhóm có HCSR
có số lượng tiểu cầu thấp hơn rất nhiều so với nhóm khơng có HCSR.
1.5.

Điều trị


1.5.1. Ngun tắc điều trị
HCSR là biến chứng nghiêm trọng nhất của HCCR, rất dễ dẫn đến tử vong
nếu khơng được xử trí kịp thời, vì vậy HCSR cần được quản lý như một cấp cứu
y tế và lý tưởng nhất là nên được quản lý trong cơ sở điều trị nội trú hoặc ICU. Mục
tiêu chính của điều trị là điều trị các rối loạn cơ bản, giảm thiểu mức độ nghiêm
trọng của các triệu chứng, ngăn ngừa các biến chứng nghiêm trọng hơn như co giật,
mê sảng, kiểm sốt sự kích động và hạn chế tối đa nguy cơ bị thương, tử vong qua
đó cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Hơn nữa, cần phải nỗ lực gia tăng
động lực cho bệnh nhân để duy trì việc kiêng rượu lâu dài và tạo

điều kiện cho việc phòng ngừa tái phát [15, 18, 37, 38, 46].
Phương pháp điều trị: Người bệnh cần phải nhập viện điều trị nội trú. Điều
trị tích cực toàn diện và lâu dài. Điều trị kết hợp bằng hóa dược và tâm lý, phục
hồi chức năng tại cộng đồng. Điều trị các bệnh lý cơ thể đi kèm (bệnh lý gan, dạ
dày, hơ hấp…) [3].
Chăm sóc hỗ trợ: các biện pháp can thiệp không dùng thuốc là cách tiếp cận
đầu tiên. Nên trấn an bệnh nhân thường xuyên, nỗ lực giúp bệnh nhân định hướng
lại và đặc biệt cần sự chăm sóc của điều dưỡng. Các yếu tố mơi trường có thể ảnh

13


hưởng đến tình trạng chung và sẽ góp phần giúp bệnh nhân bình tĩnh lại. Các
quy tắc chung như sau: mơi trường n tĩnh, tốt nhất là phịng đơn hoặc khoảng
cách giường vừa đủ, khơng có đồ vật khơng cần thiết, giảm thiểu tiếng ồn bên
ngoài; theo dõi bệnh nhân, kiểm tra sức khỏe ít nhất bốn lần mỗi giờ với nỗ lực
định hướng lại bệnh nhân. Trong trường hợp quá kích động hoặc gây hấn, các
biện pháp kiềm chế cơ học có thể được áp dụng trong thời gian ngắn nhất dưới
sự giám sát chặt chẽ để ngăn ngừa tổn hại cho bản thân hoặc người khác. Chăm

sóc hỗ trợ chung cần khắc phục tình trạng thiếu nước, hạ đường huyết và rối loạn
điện giải, đồng thời nên bổ sung nước và bổ sung vitamin [37, 38].
Hỗ trợ theo sau: Sau khi cơn mê sảng giảm bớt, cần thiết phảitruyền đạt
thơng tin thích hợp và có liệu pháp tâm lý hỗ trợ cho bệnh nhân và gia đình, bao
gồm giải thích nhẹ nhàng về nguyên nhân cơ bản, sự xuất hiện và rút lui các hiện
tượng mê sảng hoặc các trải nghiệm kỳ lạ. Liệu pháp trị liệu này nhằm mục đích
giúp bệnh nhân hiểu đầy đủ về các triệu chứng mê sảng, để ngăn ngừa sự xấu hổ,
cảm giác tội lỗi và giúp tái hịa nhập với mơi trường ban đầu của họ. Những hỗ trợ
này có thể có ảnh hưởng lớn đến động lực của bệnh nhân để bắt đầu điều trị nghiện
rượu lâu dài và phức tạp, đồng thời có tác động đến việc tuân thủ điều trị [37].

1.5.2. Thuốc sử dụng để điều trị
Theo Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị một số rối loạn tâm thần của Bộ Y tế,
nhóm thuốc được sử dụng để điều trị đầu tiên các thuốc bình thần: benzodiazepin
dùng đường uống hoặc tiêm bắp, tiêm tĩnh mạch [3]. Hiện tại, nhóm thuốc
benzodiazepin là thuốc đầu tay trong việc xử trí HCCR cho thấ hiệu quả đã được
chứng minh trong việc ngăn ngừa sự phát triển của các dạng HCCR phức tạp với
việc giảm tỷ lệ co giật (84%), HCSR và nguy cơ tử vong [38]. Bệnh nhân ở trong
trạng thái quá kích thích thần kinh trung ương do mất tác dụng ức chế GABA và
benzodiazepin là nhóm thuốc điều trị chủ yếu cung cấp chất chủ vận GABA. Một số
benzodiazepin: diazepam, lorazepam, midazolam, oxazepam và clodiazepoxid.
Diazepam hoặc lorazepam đường tiêm tĩnh mạch nên được dùng với liều khởi đầu
là 10 mg hoặc 4 mg (như được mô tả trong Hình 1.1) với sự gia tăng liều nhanh

14


chóng. Diazepam có các chất chuyển hóa có hoạt tính như nordiazepam (còn được
gọi là desmethyldiazepam) và oxazepam, với nordiazepam chủ yếu là kéo dài thời
gian cho tác dụng an thần. Bệnh thận cũng có thể gây kéo dài đáng kể tác dụng của

diazepam, vì chất chuyển hóa có hoạt tính của diazepam được thanh thải chủ yếu
qua thận. Lorazepam khơng có chất chuyển hóa có hoạt tính, do đó độ thanh thải
nhanh hơn [34]. Ở những bệnh nhân bị giảm chuyển hóa ở gan, chẳng hạn như ở
người cao tuổi hoặc những người bị bệnh gan tiến triển, việc sử dụng các thuốc tác
dụng ngắn có thể được ưu tiên hơn để ngăn ngừa quá mức an thần và ức chế hô hấp.
Trong những trường hợp này, oxazepam và lorazepam đại diện cho các loại thuốc
được lựa chọn do khơng có chuyển hóa oxy hóa và các chất chuyển hóa có hoạt
tính. Khả năng sử dụng nhiều đường dùng (uống, tiêm bắp, tiêm tĩnh mạch) là một
lợi thế của benzodiazepin. Đường tiêm tĩnh mạch nên được ưu tiên hơn đối với các
trường hợp có mức độ nghiêm trọng từ trung bình đến nặng (đánh giá theo thang
điểm CIWA-Ar) vì tác dụng khởi phát nhanh, trong khi đường uống có thể được sử
dụng ở các dạng nhẹ hơn. Clodiazepoxid và diazepam không nên dùng đường tiêm
bắp do khả năng hấp thu thất thường của chúng, lorazepam có thể được sử dụng
bằng cả 3 đường, oxazepam có thể chỉ được dùng bằng đường uống, trong khi
midazolam có thể được truyền qua đường tĩnh mạch [38].

Bảng 1.2. So sánh các thuốc benzodiazepin [34]
Thuốc
Diazepam

Lorazepam
Midazolam
Oxazepam
Clodiazepoxid
Chú thích: IV: tiêm tĩnh mạch; IM: tiêm bắp; PO: đường uống.


15



×