Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

ĐỀ CƯƠNG ôn tập môn TRIẾT học đầy đủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (850.48 KB, 49 trang )

ĐỀ CƯƠNG ƠN TẬP MƠN
TRIẾT HỌC ĐẦY ĐỦ
CÂU 1: Trình bày quan điểm của chủ nghĩa Mac về vai trò của quần chúng nhân
dân và cá nhân trong lịch sử, rút ra ý nghĩa phương pháp luận của nó trong
nhận thức và thực tiễn tại Việt Nam hiện nay.
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mac về vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân
trong lịch sử:
1. Khái niệm quần chúng nhân dân:
 QCND là những tầng lớp, những giai cấp người có cùng lợi ích căn bản, liên
kết lại với nhau thành tập thể dưới sự lãnh đạo của 1 cá nhân hay 1 tổ chức
đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, XH của 1 thời đại
nhất định.
 Như vậy khái niệm quần chúng nhân dân động vì QCND là 1 phạm trù lịch sử
và có sự vận động, biến đổi theo sự phát triển của lịch sử, XH.
 Ở những thời đại lịch sử nhất định thì có lực lượng QCND khác nhau.
 Khi xét đến vai trò của quần chúng nhân dân, khơng chỉ đi vào khái niệm mà cịn
đi vào nội dung.
2. Vai trò của QCND trong lịch sử:
Trong lịch sử, đặc biệt trong lĩnh vực tư tưởng có nhiều quan điểm trước Mác
khơng thừa nhận vai trị lịch sử của nhân dân hoặc là hạ thấp vai trò của lực lượng
quần chúng nhân dân.
VD: người ta cho rằng LL QCND là những người không hiểu biết, cần được chỉ
bảo, sai khiến hay cho họ là 1 dãy số 0 vơ nghĩa chỉ có ý nghĩa khi có một con số đứng
đầu; hoặc QCND chỉ là một đống gỗ mục, vai trị của lãnh tụ chính là đống lửa làm
cho đống gỗ mục có giá trị; hoặc LL QCND là 1 khối đá vơ hồn, vai trị của người chỉ
huy là người nghệ sĩ tạo hồn cho khối đá đó.
 Quan điểm Nho giáo chia con người ra làm 3 loại:

Thánh nhân

Người quân tử (người nhờ học mà biết)



Tiểu nhân (là người dân – là hạng người dù học cũng khơng biết).

Phụ nhân nan hóa (ngoại hạng)
 Giai cấp phong kiến coi QCND là dân đen, con đỏ.
 Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo
chân chính ra lịch sử. Bởi vì, mọi lý tưởng giải phóng xã hội, giải phóng con
người chỉ được chứng minh thông qua sự tiếp thu và họat động của QCND.
Hơn nữa, tư tưởng tự nó không làm biến đổi XH mà phải thông wa hành động
cách mạng, họat động thực tiễn của wần chúng nhân dân, để biến lý tưởng
ước mơ thành hiện thực trong đời sống xã hội.
 Vai trò của QCND được thể hiện ở 3 điểm sau:


QCND là LL sản xuất cơ bản của XH, là lực lượng sản xuất trực tiếp ra
của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và sự phát triển của xã hội. Con
người muốn tồi tại thì phải có các điều kiện vật chất cần thiết, mà những
nhu cầu đó chỉ có thể đáp ứng được thơng wa sản xuất. LLSX cơ bản là
đông đảo wần chúng nhân dân lao động bao gồm cả lao động chân tay và
lao động trí óc. CM KH-KT hiện nay có vai trò đặc biệt đối với sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Song, vai trị của khoa học chỉ có thể phát huy
thông wa thực tiễn sản xuất của wần chúng nhân dân lao động, nhất là đội
ngũ công nhân hiện đại và trí thức trong nền sản xuất xã hội, của thời đại
kinh tế tri thức. Điều đó khẳng định rằng, họat động sản xuất của wần chúng
nhân dân là điều kiện cơ bản để quyết định sự tồn tại và phát triển của xã
hội.

QCND là LL cơ bản của mọi cuộc CMXH – nghĩa là mọi cuộc CMXH nếu
khơng có vai trị của QCND thì khơng thành cơng. Lênin nói “CM là ngày hội
của QC”. Lịch sử đã chứng minh rằng, khơng có cuộc chuyển biến CM nào

mà không là họat động đông đảo của QCND. Họ là lực lưiợng cơ bản của
CM, đóng vai trị quyết định thắng lợi của mọi cuộc CM. Trong các cuộc CM
làm chuyển biến xã hội từ hình thái kinh tế-XH này sang hình thái KT-XH
khác, nhân dân lao động là lực lượng tham gia đông đảo. Tuy nhiên, suy
đến cùng, nguyên nhân của mọi cuộc cách mạng là bắt đầu từ sự phát triển
của LLSX, dẫn đến mâu thuẫn với QHSX, nghĩa là bắt đầu từ họat động sản
xuất vật chất của QCND. Bởi vậy, nhân dân lao động là chủ thể của các wá
trình kinh tế, chính trị, xã hội, đóng vai trị là động lực cơ bản của mọi cuộc
CMXH.

QCND còn là lực lượng sáng tạo ra những giá trị văn hóa, tinh thần cho
XH. Chính QCND làm cho giá trị tinh thần ngày càng phong phú. QCND
đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của khoa học, nghệ thuật, văn học,
đồng thời, áp dụng những thành tựu đó vào họat động thực tiễn. Những
sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh tế, chính trị,
đạo đức… của nhân dân vừa là cội nguồn vừa là điều kiện để thúc đẩy sự
phát triển nền văn hóa tinh thần của các dân tộc trong mọi thời đại. Họat
động của QCND từ trong thực tiễn là nguồn cảm húng vô tận cho mọi sáng
tạo tinh thần trong đời sống xã hội. Mặc khác, các giá trị văn hóa tinh thần
chỉ có thể trường tồn khi được đông đảo QCND chấp nhận và truyền bá sâu
rộng, trở thành giá trị phổ biến.
 Nói tóm lại vai trị của QCND đó là lực lượng quyết định trong SX vật chất, trong
CMXH và sang tạo ra các giá trị văn hóa tinh thần. QCND ln đóng vai trị quyết định
trong lịch sử. Tuy nhiên, tùy vào điều kiện lịch sự mà vai trò chủ thể của QCND cũng
biểu hiện khác nhau. Chỉ có trong CNXH, QCND mới có đủ điều kiện để phát huy tài
năng và trí sáng tạo của mình.
 Vai trị của cá nhân trong lịch sử
Cá nhân có ý nghĩa là 1 người lãnh tụ.`
 Định nghĩa cá nhân: Cá nhân trong lịch sử chính là vai trò của lãnh tụ đối với
lịch sử.

 Theo quan điểm của Mac-Lenin, vai trò của lãnh tụ là: Lãnh tụ là những cá
nhân kiệt xuất do phong trào của CMQCND tạo nên.
 Vĩ nhân: là con người lớn, con người vĩ đại, là những cá nhân kiệt xuất trưởng



thành từ phong trào của quần chúng, nắm bắt được những vấn đề căn bản
nhất trong những lĩnh vực nhất định của hoạt động thực tiễn và lý luận.
 Để trở thành lãnh tụ, những cá nhân kiệt xuất còn phải gắn bó với QC và được
QC tín nhiệm, hết lịng phụng sự vì lợi ích của QCND. Phẩm chất cơ bản của
lãnh tụ là:

Phải có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động của
dân tộc, quốc tế và hiện đại.

Có năng lực tập hợp QCND, thống nhất ý chí và hoạt động của QCND với
nhiệm vụ của dân tộc, quốc tế và hiện đại.

Phải gắn bó mật thiết với nhân dân, hy sinh đấu tranh vì lợi ích của dân
tộc, quốc tế và thời đại.
 Lênin viết: ”Trong lịch sử chưa hề có giai cấp nào giành được quyền thống trị
nếu nó khơng tạo được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị,
những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”.
 Vai trò của lãnh tụ: trong mối quan hệ với QCND, lãnh tụ có 3 nhiệm vụ sau đây:
 Nắm bắt xu thế của dân tộc, của quốc tế và thời đại.
 Định hướng chiến lược và hoạch định, chương trình, hành động CM.
 Tổ chức lực lượng để giải quyết những mục tiêu CM dân tộc.
3. Mối quan hệ giữa QCND và lãnh tụ:
 Xét về lực lượng quần chúng: LLQC là LL sáng tạo ra của cải vật chất và tinh
thần cho XH, là LL đi đầu trong mọi phong trào CMXH. CM ln cần QCND.

 Vai trị của lãnh tụ trong mối quan hệ này:

Bản thân của lãnh tụ có khả năng hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tiến bộ
của XH. Nếu người lãnh tụ đó thấy được xu thế thời đại, nắm được xu thế
thì sẽ thúc đẩy XH cịn nếu lãnh tụ xa rời quần chúng thì sẽ kìm hãm sự
phát triển của XH.

Lãnh tụ là người sáng lập các tổ chức chính trị XH và là linh hồn của tổ
chức đó cho nên lãnh tụ có 1 ý nghĩa hết sức quan trọng đối với phong trào
CM.

Lãnh tụ của mỗi thời đại chỉ có thể hồn thành nhiệm vụ đặt ra của thời
đại đó. Khơng có lãnh tụ chung cho mọi thời đại. Điều này thể hiện rõ vai trò
của lãnh tụ đối với CMXH, đối với các mục tiêu, yêu cầu của lịch sử đề ra.
 Giữa QCND và lãnh tụ có sự gắn bó với nhau, thể hiện ở sự thống nhất trong
mục đích và lợi ích. Lãnh tụ phong trào khơng có lợi ích riêng mà lợi ích của
lãnh tụ chính là lợi ích của nhân dân. Khi nhà báo hỏi, HCM đã trả lời rằng:
“Mong muốn lớn nhất là đất nước được độc lập, ai ai cũng được no ấm, được
học hành đầy đủ”.
 Nhưng giữa QCND và lãnh tụ có vai trị khác nhau: Lãnh tụ có vai trị quan
trọng cịn QCND có vai trị quyết định. Sự khác nhau này khơng dẫn đến thủ
tiêu mà dẫn đến sự thống nhất. Không có phong trào CM của QCND thì cũng
khơng xuất hiện lãnh tụ, lãnh tụ là nhân tố quan trọng thúc đẩy phong trào CM
của QC.
II. Ý nghĩa:
Từ sự phân tích và tìm hiểu wan điểm của CN M – L về vai trò của wần chúng và
cá nhân trong lịch sử như trên, chúng ta thấy rằng k thể coi nhẹ vai trị của wần chúng
ND trong wá trình XD đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ hiện nay khi nước ta đang
tiến hành CNH – HĐH đất nước. Như chủ tịch HCM đã từng nói:



“Dễ trăm lần k dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Như vậy, từ đây có thể rút ra YN PPL như sau:
1. Phê phán tệ sung bái cá nhân:
 CN Mác Lênin rất coi trọng vai trò của lãnh tụ trong sự phát triển của lịch sử.
Tuy nhiên quan điểm của CN Mác Lenin cũng kiên quyết chống lại tệ sùng bái
cá nhân.
 Tệ sung bái cá nhân là sự thần thánh hóa cá nhân lãnh đạo đi đến chỗ chỉ thấy
vai trò của cá nhân quyết định tất cả mà không thấy hoặc là coi nhẹ vai trò của
QCND. Đây là biểu hiện của quan niệm duy tâm về lịch sử, hoàn toàn trái với
thế giới quan của giai cấp vô sản. Căn bệnh trên dẫn đến hạn chế hoặc tước bỏ
quyền làm chủ của nhân dân, làm cho nhân dân thiếu tin tưởng vào chính bản
thân họ, dẫn đến thái độ phục tùng tiêu cực, mù qng, khơng phát huy được
tính năng động sáng tạo chủ quan của mình. Người mắc căn bệnh sùng bái cá
nhân thường đặt mình cao hơn tập thể, đứng ngồi đường lối chính sách, pháp
luật của Đảng và nhà nước. Họ khơng thực hiện đúng chính sách cán bộ của
Đảng, vi phạm nguyên tắc sinh họat Đảng, chia rẻ bè phái, mất đòan kết, tạo ra
nhiều hiện tượng tiêu cực, đánh mất lòng tin trong cán bộ và nhân dân, phá
họai sự nghệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Vì thế, các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác-Lênin ln ln coi sùng bái cá nhân là một hiện tượng
hồn tồn xa lạ với bản chất, mục đích, lý tưởng của giai cấp vơ sản
 Thần thánh hóa vai trị của lãnh đạo là khơng đúng nhưng tầm thường hóa, coi
thường lãnh đạo cũng là sai lầm. Vì vậy chống lại sùng bái cá nhân cũng đồng
thời chống lại thái độ vơ chính phủ.
2. Lấy dân làm gốc:
 Xuất phát từ quan điểm triết học M – L về vai trị của QCND trong lịch sử thì
quan điểm của Đảng ta là lấy dân làm gốc nghĩa là mọi đường lối, chủ trương,
chính sách của nhà nước đều xuất phát từ nguyện vọng, lợi ích của nhân dân.
Tổ chức Đảng và nhà nước khơng có lợi ích riêng tư nào cả ngồi việc phục vụ

lợi ích của Tổ qc, của dân tộc.
3. Chính sách con người, quan điểm quần chúng:
 Đảng ta coi trọng con người thể hiện ở quan điểm phát triển nguồn nhân lực.
Và để thực hiện điều này, Đảng ta XD đường lối đó là: “giữ vững độc lập, thống
nhất, vì dân giàu nước mạnh, XH cơng bằng, dân chủ, văn minh”.
 Phát huy quyền làm chủ thực sự của quần chúng, thực hiện dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra trong quá trình XD, hoạch định, và tổ chức.
 Thực hiện chính sách phát huy tính sáng tạo của nhân dân. Huy động mọi lực
lượng trong dân để từ đó củng cố mối quan hệ giữa Đảng, nhà nước và nhân
dân. Củng cố liên minh cơng nơng, trí thức và khối đại đồn kết tồn dân.
 Thực hiện tốt dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện là 1 phương hướng cơ bản
nhằm phát huy dân chủ trong XH ta hiện nay. Mặc khác, phát huy dân chủ phải
đi liền với thực hiện nghiêm kỷ cương, pháp luật và bảo đảm vai trò lãnh đạo
của Đảng. Nhấn mạnh một chiều dân chủ, không duy trì kỷ cương phép nước,
kỷ luật Đảng, khơng khẳng định và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng dẫn
đến nguy cơ buông lỏng Pháp luật. Dân chủ cực đoan q trớn vượt ra ngồi
khn khổ pháp luật sẽ khơng thể củng cố phát triển được khối đại đoàn kết
dân tộc, vi phạm qui chế dân chủ.


4. Vai trò của Đảng cầm quyền và lãnh tụ, công tác cán bộ theo nghị quyết của
ĐCS VN:
 Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của CM, gắn liền với vận mệnh của
Đảng, của đất nước, của chế độ ta. Cán bộ - như chủ tịch HCM đã chỉ rõ – là
cái gốc của mọi công việc.
 Để làm được những điều nêu trên đòi hỏi đội ngũ cán bộ công chức phải nâng
cao phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực, tinh thần; trung thành với tổ quốc
VN XHCN, phục vụ vì lợi ích của nhân dân.
 Để kiện toàn, làm trong sạch tổ chức, bộ máy cán bộ của Đảng và nhà nước,
văn kiện ĐH IX đã ghi rõ “tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng

trong bộ máy nhà nước và tồn bộ hệ thống chính trị ở các cấp, các ngành, từ
trung ương đến cơ sở. Gắn chống tham nhũng với chống lãng phí, quan liêu,
bn lậu, đặc biệt chống các hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất
chính”. (Trích trang 135, 136 văn kiện ĐH).
 Để thực hiện nhiệm vụ này, tại văn kiện ĐH IX cũng nêu rõ: phải tăng cường tổ
chức lãnh đạo, chỉ đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng, coi đây là nhiệm vụ
thường xuyên quan trọng nhất đồng thời nhấn mạnh: “Các Đảng viên và chi bộ
Đảng, mặt trận Tổ quốc, các đồn thể nhân dân, các cơ quan thơng tin đại
chúng và tồn XH có trách nhiệm giám sát, kiểm tra cán bộ công chức; phát
hiện, tố cáo, lên án những kẻ tham nhũng”. (Trích trang 136)
Câu 2: Phân tích định nghóa vật chất của Lê Nin và ý nghóa của định nghóa này?
Phạm trù vật chất là phạm trù cơ bản và trung tâm của triết học nói chung và đặc biệt
là của triết học duy vật biện chứng, việc nghiên cứu để nắm vững nội dung khoa học của
phạm trù này có ý nghóa rất quan trọng trong lónh vực nhận thức và cải tạo thế giới. Vậy
vật chất là gì? do ai sinh ra ? nó tồn tại như thế nào ? . . . đó là những vấn đề hết sức phức
tạp và có nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Các nhà triết học DV phương Đông cho rằng có 5 chất đầu tiên tạo ra vũ trụ, đó là
Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Còn các nhà triết học DV phương Tây trong khi nhìn nhận về
thế giới thì thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, quan niệm thế giới là vật chất và chỉ có
một chất đầu tiên tạo ra vũ trụ, ví dụ Talét coi chất đầu tiên tạo ra thế giới là nước còn
Hêraclít quan niệm bản nguyên của vũ trụ là lửa… nhưng quan điểm được coi là tiến bộ
nhất, khoa học nhất của triết học duy vật phương Tây thời bấy giờ là quan điểm của thầy
trò Đêmôcrit, coi vật chất đầu tiên tạo ra vũ trụ là nguyên tử.
Nhìn chung các nhà triết học duy vật trước Mác đều cố gắng đi tìm bản nguyên của
vũ trụ ( chất đầu tiên tạo ra vũ trụ) và họ đã đồng nhất vật chất với những dạng cụ thể của
vật chất hay tính chất nào đó của vật chất . Quan điểm của họ có những điểm đúng vì họ
xuất phát từ những cái có thực trong thế giới tự nhiên để giải thích về những cái có thực.
Nhưng hạn chế lớn nhất là những quan điểm của họ mang tính trực quan phỏng đoán, trình
độ duy lý còn thấp nên rơi vào duy tâm về xã hội.
Như vậy là trước khi triết học Mác ra đời, nhìn chung kể cả những nhà triết học duy

tâm lẫn duy vật đều có những quan niệm chưa đúng đắn về vật chất. Chỉ đến khi triết học


Mác ra đời cuối thế kỷ thứ 19 và được Lênin phát triển vào đầu thế kỷ 20 thì quan niệm về
vật chất mới thực sự là khoa học và đúng đắn.
Trên cơ sở tổng kết toàn bộ các tư tưởng lí luận tiến bộ của chủ nghóa duy vật về vật
chất, đặc biệt là tư tưởng về vật chất của ngghen, đồng thời tổng kết một cách toàn diện
các thành tựu khoa học, nhất là trong lónh vực khoa học tự nhiên và để phục vụ cho cuộc
đấu tranh chống chủ nghóa duy tâm và bảo vệ chủ nghóa duy vật biện chứng về VC, V.I.
Lênin trong tác phẩm Chủ nghóa Duy vật và Chủ nghóa kinh nghiệm phê phán đã nêu lên
định nghóa vật chất có tính kinh điển như sau:
VC là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác cuả chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và được
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
* Phân tích định nghóa:
Từ định nghóa trên, chúng ta thấy phải hiểu vật chất với tư cách là một phạm trù triết
học . Mà phạm trù triết học là phạm trù rộng nhất, khái quát nhất cho nên không thể dùng
phương pháp định nghóa thông thường của các ngành khoa học cụ thể để định nghóa phạm
trù này. Vì các ngành khoa học cụ thể chỉ nghiên cứu trong một phạm vi, một lónh vực hạn
hẹp nhất định của thế giới vật chất, do đó phải có phương pháp định nghóa đặc biệt, tức là
đối lập giữa vật chất với ý thức và nêu lên được đặc điểm cơ bản của nó thì chúng ta mới
có khả năng khái quát được vật chất.
VC là thực tại khách quan. Có nghóa là tất cả những gì tồn tại bên ngoài ý thức không
phụ thuộc vào ý thức của con người, tồn tại khách quan độc lập với cảm giác thì đều thuộc
phạm trù VC. Nó có thể biểu hiện ra dưới dạng là các sự vật, các quan hệ, các hiện tượng,
các hoạt động ….
được đem lại cho con người trong cảm giác Điều này khẳng định con người có khả
năng nhận thức được thế giới VC nhờ cảm giác (thông qua các giác quan của con người).
Đồng thời định nghóa này khẳng định tầm quan trọng của các gíac quan trong hoạt động
nhận thức. Khoa học ngày càng phát triển đã nối dài các giác quan của con người, giúp con

người hoàn thiện các giác quan của mình. Chẳng hạn thị giác của con người được hoàn
thịên thông qua kính cận, kính hiển vi, kính viễn vọng hoặc thính giác của con người được
hoàn thiện thông qua việc sử dụng các loại điện thoại, máy bộ đàm...
… được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh có nghóa là kết quả nhận
thức của con người chỉ là h/ả chủ quan của TGKQ, là kết quả của quá trình các giác quan
của con người chụp lại, chép lại & pá lại trong bộ não người. Như vậy thừa nhận ý thức chỉ
là hình ảnh của TGVC cũng có nghóa là thừa nhận VC có trước, ÝT có sau.
… và được tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác là nhấn mạnh tính quan trọng nhất
của vật chất, đó là VC tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ÝT.
Như vậy vật chất không phải tồn tại một cách vô hình thần bí mà tồn tại 1 cách hiện
thực, được ý thức con người phản ánh lại. Không có đối tượng VC nào không nhận thức
được mà chỉ có những đối tượng VC chưa nhận thức được mà thôi.
Ý nghóa:
Có thể nói định nghóa vật chất của Lênin là sự tổng kết toàn bộ tri thức khoa học và
triết học trong lịch sử phát triển tư duy của nhân loại từ trước đến nay. Định nghóa vật chất


của Lê Nin đã giải đáp một cách đầy đủ và khoa học về vấn đề cơ bản của triết học trên
lập trường của chủ nghóa duy vật, quan niệm rằng TGVC tồn tại khách quan có trước ý
thức và được ý thức phản ánh, và con người có khả năng nhận thức được thế giới VC.
- Định nghóa này góp phần thúc đẩy khoa học phát triển.
- Định nghóa của Lênin còn thể hiện rõ mối quan hệ khăng khít không thể tách rời
giữa triết học với các khoa học cụ thể, đó là mối quan hệ giữa cái chung với cái riêng, giữa
cái toàn thể ( chỉnh thể) với cái bộ phận.
- Định nghóa vật chất của Lênin còn bao hàm cả cái vật chất trong xã hội ( tức tồn tại
xã hội) nhờ đó mà có cơ sở để khắc phục quan điểm duy tâm về xã hội.
- Định nghóa vật chất của Lênin là cơ sở lí luận và phương pháp luận để chống lại mọi
quan điểm duy tâm về vật chất đồng thời khắc phục được những hạn chế của chủ nghóa duy
vật ngây thơ thời cổ đại ( đồng nhất vật chất vào các dạng cụ thể của vật chất) và chủ
nghóa duy vật siêu hình cuối TK 17 – đầu TK18 đồng nhất vật chất với khối lượng ( thuộc

tính của vật chất) và nguyên tư û( cấu trúc của vật chất).
- Định nghóa này là sự tổng kết sâu sắc lịch sử phát triển của CNDV, lịch sử đấu tranh
của CNDV và CNDT.
Từ việc nắm vững nội dung khoa học và ý nghóa của phạm trù vật chất nên việc
nghiên cứu triết học Mác nói chung và phạm trù vật chất nói riêng của chủ nghóa duy vật
biện chứng ngày càng có ý nghóa hết sức to lớn trong thời đại công nghiệp hoá hiện đại hóa
đất nước.
Câu 3: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Ý nghóa của việc nghiên
cứu vấn đề này đối với hoạt động xã hội.
Trong đời sống hiện thực của xã hội có 2 lónh vực cơ bản, đó là lónh vực vật chất và
lónh vực ý thức. Nhưng VC là gì? ÝT là gì? Giữa chúng có mối quan hệ ra sao … đó là
những vấn đề hết sức phức tạp trong lịch sử phát triển của triết học. Bởi vậy, việäc nghiên
cứu để nắêm vững nội dung khoa học cuả 2 phạm trù này có ý nghiã lý luận và phương pháp
luận hết sức quan trọng trong hoạt động nhận thức khoa học và thực tiễn CM.
Trước khi triết học Mác ra đời quan niệm về VC và YT rất khác nhau, thậm chí đối
lập nhau trong qúa trình phát triển của lịch sử triết học, nhưng khi CNDV của Mác và
ngghen xuất hiện vào cuối thế kỷ 19 và được V.I. Lê Nin kế thừa và phát triển vào đầu
thế kỷ 20 thì quan niệm về VC, ÝT mới thật sự khoa học.
* Vậy vật chất là gì?Theo Lênin “VC là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác cuả chúng ta chép
lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.Như vậy, VC chính là thực
tại khách quan, nghóa là tất cả những gì tồn tại bên ngo ta, không phụ thuộc vào ta nhưng
khi tác động vào ta thì cho ta cảm giác đều thuộc phạm trù VC, và qua đó LêNin chỉ ra
rằng VC là cái có trước, YT là cái có sau. YT có khả năng phản ánh VC.


Vận dụng vào đời sống xã hội thì VC chính là tồn tại xã hội, nó bao gồm: hoàn cảnh
địc lý, dân số, phương thức sản xuất, các phương tiện VC, các lực lượng và các tổ chức thực
hiện.
* Còn thức là gì? Ý thức là sự phản ánh HTKQ vào trong bộ não của con người, là

hình ảnh chủ quan của TGKQ, đó là qúa trình phản ánh tích cực, sáng tạo của con người
nhằm nắm bắt bản chất, qui luật của sự vật, hiện tượng để qua đó con người có thể đề ra
phương pháp tác động vào đối tượng một cách hiệu qủa nhằm đạt được mục đích của mình.
Vận dụng định nghóa ý thức vào đời sống xã hội chính là ý thức xã hội. Ýù thức xã hội
là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội: tâm tư, tình cảm, ý chí, khát vọng, niềm tin, lý
luận, chủ trương, đường lối chính sách, chương trình, kế hoạch …Ý thức xã hội là sự phản
ánh đời sống tinh thần của xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
* Mối quan hệ biện chứng giữa VC và YT:
Như trên chúng ta đã trình bày, VC và YT là 2 lónh vực cơ bản trong đời sống xã hội,
hai lónh vực này không tách rời nhau mà có quan hệ biện chứng với nhau, trong đó:
-VC quyết định YT. Sở dó VC quyết định YT là vì VC là cái có trước, YT là cái có sau,
YT chẳng qua là sự phản ánh VC, cho nên muốn phản ánh thì phải có cái để phản ánh (tức
VC). Tính quyết định của VC đối với YT còn thể hiện ở chỗ:
+VC như thế nào thì YT (cái phản ánh) phải như thế ấy thì chúng ta mới nắm được
bản chất, qui luật của sự vật hiện tượng. Do đó, trong hoạt động của mình con người phải
tôn trọng nguyên tắc khách quan nghóa là tôn trọng vai trò quyết định của những nhân tố
vật chất. Bởi vậy khi đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, ... con người không được xuất
phát thuần tuý từ ý muốn chủ quan của mình mà phải xuất phát từ những nhân tố vật chất.
+Khi VC thay đổi thì YT (cái phản ánh) cũng phải thay đổi cho phù hợp với nó. Hoàn
cảnh vật chất phát triển đề ra cho con người những nhiệm vụ cần giải quyết, đồng thời nó
cũng nảy sinh những điều kiện VC để giải quyết những nhiệm vụ đó. Ví dụ có 1 bệnh lạ
xuất hiện, thời gian đầu con người chưa tìm ra thuốc chữa nhưng dần dần con người sẽ
nghiên cứu ra.
Vì VC là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức nên khi giải thích các hiện tượng
tinh thần thì không đựơc dừng lại ở mặt tinh thần mà phải quay về nguồn gốc của VC. Ví
dụ thói quen đúng giờ là do phương thức SX qui định.
Vận dụng nguyên lý này vào đời sống xã hội thì VC trong xã hội (tức tồn tại xã hội)
là cái có trước, quyết định YTXH. Do đó, trong nhận thức cũng như trong thực tiễn CM
phải xuất phát từ tồn tại xã hội, tức là phải xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của
đời sống xã hội trên tất cả các lónh vực để xây dựng nên chiến lược phát triển kinh tế xã

hội của đất nước cho phù hợp.
Chính từ nhận thức đúng đắn mối quan hệ này Đảng ta đã vận dụng một cách sáng
tạo vào việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước nhất là trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay và đã đạt được những thành tựu rất to
lớn trên tất cả các lónh vực, trong đó phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, củng cố
chính trị là nhiệm vụ then chốt.


- Trong khi khẳng định VC quyết định YT thì đồng thời CNDVBC luôn luôn thấy rõ
vai trò quan trọng của ý thức. Bởi vì YT không phải chỉ bị VC quyết định 1 cách thụ động
mà trái lại YT luôn luôn tác động trở lại đối với VC.
Sở dó YT tác động trở lại đối với vật chất là vì YT có tính độc lập tương đối của nó.
Tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ:
+ YT thường lạc hậu hơn so với sự phát triển của VC.
+ Bên cạnh đó YT có tính vượt trước, nhất là YT lý luận.
+ YT có tính kế thừa.
+ Sự tác động giữa các hình thái YT, qua đó tác động với VC, với tồn tại xã hội.
Sự tác động trở l của ý thức (trong xã hội là YTXH) đối với VC (trong xã hội là tồn
tại xã hội) được thể hiện theo 2 khuynh hướng chủ yếu sau:
- Nếu YT phản ánh đúng VC, (trong xh, YTXH phản ánh phù hợp với tồn tại xã
hội) thì YT có vai trò tác động tích cực đối với tồn tại xã hội như bảo vệ, định hướng , vạch
đường chỉ lối cho các hoạt động xã hội. YTXH, nhất là YT lý luận có vai trò hết sức quan
trọng đối với hoạt động thực tiễn CM, như LêNin viết: “Không có lý luận CM thì cũng
không thể có phong trào CM”. Chính vì vận dụng đúng đắn nguyên lý này nên đường lối
chủ trương chính sách đổi mới của Đảng đối với nước ta đã tỏ ra phù hợp nên chỉ trong một
thời gian ngắn đất nước ta đã phát triển vượt bậc, thu đựoc nhiều thành tựu trên nhiều lónh
vực.
- Ngược lại, nếu YT (trong xã hội là YTXH) mà phản ánh không đúng, không phù
hợp, tức là phản ánh sai lệch tồn tại xã hội, nghóa là YT lý luận đó đã trở nên lạc hậu lỗi
thời , nhất là ý thức lý luận chính trị của giai cấp cầm quyền phản động thì nó có tác động

tiêu cực đối với các hoạt động xã hội, kìm hãm sự phát triển của các điều kiện vật chất,
ngăn cản phong trào hoạt động CM của quần chúng nhân dân. Tuy nhiên nó chỉ có thể gây
khó khăn trong 1 thời gian nhất định chứ không vónh viễn, vì sự vật bao giờ cũng vận động
theo các qui luật khách quan, vốn có của nó nên khi VC thay đổi , tồn tại xã hội thay đổi thì
YT cũng phải thay đổi cho phù hợp, do đó nhất định sẽ có YT tiến bộ, phù hợp thay thế cho
YT lạc hậu, không còn phù hợp.
Tất nhiên sự tác động của YT đối với VC (trong xã hội, YTXH tác động trở lại với tồn
tại XH) không phải là sự tác động trực tiếp mà phải qua nhận thức của con người và đïc
biến thành hành động cụ thể. Bản thân tư tưởng ý thức tự nó không thay đổi được hiện thực
khách quan. Muốn thay đổi hiện thực khách quan phải sử dụng lực lượng VC. Do đó con
người phải tìm ra được, phải huy động được, phải tổ chức được những nhân tố vật chất
thành lực lượng vật chất để đưa đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch, mục đích
thành hiện thực. Ví dụ dân tộc ta chiến thắng đế quốc Mỹ là vì chúng ta có tinh thần độc
lập dân tộc, đồng thời cũng là nhờ dân tộc ta biết huy động sức người, sức của của dân tộc
và biết tổ chức khéo léo, tài tình lực lượng ấy. Như đồng chí Lê Duẩn từng nói: “Cách
mạng là biết vận dụng những khả năng”. Đúng như quan điểm của triết học Mác là một
khi lý luận đã thâm nhập vào quần chúng thì nó biến thành sức mạnh VC ghê gớm.
 Ý nghóa của việc nghiên cứu vấn đề này đối với hoạt động xã hội:
- Việc nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa YTXH và tồn tại xã hội mang ý nghóa
hết sức quan trọng trong nhận thức cũng như trong thực tiễn CM, phải tuân thủ nguyên tắc


khách quan, nghóa là mọi nhận thức, mọi lý luận phải xuất phát từ thực tiễn khách quan
chứ không phải xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người.
- Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại VC thông qua hoạt động của
con người nên trong hoạt động của mình con người phải biết phát huy nhân tố chủ quan:
phát huy tính tích cực, sáng tạo của ý thức bằng cách nâng cao trình độ nhận thức hiện thực
khách quan và vận dụng chúng trong hoạt động thực tiễn.
- Vì VC và YT trong XH là tồn tại XH và YTXH là 2 mặt thống nhất không thể
tách rời nhau, giữa chúng luôn có tác động lẫn nhau nên phải nhận thức được vai trò, vị trí

của từng mặt. Nếu tuyệt đối hóa mặt nào cũng đều không thể tránh khỏi sai lầm.
- Quán triệt mối quan hệ này, vận dụng vào đời sống XH được Bác Hồ kính yêu
của chúng ta vận dụng một cách tài tình, sáng tạo trong qúa trình lãnh đạo CM VN. Và
Người đã căn dặn chúng ta :”Thực tiễn không có lý luận là thực tiễn mù quáng, lý luận
không có thực tiễn là lý luận suông”.
Câu 4: Phân tích nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển
của các sự vật hiện tượng. Ý nghóa của việc nghiên cứu các vấn đề trên.
Tất cả các phép biện chứng trước Mác đều có những nhược điểm, đến khi triết học Mác
ra đời trên cơ sở kế thừa những tư tưởng tiến bộ của các học thuyết trước đó, các thành tựu
KHKT và từ thực tiễn lịch sử thì triết học Mác đã mang lại một học thuyết đúng đắn về sự
vận động và phát triển của thế giới .
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương pháp. Hệ
thống các qui luật, các phạm trù, các nguyên lý của nó không chỉ phản ánh đúng đắn TG
khách quan mà còn chỉ ra những cách thức để định hướng cho con người trong hoạt động
nhận thức và cải tạo thế giới.
Trong đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến & nguyên lý về sự phát triển là những
nguyên lý mang tính phổ quát nhất.
1.Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
Bản thân thế giới vật chất là 1 chỉnh thể thống nhất ở tính vật chất của nó, nhưng
TGVC có những cấp độ tổ chức vật chất hết sức đa dạng và phong phú. Mỗi 1 cấu trúc ấy
có một chức năng, một vai trò khác nhau, nhưng chúng lại liên hệ mật thiết với nhau, tác
động qua lại lẫn nhau. Trong cấu trúc của TGVC có 3 yếu tố quan trọng nhất: Giới tự
nhiên, con người và xã hội. Giới tự nhiên, con người và xã hội so với hệ thống thế giới vật
chất thì nó là bộ phận của TGVC đó nhưng nếu bản thân từng bộ phận của hệ thống TGVC
xét riêng ra thì giới tự nhiên lại là 1 hệ thống, con người lại là một hệ thống và xã hội lại là
một hệ thống. Điều này thể hiện tính vô cùng vô tận của TGVC, như vậy giới tự nhiên, con
người và xã hội trong quá trình sống không tách rời nhau mà liên hệ, tác động qua lại lẫn
nhau. Và sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau làm cho TGVC luôn vận động, biến đổi
trong không gian và thời gian. Để phán ánh mối liên hệ khách quan vốn có của TGVC
phép biện chứng duy vật đã xây dựng thành nguyên lý về mối liên hệ phổ biến



Liên hệ là sự phụ thuộc lẫn nhau, sự tác động qua lại và chuyển hoá cho nhau giữa
các mặt, các yếu tố, các quá trình trong bản thân của TGVC, hoặc giữa các sự vật này với
các sự vật khác trong hệ thống VC, khi mặt này thay đổi thì mặt khác cũng thay đổi theo.
Mối liên hệ phổ biến có 3 tính chất:
- Mối liên hệ hoàn toàn khách quan. Vì mối liên hệ là vốn có của các sự vật và hiện
tượng, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Con người không thể sáng
tạo ra mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng mà chỉ có thể nhận thức mối liên hệ đó, (Ví
dụ: Mối liên hệ giữa g/c TS và g/c VS trong nền SX TBCN).
- Mối liên hệ mang tính phổ biến. Vì mọi sự vật, hiện tượng đều có mối liên hệ với
các sự vật hiện tượng khác cũng như liên hệ giữa các mặt, các yếu tốâ, các qúa trình, cacù
thuộc tính … trong bản thân sự vật hiện tượng với nhau, không có sự vật, hiện tượng nào
nằm ngoài mối liên hệ. (Ví dụ trong tự nhiên có sự liên hệ giữa cơ thể sống với môi trường,
trong xã hội có sự liên hệ giữa các thành viên trong gia đình, ,giữa các địa phương với nhau,
giữa các cộng đồng trong một quốc gia, giữa một quốc gia này đối với một quốc gia khác
trên thế giới…, trong tư duy có sự liên hệ giữa chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức,
liên hệ giữa qúa trình nhận thức cảm tính và qúa trình nhận thức lý tính…)
- Mối liên hệ rất đa dạng, TGVC là vô cùng vô tận thì các mối liên hệ cũng vô cùng
vô tận (chẳng hạn ngay trong bản thân con người cũng có vô vàn mối liên hệ). Dựa vào vị
trí, vai trò, tính chất, phạm vi, tác dụng của các mối liên hệ chúng ta có thể phân chia khái
quát thành nhiều mối liên hệ:
+Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài.
+Mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu.
+Mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất.
+Mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên.
+Mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới và mối liên hệ riêng bao quát 1 lónh vực
hoặc 1 số lónh vực.
+Mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp.
Như vậy có thể khẳng định rằng mọi sự vật hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy

đều có sự liên hệ, sự ràng buộc, tác động lẫn nhau trong không gian và thời gian, không có
sự vật hiện tượng nào tồn tại một cách biệt lập hoàn toàn với các sự vật hiện tượng khác.
Nói một cách khác liên hệ giữa các sự vật hiện tượng là phổ biến.
Ý nghóa của nguyên lý: Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến rất có ý nghóa
đối với chúng ta trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Việc nghiên cứu
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến trên quan điểm duy vật biện chứng sẽ cho chúng ta
phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo hiện thực.
Vì bất kỳ sự vật hiệân tượng nào trong TGVC cũng đều tồn tại trong mối liên hệ với các
sự vật hiện tượng khác và mối liên hệ rất đa dạng và phong phú nên muốn nhận biết sự vật
phải nhận thức mối liên hệ của nó. Trong nhận thức phải tôn trọng nguyên tắc khách quan,
lịch sử cụ thể, toàn diện, tránh tư tưởng chủ quan, phiến diện, chung chung không xuất phát
từ bản thân sự vật hiện tượng. Bản thân TGVC là vô cùng vô tận, mối liên hệ là vô cùng
vô tận. Do đó, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ
qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các mặt, các quá trình của chính sự vật và trong sự tác


động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp hay gián tiếp.
Các mối liên hệ không có vai trò như nhau. Bởi vậy, cần phải có sự phân loại các mối liên
hệ để hiểu rõ vị trí, vai trò của từng mối liên hệ đối với sự vận động và phát triển của sự
vật, từ đó nhận thức đúng bản chất sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem
lại hiệu quả trong hoạt động thực tiễn .Ví dụ : ngày nay, Đảng ta chủ trương đổi mới toàn
diện. Nội dung đổi mới bao gồm nhiều mặt, song trong mỗi bước đi lại phải xác định đúng
khâu then chốt để tập trung sức giải quyết làm cơ sở đổi mới các khâu khác, lónh vực khác.
Vì vậy, trong mối liên hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, Đảng ta chủ trương
trước hết là đổi mới kinh tế, coi đó là điều kiện thuận lợi để tiến hành đổi mới cho lónh vực
chính trị.
2.Nguyên lý về sự phát triển:
Phép biện chứng duy vật cho rằng sự liên hệ phổ biến của các sự vật hiện tượng luôn
luôn gắn liền với sự vận động biến đổi của các sự vật hiện tượng bởi vì liên hệ chính là sự
vận động, sự tác động lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng cũng như các mặt của bản thân

sự vật hiện tượng. Nhưng vận động và phát triển có phải là đồng nhất như nhau? Sau đây
chúng ta đi vào tìm hiểu về khái niệm vận động và khái niệm phát triển.
Khái niệm vận động: Mọi sự vật đều có quá trình hình thành tồn tại và biến đổi từ
trạng thái này sang trạng thái khác. Sự biến đổi, chuyển hoá này là vô cùng vô tận với
những tính chất và khuynh hướng khác nhau. Tuy nhiên vận động chỉ là sự biến đổi nói
chung chứ chưa tạo ra sự thay đổi về chất.
Khái niệm phát triển: Khái niệm phát triển không bao quát mọi sự vận động nói
chung. Nó chỉ khái quát xu hướng chung của vận động, đó là xu hướng vận động đi lên, cái
mới ra đời thay thế cho cái cũ. Nói một cách đầy đủ hơn, phát triển là một khái niệm triết
học khái quát những vận động mà những vận động này làm cho sự vật hiện tượng biến đổi
theo trật tự từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
Như vậy phát triển là hình thức vận động đặc biệt, làm sự vật tiến lên do đó không thể
đồng nhất nó với sự vận động.
Giữa vận động và phát triển có một điểm chung là tự vận động, tự phát triển.
Phát triển khác vận động ở chỗ nói đến phát triển là nhất định phải xuất hiện cái
mới, phát triển không theo hình tròn mà theo hình xoáy ốc. Bởi vì trong quá trình phát triển
là cuộc đấu tranh của các mặt đối lập. Trong quá trình phát triển luôn luôn có sự đấu tranh
giữa hai khuynh hướng. Khuynh hướng thứ nhất là kế thừa cái cũ, khuynh hướng thứ hai là
lọc bỏ cái cũ. Do đó trong quá trình phát triển có cái mới ra đời khác về chất so với cái cũ,
cái mới ra đời có kế thừa cái cũ nhưng không bao giờ lập lại y nguyên cái cũ, mà nó bổ
sung cái cũ.
Để thực hiện một chu kỳ phát triển sự vật phải trải qua ít nhất 2 lần phủ định.
Ví dụ: - Trong tự nhiên: sự biến đổi các giống loài hay bản thân con người chính là
sản phẩm phát triển cao nhất của thế giới tự nhiên.
- Trong xã hội, phát triển chính là sự thay thế các hình thái xã hội từ thấp đến
cao: Từ chế độ cộng xã nguyên thủy, đến chế độ nô lệ, chế độ phong kiến, . . .


- Trong tư duy: tri thức của thế hệ sau bao giờ cũng kế thừa thế hệ trước nhưng
bao giờ cũng phát triển cao hơnthế hệ trước như ông cha chúng từng có câu nói: “ hậu sinh

khả úy”.
Ý nghóa:
Vậy nguyên lý phát triển là nội dung cơ bản, phổ biến của xã hội nên việc nghiên
cứu nguyên lý có ý nghóa rất lớn, nó chống lại chủ nghóa siêu hình cho rằng mọi sự vật hiện
tượng không vận động và phát triển, đồng thời nó củng cố CNDVBC khi xem xét sự vật
hiện tượng là phải xem xét nó trong trạng thái động, nghóa là trong trạng thái vận động,
biến đổi không ngừng chứ không phải chỉ xem xét sự vật trong trạng thái tónh, cô lập, tách
rời.
Khuynh hướng chung của sự vật là phát triển nhưng trong quá trình phát triển của sự
vật ở mỗi giai đoạn khác nhau thì sự phát triển của sự vật cũng khác nhau. Để đánh giá
đúng sự vật thì phải có quan điểm lịch sử cụ thể. Quan điểm lịch sử cụ thể là quan điểm
xem xét sự phát triển của sự vật trong một khoảng không gian và thời gian nhất định.
Phát triển nhất định xuất hiện cái mới và cái mới ra đời trong quá trình phát triển là
tất yếu, do đó phải tin tưởng vào sự chiến thắng của cái mới, đồng thời phải tạo điều kiện
cho cái mới phát triển, chống lại cái cũ bảo thủ, trì trệ
KẾT LUẬN CHUNG:
Hai nguyên lý này gắn bó rất chặt chẽ với nhau vì hai nguyên lý này rất cơ bản.
Hiểu được 2 nguyên lý này chúng ta sẽ hiểu được các nguyên lý khác. Mối liên hệ phổ
biến không tách rời nhau, liên hệ chính là sự tác động qua lại giữa hai mặt trong bản thân
của TGVC. Đây là nguyên nhân làm cho sự vật tự vận động, tự phát triển. Vì vậy trong
cuộc sống chúng ta phải tuân thủ những nguyên lý khách quan này.
Thực chất 2 nguyên lý trên thể hiện tri thức của con người về 2 yêu cầu của phương
pháp biện chứng: đặt đối tượng nhận thức trong trạng thái động và liên hệ chặt chẽ với các
đối tượng khác. Đây là cái nhìn tổng quát nhất về nội dung cơ bản của phép biện chứng
duy vật. Nghiên cứu các nguyên lý là cơ sở phương pháp luận chung nhất, vô cùng quan
trọng cho mỗi người trong hoạt động nhận thức và cải tạo hiện thực. Mỗi nguyên lý của
phép biện chứng có ý nghóa phương pháp luận quan trọng cần được vận dụng tổng hợp
trong thực tiễn CM.
Câu 5: Thực tiễn là gì? Mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận?
(Thực tiễn là gì? Tại sao nói thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích của nhận

thức, là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý?)
 Thực tiễn là gì?
Thực tiễn là phạm trù triết học để chỉ toàn bộ hoạt động vật chất của con người nhằm
cải tạo hiện thực khách quan mang tính chất lịch sử xã hội nhất định.
Hoạt động thực tiễn không phải bao gồm toàn bộ hoạt động của con người mà chỉ
bao gồm những hoạt động vật chất.


Bản chất của hoạt động thực tiễn là cải tạo khách thể cho phù hợp với nhu cầu của
con người.
Hoạt động thực tiễn mang tính năng động sáng tạo, là hoạt động bản chất của con
người, đảm bảo cho con người và xã hội tồn tại.
Hoạt động thực tiễn có 3 hình thức cơ bản như sau:
- Hoạt động SX ra của cái vật chất
- Hoạt động chính trị cải tạo xã hội.
- Hoạt động thực nghiệm khoa học.
Ba loại hình này tác động biện chứng với nhau, ba loại hình này mang tính phổ biến.
Trong đó, hoạt động SX ra của cải vật chất là hoạt động có ý nghóa quyết định các hình
thức khác, hoạt động chính trị cải tạo xã hội là hình thức cao nhất, hoạt động thực
nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt nhất nhằm thu nhận những tri thức về hiện thực
khách quan.
Mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận:
- Thực tiễn là cơ sở của nhận thức lý tính nói riêng và của toàn bộ hoạt động nhận
thức nói chung. Nếu không có thực tiễn thì không có nhận thức.
+ Ngay từ đầu hoạt động nhận thức của con người phải xuất phát trên nền tảng của
thực tiễn và do thực tiễn qui định.
+ Thông qua hoạt động thực tiễn, con người tác động vào đối tượng, đối tượng bộc lộ
những thuộc tính mà qua đó con người nhận thức được ngày càng nhiều về đối tượng.
+ Hoạt động thực tiễn làm biến đổi thế giới, đồng thời cũng biến đổi cả bản thân con
người, rèn luyện các giác quan của con người, làm cho các giác quan ngày càng phát

triển và hoàn thiện hơn, tạo điều kiện cho nhận thức tốt hơn.
+ Hơn nữa thông qua hoạt động thực tiễn con người còn chế tạo ra các công cụ,
phương tiện hỗ trợ các giác quan hay còn nói một cách hình tượng là “kéo dài các giác
quan”, để tăng cường khả năng nhận thức của con người.
Thực tiễn là động lực của nhận thức: Trong quá trình con người tiến hành hoạt động
thực tiễn bắt buộc con người luôn phải giải quyết các vấn đề, và từ đó nhận thức không
ngừng được nâng lên và được phát triển. Vì thế nhận thức là động lực của thực tiễn.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Con người nhận thức là nhằm phục vụ cho hoạt
động thực tiễn của mình đạt kết quả cao hơn. Tri thức khoa học chỉ có ý nghóa khi được
vận dụng vào trong thực tiễn làm biến đổi thế giới và biến đổi bản thân con người. Do
đó mục đích cuối cùng của nhận thức là thực tiễn.
Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý: Vì nhận thức của con người đạt đến trình
độ tư duy trừu tượng cũng có thể sai lầm, do đó cần phải đưa về thực tiễn để kiểm tra.
Thông qua hoạt động thực tiễn con người điều chỉnh nhận thức cho phù hợp với thực tế
khách quan. Vì vậy ta nói thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Ý nghóa:
Trong cuộc sống của mình con người phải tôn trọng nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nghóa là hoạt động thực tiễn
phải có lý luận dẫn đường, ngược lại hoạt động lý luận phải gắn liền với thực tiễn “học
đi đôi với hành”. Bởi vì nếu không có lý luận thì không hiểu được bản chất, nội dung


của vần đề. Còn nếu không có thực tiễn thì lý luận không có cơ sở, không có động lực,
không có mục đích, không có tiêu chuẩn để kiểm tra, do đó lý luận không có thực tiễn
là lý luận suông. Vì thế hoạt động nhận thức phải luôn bám sát, gắn bó với thực tiễn,
đồng thời phải thường xuyên tổng kết, khái quát từ thực tiễn để nâng lên
thành lý luận.
Câu 6: Trình bày nội dung 3 qui luật của phép biện chứng và ý nghóa của việc nghiên cứu
3 qui luật này.
Tất cả các phép biện chứng trước Mác đều có những nhược điểm, đến khi triết học Mác

ra đời trên cơ sở kế thừa những tư tưởng tiến bộ của các học thuyết trước đó, các thành tựu
KHKT và từ thực tiễn lịch sử thì triết học Mác đã mang lại một học thuyết đúng đắn về sự
vận động và phát triển của thế giới .
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa TGQDV và phương pháp BC. Hệ
thống các qui luật, phạm trù của nó không chỉ phản ánh đúng đắn TG khách quan mà còn
chỉ ra những cách thức để định hướng cho con người trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Phép biện chứng duy vật trình bày một cách có hệ thống, chặt chẽ tính chất biện chứng
cuả thế giới thông qua những phạm trù và những qui luật chung nhất của thế giới.
Sau đây chúng ta đi vào tìm hiểu các quy luật cơ bản của phép biện chứng: Phép biện
chứng có 3 qui luật cơ bản, bao gồm quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay
đổi về chất (còn gọi là quy luật lượng – chất), qui luật thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập (hay còn gọi là quy luật mâu thuẫn), quy luật phủ định của phủ định. Thực chất cả
ba qui luật này đều phản ánh 3 mặt của quá trình phát triển
Muốn trình bày đúng đắn nội dung 3 qui luật này chúng ta nên tìm hiểu khái niệm
qui luật là gì. Qui luật phản ánh mối quan hệ tất nhiên, phổ biến, bản chất, ổn định, lặp đi
lặp lại.
a) Qui luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại
(còn gọi là quy luật lượng – chất) là một trong ba qui luật cơ bản của phép biện chứng duy
vật.
Có 5 khái niệm để hình thành nên nội dung qui luật đó là, chất, lượng, độ, điểm nút,
bước nhảy.
 Chất là tính qui định vốn có của sự vật nhằm để phân biệt và chỉ ra sự vật đó là cái gì
và để phân biệt sự vật đó với sự vật khác. Như vậy, sự vật khác nhau về chất, một sự
vật có vô vàn chất sự vật mới tồn tại.
 Lượng là tính qui định vốn có của sự vật nhưng chưa chỉ ra được sự vật đó là cái gì.
Chưa phân biệt được sự vật này với sự vật khác, nó chỉ nói lên số lượng các con số, số
lượng các mối liên hệ, cấp độ, tốc độ, qui mô vận động nhanh chậm….
Mỗi sự vật đều là một chỉnh thể thống nhất giữa lượng và chất. Do đó trong mối quan
hệ này nó là lượng, trong mối quan hệ khác nó lại là chất.
Bởi vậy, mọi sự vật trong quá trình phát triển luôn luôn có sự biến đổi về lượng để dẫn

đến sự thay đổi về chất và ngược lại.


 Độ là giới hạn mà trong đó có sự thay đổi về lượng nhưng chưa làn cho chất thay đổi.
 Điểm nút là tại thời điểm đó có sự thay đổi về lượng làm cho chất thay đổi, sự vật cũ
mất đi, sự vật mới ra đời.
 Bước nhảy là khi lượng thay đổi dẫn đến sự thay đổi về chất làm cho sự vật cũ mất đi,
sự vật mới ra đời, thời điểm đó gọi là bước nhảy. Bước nhảy diễn ra hoàn toàn khách
quan và bước nhảy là vô cùng vô tận.
Nội dung của quy luật:
Mỗi sự vật, hiện tượng là một chỉnh thể thống nhất giữa chất và lượng.
Chất là cái tương đối ổn định. Lượng là cái thường xuyên biến đổi. Trong một giới hạn
nhất định khi có sự thay đổi về lượng nhưng chưa làm cho chất thay đổi thì giới hạn đó
được gọi là ĐỘ. Nhưng khi lượng thay đổi đến một giới hạn nào đó vượt qua giới hạn độ thì
sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời, chất cũ mất đi, chất mới ra đời thì tại điểm đó người ta
gọi là điểm nút và cũng tại điểm nút đó người ta gọi là bước nhảy, làm sự vật cũ mất đi, sự
vật mới ra đời làm cho lượng mới, chất mới, độ mới phù hợp với nó.
Chính vì vậy người ta gọi qui luật này là qui luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến
những thay đổi về chất và ngược lại.
Ý nghóa của qui luật:
- Bản thân những qui luật của phép biện chứng là những qui luật của chính giới tự
nhiên diễn ra trong tự nhiên, xã hội và tư duy, do đó qui luật này diễn ra trong cả tự nhiên,
xã hội và tư duy. Đây là qui luật phổ biến. Vì vậy trong quá trình họat động thực tiễn chúng
ta phải tuân thủ qui luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất.
- Trong hoạt động thực tiễn phải chống cả hai khuynh hướng: chỉ chú ý tích luỹ về
lượng mà không chú ý đến những điều kiện chín muồi, không phát hiện ra những bước
nhảy để làm cho chất mới ra đời hoặc chỉ chú ý đến những bước nhảy mà không chú ý đến
việc tích luỹ về lượng.
- Muốn thay đổi về chất phải tích lũy về lượng. Vì vậy trong quá trình hoạt động thực
tiễn chúng ta không thể chủ quan nóng vội, đốt cháy giai đoạn được mà nhất thiết phải

tuân thủ sự tích lũy về lượng để đến một giai đoạn nào đó vượt qua giới hạn độ thì mới có
bước nhảy, bước nhảy đó hoàn toàn khách quan .
- Qui luật này chỉ ra cách thức và sự phát triển là phải tích luỹ về lượng để dẫn đến
những thay đổi về chất nên qui luật này có vị trí quan trọng, nó chỉ ra vị trí đầu tiên so với
các qui luật khác trong quá trình nhận thức về sự phát triển.
b) Qui luật sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (hay còn gọi là quy luật mâu
thuẫn):
Trong 3 qui luật của phép biện chứng thì qui luật mâu thuẫn là hạt nhân của phép biện
chứng. Muốn hiểu được vì sao người ta lại nói như vậy thì chúng ta cần đi vào tìm hiểu nội
dung của qui luật này.
Bất kỳ sự vật nào cũng là một chỉnh thể thống nhất của hai mặt đối lập. Chẳng hạn
trong sự sống thì có đồng hoá – dị hoá, trong xã hội TB có g/c TS và g/c VS.
Như vậy bản thân 1 sự vật không bao giờ là 2 mặt tách rời mà bao giờ cũng là một chỉnh
thể thống nhất của 2 mặt đối lập.


Để hiểu được nội dung quy luật, trước hết chúng ta cần năm được khái niệm mặt đối lập
là gì? Khái niệm mặt đối lập trong qui luật mâu thuẫn là sự khái quát những mặt, những
thuộc tính mà khuynh hướng phát triển trái chiều nhau nhưng chúng lại nương tựa nhau để
tồn tại, khi mặt này thay đổi thì mặt kia cũng thay đổi theo. Ví dụ g/c TS và g/c VS trong
chế độ TBCN: Địa vị sản xuất, địa vị xã hội, quyền sở hữu TLSX, quyền quản lý SX,
quyền phân phối sản phẩm đối lập nhau. Chính vì vậy mà 2 g/c này đtr với nhau, trong quá
trình đấu tranh họ lại nương tựa vào nhau, do đó lại thống nhất với nhau.
Khái niệm đấu tranh của các mặt đối lập chính là sự xâm nhập vào nhau, sự tác động
qua lại lẫn nhau, sự chuyển hoá lẫn nhau. Đấu tranh là tuyệt đối.Do đó trong quá trình đấu
tranh sự vật phải thống nhất với nhau, thống nhất là tiền đề để đấu tranh. Và có thống nhất
thì mới có đấu tranh.
Vậy khái niệm thống nhất trong qui luật mâu thuẫn có nghóa là hai mặt đối lập liên hệ
với nhau, ràng buộc và qui định lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại của mình.
Từ đây chúng ta rút ra khái niệm mâu thuẫn như sau: Mâu thuẫn chính là kết quả của

quá trình thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Cứ 2 mặt đối lập thì hình thành nên
một mâu thuẫn, 2 mặt này đấu tranh với nhau. Và sự đấu tranh đó vượt qua giới hạn độ thì
sẽ phá vỡ sự thống nhất làm cho mâu thuẫn cũ được giải quyết, và khi mâu thuẫn cũ được
giải quyết thì sự vật cũ cũng biến mất, lúc này xuất hiện sự vật mới, sự vật mới ra đời lại
xuất hiện mâu thuẫn mới, từ đó lại xảy ra quá trình đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn. Vì
vậy người ta gọi qui luật này là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.

Ý nghóa của qui luật:
- Mâu thuẫn là hoàn toàn khách quan vì vậy việc giải quyết mâu thuẫn là tất yếu
khách quan, do đó trong hoạt động thực tiễn không được lảng tránh việc giải quyết mâu
thuẫn.
- Bản thân mỗi sự vật có vô vàn mối liên hệ, do đó chúng cũng có vô vàn mâu thuẫn
khác nhau. Vì vậy phải biết phân loại mâu thuẫn. Mỗi loại mâu thuẫn khác nhau phải có
cách giải quyết khác nhau.
- Giải quyết mâu thuẫn đòi hỏi phải đúng lúc, đúng chỗ.
Kết luận:
Vì vậy qui luật này có ý nghóa rất lớn, là hạt nhân của phép biện chứng. Khi hiểu được
qui luật này chúng ta sẽ hiểu được những qui luật khác.
Qui luật này chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Bởi vì thực chất tìm ra mâu
thuẫn là tìm ra nguyên nhân gây ra mâu thuẫn.
Nói qui luật này là hạt nhân của phép biện chứng vì qui luật mâu thuẫn giúp chúng ta
đi sâu nhận thức bản chất sự vật, giúp chúng ta ngày càng hiểu sự vật sâu sắc hơn. Ví dụ
qua cuộc xâm lược Irắc của Mỹ chúng ta hiểu bản chất của cuộc xung đột là vì lợi ích kinh
tế, mà cụ thể ở đây là vì dầu mỏ.
c) Quy luật phủ định của phủ định:


Bản thân mỗi sự vật cũng là 1 chỉnh thể thống nhất của hai mặt khẳng định và phủ
định, và hai mặt này luôn luôn đấu tranh với nhau và đến một giai đoạn nhất định nào đó
sẽ xuất hiện cái mới. Cái mới ra đời, phủ định cái cũ.

Có 2 loại phủ định, đó là phủ định siêu hình và phủ định biện chứng.
Phủ định siêu hình là sự phủ định sạch trơn sự vật cũ, và nguyên nhân của sự phủ định
này không phải là tự thân phủ định mà do sự tác động bên ngoài vào.
Phủ định biện chứng khác phủ định phủ định siêu hình ở chỗ phủ định biện chứng là
sự tự thân phủ định, do những mặt đối lập vốn có của bản thân sự vật đó.
Đặc điểm của phủ định biện chứng là :
+Phủ định biện chứng hoàn toàn khách quan.
+Phủ định biện chứng mang tính phổ biến.
+Phủ định biện chứng bao giờ cũng diễn ra theo 2 khuynh hướng: kế thừa cái cũ, đồng
thời lọc bỏ cái cũ.
+Phủ định biện chứng bao giờ cũng xuất hiện cái mới. Cái mới bao giờ cũng từ cái cũ
mà ra nhưng khác về chất so với cái cũ.
Qui luật này cho chúng ta hiểu khuynh hướng của sự phát triển. Quá trình phát triển
không diễn ra theo đường thẳng mà phát triêån theo hình xoáy ốc, thể hiện tính chất chu kỳ
trong quá trình phát triển. Cái mới dường như lập lại cái cũ trên cơ sở cao hơn, và cái mới
khác về chất so với cái cũ. Đó là cơ sở, phương pháp luận của nguyên tắc phủ định biện
chứng phải tôn trọng tính kế thừa. Nhưng kế thừa phải có chọn lọc, cải tạo, phê phán,
chống kế thừa máy móc và phủ định sạch trơn.
Như vậy là nói đến phát triển thì phải nói đến nguồn gốc của sự phát triển. Nguồn gốc
của sự phát triển là nguồn gốc tự thân phát triển giữa các mặt đối lập trong bản thân cấu
trúc vật chất. Và sự phát triển là hệ thống phát triển chứ không phải là từng sự vật một.
Phát triển là hệ thống, cho nên nói đến phát triển là nói đến hệ thống. Muốn cho xã hội
phát triển là phải phát triển cả hệ thống. Ví dụ muốn xã hội hoá giáo dục ngoài việc đầu tư
cho giáo dục như mở rộng hệ thống trường lớp, trang bị đầy đủ các thiết bị giảng dạy còn
phải quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ giảng dạy, chăm lo đời sống vật chất cũng như ø tinh
thần của họ, đồng thời xã hội cũng nên tôn vinh ngành giáo dục.
Ngoài việc nói đến nguồn gốc của sự phát triển chúng ta còn cần phải đi vào xem xét
cách thức và khuynh hướng của sự phát triển. Phát triển là sự thay đổi về lượng dẫn đến
những thay đổi về chất. Vì vậy muốn xem xét qúa trình phát triển phải xem xét nó trong
một chu kỳ phát triển. Trong chu kỳ này có thể có cái mất đi nhưhg cả hệ thống là phát

triển. Phát triển là khác về chất, do đó nói đến phát triển là phải có cái mới ra đời, nhưng
cái mới này phải kế thừa cái cũ, cái mới khác về chất với cái cũ. Đó mới là sự phát triển.
Một chu kỳ phát triển thì ít nhất sự vật cũng phải trải qua 2 lần phủ định.Bản thân
những sự vật khác nhau thì số lần phủ định khác nhau. Do đó Việt Nam đi lên CNXH
không phải cứ tuần tự theo con đường của các nước khác, bởi vì Việt Nam đi lên CNXH từ
một nước thuộc địa ½ phong kiến
Trong quá trình phủ định sự vật phát triển nhưng không theo đường thẳng, cũng không
theo đường tròn khép kín mà phát triển theo hình xoáy ốc, và phát triển nhất định xuất
hiện cái mới, nhưng cái mới bao giờ cũng từ cái cũ mà ra và trải qua qúa trình đấu tranh với


cái cũ, do đó cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới diễn ra hết sức phức tạp, gay go và rất
quanh co. Vì thế sự sụp đổ tạm thời của các nước Đông Âu cũng chỉ là tất yếu.
Ý nghóa của qui luật:
- Qui luật này chỉ ra sự chiến thắng tất yếu của cái mới. Vì vậy chúng ta phải tin
tưởng vào chiến thắng của cái mới và phải ủng hộ cái mới, tạo điều kiện cho cái mới phát
triển.
- Muốn tạo điều kiện cho cái mới phát triển thì phải nhận thức được cái mới ra đời từ
cái cũ. Cái mới ra đời phải trải qua một cuộc đấu tranh cam go, quyết liệt với cái cũ, vì cái
cũ rất bảo thủ.
KẾT LUẬN CHUNG:
Ba qui luật của phép biện chứng đều phản ánh quá trình phát triển của sự vật. Tuy
nhiên mỗi qui luật có một vị trí, vai trò khác nhau. Mỗi qui luật này phản ánh một mặt của
quá trình phát triển nhưng trong thực tiễn phát triển của sự vật thì 3 quy luật này diễn ra
cùng một lúc, diễn ra một cách đồng thời. Vì vậy trong quá trình xem xét, đánh giá sự phát
triển của sự vật thì ta phải vận dụng cả 3 quy luật này .
Thực chất các qui luật trên là thể hiện tri thức của con người về 2 yêu cầu của
phương pháp biện chứng: đặt đối tượng nhận thức trong trạng thái động và liên hệ chặt chẽ
với các đối tượng khác. Đây là cái nhìn tổng quát nhất về nội dung cơ bản của phép biện
chứng duy vật. Nghiên cứu các qui luật là cơ sở phương pháp luận chung nhất, vô cùng

quan trọng cho mỗi người trong hoạt động nhận thức và cải tạo hiện thực. Mỗi qui luật của
phép biện chứng có ý nghóa phương pháp luận quan trọng cần được vận dụng tổng hợp
trong thực tiễn CM.
Câu 7: Phân tích nội dung các cặp phạm trù. Ý nghóa của việc nghiên cứu các cặp
phạm trù này?
Qúa trình phát triển của phép biện chứng có 3 hình thức cơ bản: phép biện chứng tự
phát, phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.
Tất cả các phép biện chứng trước Mác đều có những nhược điểm, đến khi triết học Mác
ra đời với phép biện chứng duy vật đã mang lại 1 học thuyết đúng đắn về sự vận động và
phát triển của thế giới .
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương pháp. Hệ
thống các qui luật, phạm trù của nó không chỉ phản ánh đúng đắn TG khách quan mà còn
chỉ ra những cách thức để định hướng cho con người trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Phép biện chứng duy vật trình bày một cách có hệ thống, chặt chẽ tính chất biện chứng
cuả thế giới thông qua những phạm trù và những qui luật chung nhất của thế giới.
Sau đây chúng ta đi vào tìm hiểu các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng. Phép
biện có 6 cặp phạm trù cơ bản
- Cái riêng và cái chung : Phép biện chứng duy vật cho rằng, cái riêng và cái chung đều
tồn tại khách quan và giữa chúng có sự thống nhất biện chứng. Nên trong nhận thức vaø


hoạt động thực tiễn, chúng ta phải phát hiện cái chung và cá biệt hoá cái chung, khi áp
dụng vào cái riêng.
- Nguyên nhân và kết quả:Cần tìm nguyên nhân của các hiện tượng trong bản thân thế giới
hiện thực, mối quan hệ nhân quả có tính khách quan. Vì mối liên hệ nhân quả là đa dạng,
cần phân biệt các loại nguyên nhân để có biện pháp xử lý đúng đắn. Phải biết khai thác ,
vận dụng các kết quả đã đạt được để nâng cao nhận thức và tiếp tục thúc đẩy sự vật phát
triển.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên: Khi nhấn mạnh đến cái tất nhiên, không thể quên cái ngẫu
nhiên, không tách rời cái tất nhiên ra khỏi cái ngẫu nhiên. Phải xuất phát từ cái ngẫu nhiên

để đạt đến cái tất nhiên và khi dựa vào cái tất nhiên, phải chú ý đến những cái ngẫu nhiên.
Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hoá qua lại nên phải tạo ra điều kiện để cản trở
hay chuyển hoá giữa chúng do yêu cầu cụ thể của thực tiễn.
- Nội dung và hình thức: Nội dung và hình thức luôn gắn bó hữu cơ với nhau, do đó trong
hoạt động thực tiễn cần tránh sự tách rời hoặc tuyệt đối hoá một trong hai mặt đó. Khi xét
đoán sự vật, trước hết phải căn cứ vào nội dung đồng thời thấy được sự tác động của hình
thức đối với nội dung.
- Bản chất và hiện tượng: Để hiểu rõ được sự vật, nhận thức không dừng lại ở hiện tượng,
mà phải đi từ hiện tượng đến bản chất. Trong hoạt động thực tiễn không thể dựa trên tri
thức và hiện tượng mà phải dựa trên tri thức về bản chất của sự vật.
- Khả năng và hiện thưc: Trong thực tế phải căn cứ vào hiện thực, chứ không thể căn cứ
vào khả năng để đánh giá tình hình. Phải phán đoán đúng tính chất và xu hướng của khả
năng để có sự ứng xử đúng đắn trong hoạt động thực tiễn. Phải phát huy tối đa tính năng
động chủ quan để biến khả năng thành hiện thực khi cần thiết, tránh tư tưởng thụ động, chờ
đợi.
Thực chất các cặp phạm trù trên thể hiện tri thức của con người về 2 yêu cầu của
phương pháp biện chứng: đặt đối tượng nhận thức trong trạng thái động và liên hệ chặt chẽ
với các đối tượng khác. Đây là cái nhìn tổng quát nhất về nội dung cơ bản của phép biện
chứng duy vật. Nghiên cứu các cặp phạm trừ cơ bản là cơ sở phương pháp luận chung nhất,
vô cùng quan trọng cho mỗi người trong hoạt động nhận thức và cải tạo hiện thực. Mỗi cặp
phạm trù của phép biện chứng có ý nghóa phương pháp luận quan trọng cần được vận dụng
tổng hợp trong thực tiễn CM.
Câu 8: Lực lượng SX là gì? Quan hệ sản xuất là gì? Mối quan hệ biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
lực lượng sản xuất )
Một trong những qui luật quan trọng nhất của học thuyết Hình thái kinh tế- xã hội
của Marx, đó là qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
LLSX. Đó là qui luật cơ bản của xã hội, vạch ra nguồn gốc động lực của sự vận động và
phát triển của các hình thái KT-XH từ thấp đến cao như một quá trình lịch sử tự nhiên. Để



năm vững nội dung khoa học của qui luật này, trước hết cần phải làm rõ các khái niệm
LLSX là gì, QHSX là gì và mối quan hệ giữa chúng.
1)LLSX là gì?
LLSX biểu hiện mối quan hệ của con người với tự nghiên, là năng lực thực tiễn và
trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Nó là
yếu tố kinh tế, kỹ thuật của đời sống xã hội. Mọi sự biến đổi trong xã hội đều phụ thuộc
vào LLSX và do LLSX quyết định. LLSX bao gồm 2 yếu tố:
Yếu tố thứ nhất là người lao động.
Yếu tố thứ 2 là tư liệu sản xuất, trong đó lại bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao
động, trong tư liệâu lao động lại chia làm công cụ lao động và đối tượng lao động
Trong đó:
Người lao động là ngườicó sức khoẻ, có kinh nghiệm sản xuất và thói quen lao động.
Công cụ lao động là những vật đóng vai trò trung gian để truyền sức của người lao
động vào những vật khác trong quá trình sản xuất.
Đối tượng lao động là những vật nhận sự tác động của các công cụ lao động.
Phương tiện lao động là những vật hỗ trợ con người trong quá trình SX về mặt bảo
quản, vận chuyển, chuyên chở, kho bãi, cầu phà …
Ngày nay KH cũng trở thành LLSX trực tiếp. Những thành tựu khoa học được ứng
dụng nhanh chóng, rộng rãi vào sx, có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất phát triển.
Tuy nhiên tư liệu sản xuất chỉ có thể phát huy khi nó gắn với người lao động và phát
huy được tính năng động của nó.
Do đó, theo CNDVBC người lao động giữ vai trò quyết định vì người lao động là chủ
thể của các yếu tố còn lại. Điều này mâu thuẫn với quan điểm của giai cấp tư sản cho rằng
công cụ mới mang tính quyết định.
LLSX là sự thống nhất biện chứng giữa TLSX do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ
lao động vớiø người lao động có kỹ năng, kỹ thuật, kinh nghiệm trong quá trình SX ra của
cái vật chất. LLSX là nội dung của phương thức SX, là yếu tố năng động, CM thường
xuyên biến đổi, vì con người bao giờ cũng muốn bỏ sức lao động ít nhất, thời gian ít nhất
mà đạt hiệu quả cao nhất. Và muốn làm được điều đó thì phải cải tiến công cụ lao động. Vì

thế công cụ lao động thay đổi hàng ngày hàng giờ trong xã hội. Nhưng công cụ lao động
chỉ phát huy được sức mạnh của nó trên cơ sở phát triển sản xuất phù hợp với trình độ của
người lao động. Do đó mọi sự biến đổi trong xã hội xét đến cùng là do sự phát triển của
LLSX quyết định.
Nhưng bản thân LLSX sẽ không thể có được nếu không có QHSX
2) QHSX: QH SX là mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình SX. Đây là
mối quan hệ cơ bản nhất, quan trọng nhất, quyết định và chi phối các mối quan hệ khác.
Mác nói nếu không có mối quan hệ này thì không có quan hệ giữa con người với tự nhiên,
sẽ không có LLSX, không có phương thức sản xuất và không có xã hội loài người tồn tại.
QHSX là hình thức xã hội của SX, nó quyết định tính chất xã hội của 1 phương thức SX xã
hội nhất định, nó là một yếu tố tương đối ổn định, mang tính bảo thủ và thường là lạc hậu
hơn so với sự phát triển của LLSX. Nội dung của 1 QHSX cụ thể bao gồm: Quan hệ về sở
hữu TLSX (trả lời câu hỏi ai là người có phương tiện lao động, công cụ lao động, đối tượng


lao động); Quan hệ về vai trò địa vị trong tổ chức quản lý SX xã hội (trả lời câu hỏi trong
quá trình SX ai được quản lý, được phân công, ai bị quản lý, ai bị phân công); Quan hệ về
tổ chức phân phối sản phẩm xã hội (trả lời câu hỏi ai được phân phối sản phẩm xã hội).
Trong đó quan hệ về sở hữu TLSX là quan hệ quan trọng nhất, chi phối tất cả hoạt động
khác. Nếu trong xã hội có giai cấp thì giai cấp nào nắm TLSX chủ yếu của xã hội sẽ thống
trị xã hội về mặt kinh tế, về mặt tổ chức quản lý SX đồng thời cũng quyết định phương
thức phân phối sản phẩm.
3) Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX: được thể hiện qua qui luật QHSX phù hợp với trình
độ phát triển của LLSX.
* LLSX quyết định sự hình thành, biến đổi và phát triển của QHSX:
Trong một PTSX, hai mặt LLSX & QHSX luôn gắn bó với nhau. Trình độ phát triển
của LLSX sẽ quyết định QHSX. LLSX phát triển như thế nào thì QHSX sẽ phát triển như
thế ấy, tức QHSX cũng biến đổi theo cho phù hợp với trình độ phát triển của LLSX
LLSX là yếu tố tự nó thường xuyên phát triển nhưng khi LLSX phát triển đến 1 mức
độ nào đó nó sẽ mâu thuẫn với QHSX hiện có, đòi hỏi phải xóa bỏ QHSX cũ, hình thành

QHSX mới phù hợp với nó, làm cho PTSX cũ mất đi, PTSX mới ra đời. Ở phương thức SX
mới, LLSX vẫn tự nó thường xuyên phát triển và khi nó phát triển đến một mức độ nhất
định thì QHSX lại thay đổi, một phương thức SX mới lại ra đời.
Cứ như vậy sự phát triển của LLSX đi từ thấp đến cao qua các thời kỳ lịch sử khác
nhau đã thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới cao hơn, đưa loài người đi từ PTSX này đến
PTSX khác.
* Sự tác động trở lại của QHSX với LLSX:
Mặc dù QHSX bị LLSX quyết định nhưng QHSX không phải chỉ chịu sự quyết định
của LLSX một cách thụ động mà trái lại nó cũng tác động trở lại đối với sự phát triển của
nội dung.
- Cùng với sự phát triển của LLSX, QHSX cùng hình thành và biến đổi cho phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của LLSX. Sự phù hợp đó là động lực làm cho LLSX
phát triển mạnh mẽ. Nhưng LLSX luôn phát triển còn QHSX có xu hướng tương đối ổn
định. Khi QHSX tác động phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX thì nó sẽ
góp phần tích cưcï trong việc bảo vệ, tạo địa bàn cho sự phát triển của LLSX . . . . Nếu
QHSX phát triển phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX thì nó sẽ tạo thúc
đẩy LLSX phát triển, tức là thúc đẩy SX phát triển, cũng tức là thúc đẩy xã hội phát triển.
- Ngược lại nếu quan hệ sản xuất lạc hậu (thể hiện qua các đường lối, chủ trương,
chính sách) phát triển không phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX thì nó sẽ trở thành
“ xiềng xích trói buộc “ kìm hãm sự phát triển của LLSX. Tuy nhiên tác dụng kìm hãm đó
chỉ là tạm thời không phải là vónh viễn. Vì theo qui luật vận động và phát triển thì đến một
lúc nào đó LLSX phát triển ở một trình độ cao sẽ phủ định quan hệ sản xuất cũ đã lạc hậu
lỗi thời. Ví dụ ở nước ta trước đây chính sách sở hữu TLSX không hợp lý, công hữu hoá đất
đai manh mún, trình độ người lao động thấp, chính sách phân phối sản phẩm bất hợp lý sẽ
làm cho nền SX không phát triển. Bắt đầu từ năm 1986 chúng ta cương quyết đổi mới toàn
diện, đất nước ta đã thay da đổi thịt phát triển như ngày hôm nay.


Qui luật về sự phù hợp của LLSX với tính chất và trình độ của QHSX là qui luật
chung nhất của sự phát triển xã hội.

Do đo,ù hiểu được những vấn đề lý luận là cực kỳ quan trọng mà một trong những lý
luận quan trọng nhất là muốn xã hội phát triển phải đầu tư vào LLSX, trong đó đầu tư vào
con người là quan trọng nhất.
Tìm hiểu qui luật về LLSX và QHSX cho thấy muốn xã hội phát triển thì đầu tư vào
việc phát triển SX, trong đó trước hết và quan trọng nhất là phải đầu tư vào người lao động
và công cụ lao động, đồng thời phải hoàn thiện về QHSX thông qua các chính sách sở hữu
TLSX, chính sách quản lý phân công lao động, chính sách phân phối sản phẩm để tạo ra sự
tác động trở lại theo chiều hướng tích cực của QHSX đối với LLSX. Theo đánh giá của thế
giới thì đất nước ta đã thu được những thành tựu rất lớn, đặc biệt là đánh giá những nỗ lực
đầu tư cho con người của chúng ta rất có hiệu quả (dù nước ta vẫn thuộc các nước nghèo).
Ví dụ ở những vùng sâu, vùng xa nhất chúng ta đều có cơ sở y tế, và chúng ta đang phấn
đấu trong một thời gian nữa chúng ta sẽ có những cơ sở y tế đúng tiêu chuẩn; chính sách
đối với trẻ sơ sinh và người già rất nhân bản, chúng ta có những chương trình tiêm chủng
mở rộng trên toàn quốc, vấn đề dinh dưỡng và sức khoẻ rất được quan tâm; Phổ cập hoá
giáo dục cũng được đẩy mạnh. Hiện nay xã hội hoá giáo dục nhằm nâng cao trình độ dân
trí đã mở ra rất nhiều loại hình đào tạo như: Đào tạo chính qui, mở rộng, tại chức, từ xa,
chuyên tu, hàm thụ, dân lập, tập trung, không tập trung . . . Tuy nhiên bên cạnh đó cũng tồn
tại những mặt trái như ở nước ta người có trình độ đại học rất nhiều nhưng đội ngũ công
nhân lành nghề lại thiếu trầm trọng. Do đó chúng ta vẫn phải luôn luôn tiến hành đổi mới
cơ cấu cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Về công cụ SX chưa có lúc nào chúng ta có
sự đổi mới nhanh chóng như hiện nay, chúng ta đã làm, đang làm và sẽ làm khoa học xâm
nhập vào quá trình sản xuất. Chúng ta đã đang và sẽ còn thay đổi chính sách về sở hữu
TLSX. Đại hội IX thừa nhận nước ta có 6 thành phần kinh tế, từng bước hoàn thiện chính
sách quản lý, phân công lao động, chính sách phân phối sản phẩm (thông qua chế độ tiền
lương) nhằm thúc đẩy con người tự hoàn thiện, tự phát triển và làm cho xã hội phát triển.
Câu 9: Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng & kiến trúc thượng tầng.
Đặc điểm của cơ sở hạ tầng & kiến trúc thượng tầng ở nước ta hiện nay.
Con người tồn tại & phát triển không phải theo những cá nhân riêng lẻ mà là hợp
thành xã hội trong vô số các quan hệ giữa người với người. Quan hệ xã hội của con người
rất đa dạng và phong phú, vận động & biến đổi không ngừng theo các quan hệ kinh tế.

Trên cái nền của SXVC để thỏa mãn nhu cầu của mình & để tồn tại. Xã hội là một chỉnh
thể sống phức tạp nhưng có 3 yếu tố quan trọng nhất là LLSX, QHXH, KTTT. Quan hệ
giữa CSHT & KTTT là biện chứng.
- Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những QHSX tạo nên kết cấu kinh tế của xã hội bao gồm 3
lo QHSX :
+ QHSX thống trị : là QHSX của phương thức SX đương thời của XH, giữ vai trò thống
trị, biểu hiện ở chỗ chi phối những QHSX còn lại.


+ QHSX tàn dư : là QHSX của PTSX trước đó còn tồn đọng lại.
+ QHSX mầm mống : là những QHSX trong tương lai.
Ba quan hệ này tồn tại song song quy định tâm lý xã hội, hệ tư tưởng & thói quen sản
xuất, hình thành cơ cấu kinh tế của xã hội. Trong xã hội có giai cấp tính chất của CSHT do
QHSX thống trị quy định, CSHT mang tính giai cấp.
- Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những hệ tư tưởng chính trị xã hội cùng những
thiết chế tương ứng và sự tác động giữa chúng được dựng lên trên một cơ sở hạ tầng nhất
định.
+ Hệ tư tưởng chính trị xã hội: thể hiện qua các học thuyết, các lý luận ( Ví dụ các học
thuyết về chính trị,tôn giáo, triết học, pháp quyền, nghệ thuật…)
+ Thiết chế tương ứng : là những tổ chức người và những phương tiện vật chất mà tổ
chức ấy sử dụng (ví dụ như nhà nước, quân đội, giáo hội, các viện, nhà tù…)
KTTT có nhiều yếu tố khác nhau, mỗi yếu tố có vai trò, vị trí, qui luật vận động khác
nhau, có tính độc lập tương đối nhưng giữa chúng có một cái chung là đều phản ánh cơ sở
hạ tầng và được hình thành trên cơ sở hạ tầng, trong đó vai trò của nhà nước, chính quyền
có ý nghóa đặc biệt đối với xã hội. Trong xã hội có giai cấp, KTTT mang tính giai cấp, hệ
tư tưởng của giai cấp thống trị quy định tính chất cơ bản của KTTT.
 Mối qh biện chứng giữa CSHT & KTTT:
Thể hiện qua qui luật CSHT quyết định KTTT.
+ CSHT nào thì sẽ sản sinh ra KTTT tương ứng. Giai cấp đại diện cho CSHT sẽ quy
định hệ thống tư tưởng, chính trị, pháp quyền… & các quan hệ, thể chế tương ứng của

KTTT.
+ Khi CSHT thay đổi thì KTTT cũng thay đổi theo. Sự biến đổi này diễn ra trong
những hình thái kinh tế –xã hội cụ thể, làm cho xã hội đi từ hình thái kinh tế –xã hội này
sang hình thái kinh tế –xã hội khác. Trong xã hội có giai cấp, sự biến đổi trên thông qua
cuộc đấu tranh giai cấp.
Sự tác động trở lại của KTTT đ/v CSHT: KTTT tác động trở lại CSHT theo 2 hướng:
+ KTTT luôn duy trì, củng cố bảo vệ, & phát triển QHSX thống trị (tức quan hệ sản
xuất đã sản sinh ra nó).
+ KTTT đồng thời luôn khống chế những gì có ảnh hưởng đến QHSX thống trị . Ví dụ
chế độ của ta hiện nay là chế độ xã hội chủ nghóa nên nhà nước ta luôn tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp quốc doanh phát triển vì quan hệ sản xuất thống trị cuả ta là QHSX
XHCN, còn các doanh nghiệp tư nhân vẫn bị hạn chế. Nhà nước ta vẫn chủ trương để
nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại nhằm huy động tối ưu tài lực, trí lực và nhân lực
không chỉ trong nước mà cả ngoài nước để làm dân giàu, nước mạnh đưa thành phần kinh
tế thống trị phát triển và khi phát triển đến một mức đủ mạnh thì sẽ dần dần xóa bỏ các
thành phần kinh tế không phù hợp.
Từ tất cả những vấn đề trên ta thấy LLSX là yếu tố tự nó thường xuyên phát triển
nhưng khi LLSX phát triển đến một mức độ nhất định thì QHSX phải thay đổi. Khi QHSX
thay đổi sẽ làm cho CSHT thay đổi theo, mà CSHT thay đổi thì sẽ dẫn đến sự thay đổi của
KTTT. Đến đây tất cả các yếu tố cấu thành 1 hình thái kinh tế – xã hội đã thay đổi. Tức là
hình th kinh tế -xã hội này đã chuyển sang hình th kinh tế -xã hội khác cao hơn. Như


vậy sự phát triển của các hình th kinh tế -xã hội là một qúa trình lịch sử tự nhiên, tức là
nó không tuân theo ý muốn chủ quan của con người, mà tuân theo những qui luật khách
quan. Trong đó, trước hết và quan trọng nhất là qui luật LLSX quyết định QHSX, qui luật
về CSHT quyết định KTTT. Tất cả những điều này cho thấy rằng muốn xã hội phát triển
thì trước hết phải đầu tư vào LLSX, trong đó quan trọng nhất là người lao động, công cụ lao
động. Đồng thời chúng ta cũng phải hoàn thiện QHSX, hoàn thiện KTTT, đặc biệt là bộ
máy nhà nước để có thể tác động tích cực trở l đối với sự phát triển của LLSX, phải làm

trong sạch bộ máy nhà nước và nâng cao trình độ của cán bộ công chức, làm cho bộ máy
cán bộ vừa hồng, vừa chuyên, vừa có phẩm chất đạo đức, vừa có chuyên môn.
 Đặc điểm của cơ sở hạ tầng & kiến trúc thượng tầng ở nước ta hiện nay:
VN đang cố gắng tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị. Khi đã ổn định chính trị thì
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. VN quan hệ kinh tế với nước ngoài trên cơ sở hai bên cùng có
lợi dùng kinh tế làm phương tiện để xây dựng xã hội. Trong suốt thời kỳ quá độ phải luôn
luôn phát triển & củng cố CSHT, điều chỉnh & củng cố các bộ phận của KTTT. Cơ chế thị
trường mang tính cạnh tranh gay gắt, chắc chắn sẽ đưa đến những xáo trộn về kinh tế, để
tránh độc quyền tăng giá của các công ty lớn nhà nước phải có những chính sách, chủ
trương can thiệp để điều tiết sản xuất như lập ngân hàng hỗ trợ các công ty nhỏ.
Trong quá trình xây dựng KTTT của XHCN, luôn lấy chủ nghóa M – L & tư tưởng
HCM làm nền tảng cho mọi hoạt động tinh thần của xã hội. KTTT mang tính chất g/c của
g/c công nhân làm chủ xã hội, xây dựng nhà nước của dân, do dân & vì dân.
Câu 10: Hình thái kinh tế-xã hội là gì? Phân tích các yếu tố hợp thành cấu trúc hình thái
kinh tế-xã hội. Ý nghóa của học thuyết hình thái kinh tế-xã hội
Học thuyết của Mác về hình thái kinh tế xã hội là nền tảng của CNDVLS. Việc
nghiên cứu và nắm vững học thuyết này không chỉ giúp chúng ta hiểu rằng sự phát triển
của HTKT-XH là một quá trình lịch sử tự nhiên mà còn giúp chúng ta hiểu được cấu trúc
của một HTKT-XH cụ thể và các qui luật vận động của nó, đồng thời nghiên cứu học
thuyết HTKT-XH còn là cơ sở lý luận chung cho việc nghiên cứu các hiện tượng xã hội và
chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển. Với ý nghóa này trong bộ “Tư bản”, Tập 1 Các Mác có
viết tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội từ thấp đến cao là một quá trình
lịch sử tự nhiên.
1) Vậy hình thái kinh tế – xã hội là gì?
Theo quan điểm của triết học Mác – Lê nin thì hình thái KT-XH là một phạm trù
của CNDV LS dùng để chỉ xã hội phát triển ở những giai đoạn lịch sử nhất định với
những quan hệ SX của nó phù hợp với những LLSX phát triển ở một trình độ nhất định và
một kiến trúc thượng tầng đïc dựng trên những quan hệ SX đó.
2) Các yếu tố hợp thành cấu trúc của một hình thái kinh tế – xã hội:
Xã hội là một chỉnh thể sống phức tạp nhưng có 3 yếu tố quan trọng nhất là LLSX,

QHSX, KTTT. Mỗi yếu tố này có một vai trò, chức năng khác nhau đối với sự phát triển
của một HTKT-XH.


×