Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

cong tac dan van

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.85 KB, 23 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>BÀI DỰ THI TÌM HIỂU 85 NĂM TRUYỀN THỐNG</b>
<b>CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG</b>


1. Anh (chị) hãy cho biết vì sao có Ngày truyền thống cơng tác Dân vận của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Ngày Dân vận của cả nước?


<b>Trả lời :</b>


<b>I. SỰ RA ĐỜI VÀ Ý NGHĨA CỦA NGÀY 15/10</b>
<b>1. Sự ra đời</b>


Cách đây 85 năm, sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, từ ngày 14
đến ngày 31-10-1930, tại Hương Cảng, Hội nghị Trung ương lần thứ nhất đã
thông qua Luận cương chính trị, Điều lệ Đảng và Án nghị quyết về: Công nhân
vận động, Nông dân vận động, Cộng sản Thanh niên vận động; Phụ nữ vận
động; Quân đội vận; Vấn đề cứu tế và Hội phản đế đồng minh. Trong Nghị
quyết của Trung ương chỉ rõ: "Trong các Đảng bộ, (từ Thành ủy và Tỉnh ủy)
phải tổ chức ra các Ban chuyên môn về giới vận động". Từ tháng 10-1930, hệ
thống Ban chuyên môn về các giới vận động của Đảng bao gồm: công vận, nông
vận, thanh vận, phụ vận, quân đội vận, Mặt trận phản đế được ra đời làm nhiệm
vụ tổ chức, tập hợp lực lượng, giáo dục, vận động quần chúng nhân dân tham
gia các phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, nước nhà giành được độc lập, Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết bài báo Dân vận đăng trên Báo Sự thật số ra ngày 15-10-1949.
Chính vì vậy, vào tháng 10-1999, trên cơ sở đề nghị của Ban Dân vận Trung
ương, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã quyết định
lấy ngày 15-10 hàng năm là Ngày truyền thống công tác dân vận của Đảng và là
“Ngày Dân vận của cả nước”.


<b>2. Ý nghĩa</b>



Xuất phát từ nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh:
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Đảng gắn bó
máu thịt với nhân dân đã trở thành một truyền thống tốt đẹp và là nguồn sức
mạnh của Đảng ta từ ngày thành lập đến nay. Đảng ta luôn xác định: Dân vận và
công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp
cách mạng nước ta; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng
và củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta trong điều kiện hội nhập quốc tế
càng đòi hỏi phải phát huy cao độ khối đoàn kết và sức mạnh toàn dân tộc, kết
hợp với sức mạnh của thời đại, đưa đất nước thốt khỏi nghèo nàn, lạc hậu, thực
hiện thành cơng cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do
vậy, từ Đại hội V của Đảng đã xác định "Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa,
tầm quan trọng của công tác vận động quần chúng chẳng những khơng giảm bớt
mà cịn tăng thêm".


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

chiến lược tới. Vì vậy, nhân dân ta phải nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức là
vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng hiện nay. Tăng cường
cơng tác dân vận lúc này chính là tăng cường nhân tố bảo đảm thắng lợi bền
vững của sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân ta.


<b> II. NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ CÔNG TÁC DÂN VẬN</b>


Từ khi thành lập đến nay, trải qua các thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn đặt công
tác dân vận là một trong những nhiệm vụ hàng đầu, thể hiện mối quan hệ khăng
khít giữa Đảng với nhân dân, tạo thành thành sức mạnh to lớn chiến thắng kẻ
thù, xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong mỗi giai đoạn lịch sử cách mạng, cơng
tác dân vận có phương thức, nội dung khác nhau nhưng đều nhằm mục tiêu vận
động tất cả các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia vào các phong trào cách
mạng, thi đua yêu nước; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố và
tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân.



<b>1. Công tác dân vận trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930 </b>
<b>-1945)</b>


Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời; ngay sau khi thành lập, Đảng
nhanh chóng tổ chức ra các đồn thể cách mạng, hình thành bộ máy và cán bộ
làm công tác dân vận. Xuất phát từ tình hình thực tế của nước ta lúc bấy giờ là
nước thuộc địa nửa phong kiến, lại là nước nông nghiệp lạc hậu, để thực hiện
mục tiêu cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng đã tổ chức cho các đảng viên của
mình đi vào các giai cấp, tầng lớp nhân dân, tuyên truyền vận động, tổ chức và
tập hợp quần chúng nhân dân, huấn luyện họ đấu tranh chống áp bức, bất cơng,
bóc lột địi dân sinh, dân chủ ở khắp mọi nơi. Những cán bộ, đảng viên lớp đầu
tiên của Đảng đã không quản gian lao, thực hiện chủ trương "vơ sản hóa", tiến
hành "ba cùng" với dân, tuyên truyền, giác ngộ nhân dân lao động và thành lập
các tổ chức quần chúng đoàn kết xung quanh Đảng, tạo sức mạnh và động lực
cho cách mạng theo tư tưởng của Bác Hồ: "Đem sức ta mà giải phóng cho ta".
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân đã nhất tề đứng lên làm Cách mạng Tháng
Tám thành cơng, dựng lên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Từ địa vị người
nô lệ, nhân dân ta đã trở thành người làm chủ nước nhà.


Sau cao trào cách mạng (1930 - 1931), đến thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông
Dương (1936 - 1939), phong trào Phản đế (1939-1941) và phong trào Mặt trận
Việt Minh thời kỳ 1941-1945, Đảng ta chủ chương mở rộng chính sách đại đồn
kết tồn dân và công tác Mặt trận. Quần chúng được tập hợp qua các hình thức
đấu tranh cơng khai, hợp pháp, nửa hợp pháp. Đảng đã tập hợp đông đảo các
tầng lớp nhân dân, bao gồm nhân sĩ, trí thức, tư sản dân tộc và cả ngoại kiều…
đây thực sự là bước phát triển mới trong việc xây dựng lực lượng chính trị quần
chúng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã chứng minh đường lối cách mạng của


Đảng là đúng đắn; đó cũng là thắng lợi của nghệ thuật vận động quần chúng;
Đảng biết dựa vào dân, tin ở dân, gắn bó với dân, tuyên truyền giác ngộ nhân
dân, tổ chức tập hợp và hướng dẫn quần chúng nhân dân đấu tranh giành chính
quyền.


<b>2. Cơng tác dân vận trong 2 cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ</b>
<b>Tổ quốc (1945 - 1975).</b>


Trong suốt 30 năm liên tục (1945 - 1975) của hai cuộc kháng chiến giải phóng
dân tộc và bảo vệ Tổ quốc với tinh thần “không có gì q hơn độc lập tự do”,
bằng niềm tin và sức mạnh toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cơng tác
dân vận đã góp phần tun truyền, vận động, tổ chức những phong trào cách
mạng rộng lớn, động viên sức người, sức của, huy động được sức mạnh của toàn
dân tộc, nhân dân ta viết nên những trang sử hào hùng.Trong những năm kháng
chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền
Nam, thống nhất Tổ quốc, Đảng ta đã tổ chức, rèn luyện và hình thành một đội
ngũ cán bộ làm cơng tác dân vận ln gắn bó máu thịt với nhân dân ở khắp mọi
miền của đất nước. Nhiều cán bộ, chiến sĩ đã chịu đựng hy sinh gian khổ, kiên
cường bám dân để thực hiện xuất sắc nhiệm vụ Đảng giao cho. Nhân dân tin
tưởng và che chở cho cán bộ khi bị địch truy lùng, chăm sóc chạy chữa khi đau
yếu, móc nối khi mất liên lạc và đùm bọc, chia ngọt sẻ bùi như con em trong gia
đình. Trong những năm tháng đó, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, các
phong trào "Ba sẵn sàng", "Ba đảm đang", "Năm xung phong"... đã rầm rộ phát
triển, tạo nên bầu nhiệt huyết cách mạng sôi động trong nhân dân cả nước, tất cả
vì sự nghiệp độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc. Công tác dân vận đã góp
phần củng cố niềm tin tuyệt đối của nhân dân đối với Đảng, Bác Hồ với tấm
lòng son sắt và thủy chung, khơng gì lay chuyển được.


Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là thắng
lợi của đường lối mở rộng đại đồn kết tồn dân tộc vì sự nghiệp kháng chiến,


kiến quốc. Đó là sự thành cơng của việc xây dựng lực lượng chính trị ngày càng
rộng rãi trong mặt trận và các đoàn thể, trong lực lượng vũ trang theo tư tưởng
Hồ Chí Minh; “Vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân, khơng để sót
một người dân nào, góp thành lực lượng tồn dân..."; phát huy tới mức cao nhất
về lực lượng, trí tuệ và của cải tạo thành sức mạnh tổng hợp để hoàn thành
nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.


<b>3. Cơng tác dân vận trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc</b>
<b>Việt Nam XHCN</b>


Khi cả nước bước vào thời kỳ mới; công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc đứng
trước những thuận lợi và khó khăn mới; Đảng ta động viên nhân dân cả nước
nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, tiến hành công cuộc đổi mới, đưa
đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội; đẩy mạnh sự nghiệp CNH
-HĐH đất nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

-an ninh, xây dựng hệ thống chính trị…, tiêu biểu là các phong trào thi đua "Xóa
đói, giảm nghèo", "Đền ơn, đáp nghĩa", "Thanh niên tình nguyện", "Tuổi trẻ
sáng tạo", "Lao động giỏi, lao động sáng tạo", "Tồn dân đồn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư", v.v.. đã đóng góp quan trọng vào các thành tựu to
lớn và có ý nghĩa lịch sử của đất nước trên tất cả các lĩnh vực. Trong những năm
gần đây, phong trào thi đua "Dân vận khéo" do Ban Dân vận Trung ương phát
động đã được cấp ủy, chính quyền, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội các
cấp hưởng ứng, thực hiện; trong giai đoạn từ năm 2009 đến nay, trên cả nước đã
xuất hiện hàng chục vạn mơ hình, điển hình “Dân vận khéo” trên tất cả các lĩnh
vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng hệ thống chính trị, nhất là
trong thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, mang lại hiệu quả thiết
thực và những khởi sắc mới trong phong trào thi đua yêu nước trong các tầng
lớp nhân dân.



Có thể nói trong giai đoạn này, công tác dân vận của Đảng càng được khẳng
định rõ nét cả về lý luận và thực tiễn. Nghị quyết Đại hội VI của Đảng đã quán
triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”; phải đặc biệt chăm lo củng cố mối liên hệ giữa
Đảng với nhân dân. Nghị quyết 8B của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá
VI) về “Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng và nhân dân”. Đây là sự tổng kết có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc về
công tác vận động quần chúng của Đảng. Nghị quyết 8B nêu lên 4 quan điểm
chỉ đạo công tác quần chúng của Đảng, đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự,
bốn quan điểm này cịn mang tính chiến lược đối với công tác dân vận của Đảng
trong những giai đoạn tiếp theo của cách mạng, đó là: (1) Cách mạng là sự
nghiệp của dân, do dân và vì dân.; (2) Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng
là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hồ các lợi ích, thống
nhất quyền lợi và nghĩa vụ cơng dân; (3) Các hình thức tập hợp nhân dân phải
đa dạng; (4) Công tác quần chúng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các
đoàn thể nhân dân.


Tại Đại hội VII, Đảng ta xác định phải xây dựng cơ chế để thực hiện phương
châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thực hiện Nghị quyết Đại hội
VIII, ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị 30-CT/TW về xây
dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Sau đó, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội khóa X đã ra Nghị quyết số 45, Chính phủ ban hành Nghị định số 07, 71, 79
về thực hiện Quy chế dân chủ ở 3 loại hình cơ sở, đến nay có Pháp lệnh 34,
Nghị định 87 về thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn và các doanh
nghiệp. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 18/2000/CT-TTg về tăng
cường công tác dân vận trong các cơ quan nhà nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Đảng về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc với nội dung và chất
lượng mới, chỉ đạo công tác vận động quần chúng trong thời kỳ mới.



Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã xác định quan điểm về phát huy sức mạnh
đại đồn kết tồn dân tộc, đó là: “Đồn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh,
động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền
vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc... Đại đoàn kết là sự nghiệp của
toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức
Đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức; trong đó các chủ trương
của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng
đầu”.


Bộ Chính trị khóa X đã ra Quyết định số 290-QĐ/TW, ngày 25/02/2010 về việc
ban hành "Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị" một lần nữa khẳng
định: “Dân vận và công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với
tồn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự
lãnh đạo của Đảng và củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà
nước với nhân dân”; đồng thời, xác định rõ trách nhiệm lãnh đạo và thực hiện
công tác dân vận của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân, của mọi cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên; cơ chế phối
hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong thực hiện công tác dân vận. Có thể nói, đây
là văn bản đầu tiên của Đảng có tính chế định về chế độ trách nhiệm lãnh đạo,
chỉ đạo và thực hiện công tác dân vận trong hệ thống chính trị nước ta.


Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) ban hành Nghị quyết số
25-NQ/TW, ngày 03/6/2013 về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối
với cơng tác dân vận trong tình hình mới” xác định mục tiêu: Củng cố vững
chắc lòng tin của nhân dân với Đảng; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc
và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân; tập hợp, vận động nhân dân
thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước;
phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo phong trào cách mạng rộng lớn xây


dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Sau đó, ngày 12/12/2013 Bộ Chính trị ban hành 2 quyết định
quan trọng: Quyết định số 217-QĐ/TW về việc ban hành "Quy chế giám sát và
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã
hội"; Quyết định số 218-QĐ/TW về ban hành "Quy định về việc Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các đồn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây
dựng Đảng, xây dựng chính quyền". Việc ban hành các Quy chế, Quy định nói
trên là sự cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 7 (khóa XI) về cơng tác dân vận; là bước đột phá mới về phát huy
dân chủ nhằm không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu
quả hoạt động của chính quyền, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền trong sạch, vững mạnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Phát huy truyền thống và thành tựu đã đạt được trong 85 năm qua, trước những
yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới, công tác dân vận của Đảng càng cần tiếp tục
đổi mới và tăng cường hơn bao giờ hết. Theo đó, trong thời gian tới cần tiếp tục
quán triệt, tổ chức thực hiện có hiệu quả các nghị quyết Đại hội Đảng các cấp,
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khóa XI) về “Tăng cường và đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận trong tình hình mới”, với một số trọng
tâm:


- Tiếp tục tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của toàn xã hội, trước hết
là của cấp ủy đảng, chính quyền và tổ chức chính trị - xã hội về phát huy vai trò
to lớn của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, về phát huy
dân chủ xã hội chủ nghĩa; để từ đó, không ngừng nâng cao nhận thức, trách
nhiệm thực hiện tốt công tác dân vận theo "Quy chế công tác dân vận của hệ
thống chính trị" đã được Bộ Chính trị khóa X ban hành. Khơng ngừng củng cố
vững chắc lịng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước; tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân.



- Đẩy mạnh cơng tác dân vận của chính quyền, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở. Triển khai thực hiện Kết luận số 114-KL/TW, ngày 14/7/2015 của Ban Bí
thư về “Nâng cao hiệu quả công tác dân vận của cơ quan Nhà nước các cấp”.
Tiếp tục xây dựng và ban hành hệ thống chính sách cụ thể, phù hợp với các tầng
lớp nhân dân, các tôn giáo, dân tộc... và hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền làm
chủ của nhân dân để tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các ngành, các cấp, các
địa phương, đơn vị triển khai công tác dân vận. Đổi mới nội dung, nâng cao chất
lượng, hiệu quả cơ chế phối hợp hoạt động giữa chính quyền với Ban dân vận
của cấp ủy, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội các cấp nhằm phát
huy sức mạnh tổng hợp trong công tác dân vận của Đảng.


- Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua “Dân vận khéo” gắn với các phong trào
thi đua yêu nước và các cuộc vận động, phong trào do Mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức chính trị - xã hội phát động. Thông qua hoạt động thực tiễn, các cấp, các
ngành cần làm tốt công tác tuyên truyền, cổ vũ và nhân rộng các nhân tố mới,
điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt” trên mọi lĩnh vực; phát huy tinh
thần yêu nước, thực hành dân chủ, tạo ra phong trào hành động cách mạng sâu
rộng của tồn dân thực hiện thắng lợi cơng cuộc đổi mới, phát triển đất nước.
- Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động, thực hiện tốt vai trị là người đại diện, bảo vệ quyền lợi
chính đáng, hợp pháp của đồn viên, hội viên; đa dạng hóa các hình thức tập
hợp nhân dân, hướng về cơ sở, tập trung cho cơ sở. Nội dung tuyên truyền phải
phù hợp với trình độ dân trí và đặc điểm của từng giai tầng xã hội, trong từng
giai đoạn cách mạng. Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng
tác vận động đồn viên, hội viên và nhân dân thực hiện có hiệu quả các chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tạo phong trào cách mạng
rộng lớn trong nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

chất lượng công tác nghiên cứu, tham mưu giúp Trung ương, cấp ủy các cấp có
chủ trương, biện pháp phù hợp lãnh đạo, chỉ đạo cơng tác dân vận; theo dõi,


nắm chắc tình hình nhân dân, nhất là vấn đề liên quan công tác dân tộc, tôn giáo
và những vấn đề bức xúc trong đời sống xã hội. Tích cực đổi mới nội dung, hình
thức cơng tác dân vận phù hợp với từng địa bàn, hướng mạnh về cơ sở, phát huy
sức mạnh tổng hợp các tổ chức, các lực lượng để nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác dân vận. Nâng cao chất lượng, hiệu quả của các chương trình phối hợp,
nghị quyết liên tịch…đã được ký kết nhằm phát huy hơn nữa sức mạnh tổng hợp
của hệ thống chính trị trong cơng tác dân vận của Đảng.


Kỷ niệm 85 năm Ngày truyền thống công tác dân vận của Đảng (15/10/1930
-15/10/2015) giữa lúc cả nước đang nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi các
chương trình kinh tế, xã hội năm 2015, khẩn trương hoàn thành tổ chức đại hội
đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Hơn
lúc nào hết, các cấp, các ngành, mọi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân
phát huy cao độ tinh thần yêu nước, tạo khí thế mới, quyết tâm mới, sẵn sàng
vượt qua mọi khó khăn, thử thách, ra sức thi đua, phấn đấu thực hiện thắng lợi
các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI đã đề ra, thiết thực lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng
tồn quốc lần thứ XII sắp tới.


2. Hãy nêu các nguyên tắc về đại đoàn kết toàn dân tộc và nội dung biểu hiện về
"phong cách làm việc quần chúng" theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trên cơ sở đó, anh (chị) hãy nêu thực trạng và đề xuất giải pháp để tiếp tục xây
dựng phong cách làm việc của đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức
hiện nay?


<b>Trả lời :</b>


Nguyên tắc của đại đoàn kết. liên hệ vận dụng nội dung này:
1)Nguyên tắc đại đoàn kết :



- Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo những lợi ích tối cao của
dân tộc và những quyền lợi cơ bản lâu dài của dân tộc :
+ Xây dựng khối đại đoàn kết sẽ tuỳ thuộc vào việc giải quyết đúng đắn các
quan hệ giữa: tập thể và cá nhân, gia đình và XH, bộ phận và tồn thể, giai cấp
và dân tộc, quốc gia và quốc tế. Ở HCM, để xây dựng khối đại đồn kết cần tìm
kiếm những yếu tố tương đồng, đồng nhất, khắc phục, thậm chí chấp nhận
những yếu tố khác bịêt nhưng khơng có hại, khơng đi ngược lại lợi ích chung để
cùng nhau hành động theo phương châm : “dân tộc trên hết, tổ quốc trên hết”.
Để có thể được sống, được tự do và mưu cầu hạnh phúc là những quyền thiêng
liêng không ai có thể xâm phạm được, mỗi con người lại phải sống gắn bó với
XH, sống trong lịng quốc gia, dân tộc. Vì vậy, quyền con người phải dựa trên
cơ sở các quyền của dân tộc


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

với tự do hạnh phúc của nhân dân. Người vẫn thường nói : “… nếu nước độc lập
mà dân khơng hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì “.
Do đó, mục tiêu đơc lập dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân là tiêu chí sức
mạnh, niềm tin và quyết tam thu hút, phát huy cao độ lực lượng của cả nước.
Muốn giải quyết tốt các mối quan hệ lợi ích, trước hết phải giải quyết mối quan
hệ cốt lõi giữa dân tộc và giai cấp


- Tin vào dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc là một nguyên tắc cơ bản trong tư
tưởng HCM về đại đoàn kết : Theo HCM dân ở đây là mọi người VN yêu nước,
là “mọi công dân nước Việt”, là “mỗi một người con rồng, cháu tiên”, không
phân biệt già trẻ gái trai, giàu nghèo “Năm ngón tay cũng có ngón ngắn ngón
dài. Nhưng vắn dài đều hợp nhau nên bàn tay. Trong mấy triệu người, có người
thế nầy, thế khác, nhưng thế nầy hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy
nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai
cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường ta
phải lấy tình nhân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đồn kết, có đại
đồn kết thì tương lai chặt chẽ, vẻ vang”



Yêu dân, tin dân, dựa vào dân là nguyên tắc tối cao xuyên suốt trong tư duy và
hoạt động thực tiễn của HCM. Nguyên tắc này đã được Người khái qt một
cách sâu sắc : “Trong bầu trời khơng có gì q bằng nhân dân. Trên thế giới
khơng có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân …”. Trong XH khơng
có tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”.
Nguyên tắc tin dân, dưa vào dân, phấn đấu vì dân thể hiện ở những nội
dung sau :


+ Dân là gốc rễ, là nền tảng của đại đoàn kết
+ Dân là chủ thể của đại đoàn kết


+ Dân là sức mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi
của CM.


+ Dân là chổ dựa vững chắc của Đảng CS, của hệ thống chính trị cách mạng, với
lịng bao la, lịng tin vô hạn đối với dân tộc, nhân dân, Người đã khơi dậy ở mỗi
con người khả năng tiềm tàng của họ, thức tỉnh con người tự giác đứng lên đấu
tranh cho sự nghiệp chính nghĩa của giai cấp, quốc gia, dân tộc.
Đại tướng Võ Nguyên Giác đã nhận xét sâu sắc rằng : “Trong lãnh đạo cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc cũng như trong suốt q trình lãnh đạo CM VN , Chủ
tịch HCM ln coi lực lượng của nhân dân, của dân tộc là lực lượng quyết định
mọi thắng lợi CM. Chiến lược của Người là đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc”
- Lấy liên minh cơng nơng và trí thức làm nền tảng, tập họp rộng rãi mọi tổ chức
và cá nhân yêu nước trong Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

môt số lãnh tục CM ở khu vực và trên thế giới. Ở HCM, đại đoàn kết được xây
dựng không chỉ là tình cảm mà được xây dựng trên cơ sở khoa học.
Người đến và tin theo CN Mác Lênin, bởi Người thấy ở học thuyết ấy cái cần


thiết, cái cẩm nang thần kỳ đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc. CN Mác Lênin
đã giúp Người nhận thức được vai trị, sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân,
biến sức mạnh tự phát của quần chúng thành sức mạnh tự giác trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giải phóng XH, giải phóng con người. Vì vậy, Đại đồn kết
theo tư tưởng HCM là đại đoàn kết theo lập trường vô sản, theo ngọn cờ CN
Mác Lênin. Lực lượng Đại ĐK theo tư tưởng HCM bao gồm tất cả các giai tầng
XH, các ngành giới, các lứa tuổi, dân tộc tôn giáo nhưng không phải là một tập
họp hỗn độn, lỏng lẻo mà phải tập họp thành mặt trận dân tộc thống nhất rộng
rãi. Xương sống, sức mạnh chủ yếu của khối đại đoàn kết dân tộc là khối liên
minh cơng – nơng – trí thức. Vì vậy, liên minh cơng nơng trí thức là nền tảng, là
cơ sở để đoàn kết toàn dân trong mặt trân dân tộc thống nhất. Nhưng nếu tách
biệt hoặc nhấn mạnh một chiều vai trị mặt trận hay liên minh cơng – nơng – trí
thức sẽ khơng đúng với bản chất, tư tưởng HCM về đại đoàn kết.
Đại đồn kết là cơng việc của tồn dân tộc nhưng theo HCM, Đảng phải là
người lãnh đạo, là linh hồn của khối Đại ĐK toàn dân. Nhiệm vụ hàng đầu của
Đảng và tuyên truyền giáo dục để quần chúng giác ngộ sự cần thiết phải đoàn
kết lại. Đảng phải tìm ra những hình thức, phương pháp tổ chức thích hợp để thu
hút, tập họp rộng rãi nhất lực lượng yêu nước tiến bộ trong quần chúng. Đảng
phải hướng dẫn khối đại ĐK toàn dân đấu tranh và lao động sáng tạo thực hiện
những mục tiêu phù hợp với lợi ích của dân tộc và nguyên vọng chính đáng của
nhân dân. Vì Đảng là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết dân tộc nên trước hết
Đảng phải chăm lo đến việc tăng cường đoàn kết trong Đảng “… phải giữ gìn sự
đồn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. HCM đã chỉ ra
rằng “để làm tròn trách nhiệm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta phải dựa vào giai
cấp công nhân, lấy liên minh cơng nơng làm nền tảng vững chắc để đồn kết các
tầng lớp khác trong nhân dân. Có như thế mới phát triển và củng cố được lực
lượng cách mạng và đưa đến thắng lợi cuối cùng.
- Thống nhất lợi ích dân tộc với lợi ích nhân loại, kết hợp chặt chẽ phương châm
tự lực tự cường với mở rộng, hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại :


HCM khơng ngừng kêu gọi đồn kết giữa các dân tộc bị áp bức, giữa nhân dân
thuộc địa với phong trào công nhân thế giới. Và trên thực tế Người đã lập ra
“Hội liên hiệp thuộc địa” tham gia Quốc tế cộng sản. Người đã chỉ ra những nét
chung giữa các dân tộc thuộc địa “ chúng ta cùng chịu chung một nỗi đau khổ :
sự bạo ngược của chế độ thực dân. Chúng ta đấu tranh vì một lý tưởng chung :
giải phóng đồng bào và giành độc lập cho tổ quốc chúng ta”. Từ tư tưởng đại
ĐK của HCM đã thúc đẩy hình thành được Mặt trận nhân dân thế giới, đoàn kết
với nhân dân VN, góp phần đưa cuộc đấu tranh vì độc lập tự do đến thắng lợi


hoàn toàn


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

- Muốn xây dựng khối đại đoàn kết trước hết phải có phương pháp tuyên truyền
giáo dục, vận động quần chúng để mọi người nhận thức được sự cần thiết phải
đoàn kết lại và tự giác tham gia các công việc của cách mạng.
- Xây dựng, hồn thiện mơt hệ thống chính trị hồn chỉnh từ Đảng, Nhà nước


đến đoàn thể quần chúng


- Phương pháp thực hành : đại đoàn kết HCM là sự kết hợp đồng bộ, hiệu quả
các giải pháp ứng xử sao cho có thể mở rộng đến mức cao nhất trận tuyến cách
mạng, thu hẹp tối đa trận tuyến thù địch
3) Vận dụng tư tưởng đại đoàn kết của HCM trong sự nghiệp đổi mới :
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ bảo vệ tổ quốc XHCN, trước đòi
hỏi của sự nghiệp CNH-HĐH, với việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hướng XHCN và mở cửa hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng thì việc thực hiện tư tưởng đại đoàn kết của HCM càng có ý nghĩa quan
trọng, đó là một trong những nhân tố đảm bảo cho quá trình đổi mới, phát triển
Quan điểm về đại đoàn kết đã được Nghị Quyết Hội nghị BCH TW lần 7 khóa



IX cụ thể như sau :


- Đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược
của CM VN, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa
quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc


- Đại đoàn kết toàn dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của tổ
quốc, vì dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm
tượng đồng, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành
phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới


tương lai


- Đảm bảo cơng bằng và bình đẳng XH, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng,
hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, kết hợp hài hịa lợi ích cá
nhân, lợi ích tập thể và lợi ích tồn XH, thực hiện dân chủ với giữ gìn kỷ cương,
chống quan liêu tham nhũng, lãng phí, không ngừng bồi dưỡng, nâng cao tinh
thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc thống nhất tổ quốc, tinh thần tự lực, tự
cường, xây dựng đất nước, xem đó là những yếu tố quan trọng để củng cố và
phát triển khối


đại đoàn kết dân tộc


- Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc của cả hệ thống chính trị mà hạt
nhân lãnh đạo là các tổ chức Đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình
thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước
có ý



nghĩa quan trọng hng đầu


Nghị Quyết Hội nghị BCH TW lần 7 khóa IX cũng đề ra 5 giải pháp chủ yếu để
thực hiện đại đoàn kết như sau :


Một là xây dựng những định hướng chính sách nhằm tăng cường khối đại đồn


tồn dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

chính sách đại đồn kết toàn dân tộc
Ba là mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị trí
của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện


đại đoàn kết dân tộc


Sự đa dạng hóa loại hình sở hữu đó đã làm phức tạp cơ cấu lợi ích giai cấp. Vì
vậy, chúng ta phải tìm ra những mặt tương đồng giữa các thành phần kinh tế, tạo
điều kiện thuận lợi thật sự bình đẳng và khuyến khích cho tất cả các thành phần
kinh tế đó phát huy tối đa năng lực, sức mạnh của mình trong việc thực hiện các
mục tiêu mà Đảng ta đ đề ra. Mặt khác, chúng ta phải đảm bảo kết hợp tăng
trưởng kinh tế đồng thời với các chính sách XH để giảm bớt khoảng cách giàu
nghèo, chú ý chính sách tơn giáo, dân tộc, cảnh giác trước âm mưu của kẻ địch.
Ngồi ra, cơng cuộc xây dựng đất nước không chỉ là sự nghiệp của giai cấp cơng
nhân mà nó cịn là sự nghiệp của toàn dân, kể cả cộng đồng người VN đang định
cư ở nước ngồi. Vì vậy, chng ta phải biết huy động tất cả các tầng lớp, công
đồng người Việt ở nước ngồi thơng qua các chính sách thu hút nguồn lực của
cộng đồng dân cư người Việt ớ nước ngồi. Đồng thời phải xuất phát từ lợi ích
của dân tộc để mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, thực hiện chính sách đa phương
hóa, đa dạng hóa trong đối ngoại, tranh thủ mọi khả năng có thể để xây dựng đất
nước



Bốn là tăng cường cơng tác chính trị, tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công dân,
xây dựng sự đồng thuận XH, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước.
Năm là xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh và đổi mới phương thức
lnh đạo của Đảng để Đảng thật sự là hạt nhân lnh đạo khối Đại đồn kết dân tộc.
Tóm lại, hiện nay, chúng ta đang đứng trước những vận hội mới đồng thời cũng
có những thách thức mới. Những vận hội và thách thức đó tác động hàng ngày
hàng giờ đến khối Đại đoàn kết dân tộc. Để tiến lên chúng ta chỉ có con đường
là phải kiên trì, vững vng, qun triệt v thực hiện tư tưởng Đại đoàn kết HCM,
đồng thời chúng ta cũng phải đổi mới, phát triển những nội dung, phương pháp
Đại đoàn kết HCM cho phù hợp với sự vận động , biến đổi của đời sống KT XH
trong nước và thế giới. Kế thừa, phát triển tư tưởng Đại đồn kết HCM trong sự
nghiệp đổi mới địi hỏi phải có sự nghiên cứu sâu sắc tồn diện tất cả các vấn đề
chính trị, KT, XH và quốc tế. Trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước cần luôn luôn quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng HCM về
Đại đồn kết


3. Trình bày những quan điểm của Đảng ta hiện nay về công tác dân vận trong
tình hình mới. Anh (chị) tâm đắc nhất nội dung nào trong các quan điểm đó, vì
sao?


Tiếp tục đổi mới cơng tác dân vận của Đảng trong tình hình hiện nay


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

giữa “ý Đảng” với “lịng dân”, phát huy sức dân trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.


Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) Về
<i>tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác dân vận (CTDV)</i>
<i>trong tình hình mới đã khẳng định: “Trong q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng</i>
ta ln xác định CTDV là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp


cách mạng của đất nước; là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng,
củng cố và tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân
dân”.


Quán triệt tinh thần đó, những năm qua, CTDV ln được cấp ủy, chính quyền,
ban, ngành, đoàn thể, địa phương quan tâm đúng mức, với nhiều cách làm hay,
sáng tạo và mang lại hiệu quả thiết thực. Nội dung CTDV có trọng tâm, trọng
điểm, hình thức đa dạng, phong phú, xác định được mơ hình phù hợp với yêu
cầu của thực tiễn, bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị và tình
hình địa bàn; tích cực làm tốt cơng tác tun truyền, vận động nhân dân thực
hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kế
hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. CTDV ở biên
giới, vùng sâu, vùng xa đã giúp đồng bào các dân tộc thay đổi nếp sống, cách
nghĩ; sống định canh, định cư, xây dựng thôn, bản văn hóa, tích cực tham gia
phịng, chống tội phạm; khơng sinh hoạt đạo trái pháp luật, tàng trữ vũ khí, buôn
bán ma túy, tái trồng cây thuốc phiện. Thông qua CTDV, đồng bào các dân tộc
đã nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề “dân tộc”,
“tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền” để chống phá cách mạng nước ta. Đồng
thời, tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, góp
phần nâng cao năng lực lãnh đạo, hiệu lực quản lý, điều hành của cấp ủy, chính
quyền, hoạt động của các ban, ngành, đoàn thể các cấp. Đội ngũ cán bộ dân vận
đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương phối hợp thực hiện tốt công
tác quốc phòng - an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, nâng cao chất
lượng chính trị của lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên, v.v. Nhờ làm tốt
CTDV, niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ được tăng cường; kinh tế
-xã hội tiếp tục phát triển, đời sống của nhân dân được cải thiện và ngày càng
khởi sắc; chính trị, quốc phịng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được củng cố và
giữ vững; hoạt động đối ngoại, hội nhập kinh tế thế giới được đẩy mạnh, vị thế
nước ta ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.



</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

mẫu, suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, xa dân, vơ cảm trước khó
khăn, bức xúc của nhân dân. Phương pháp vận động, tập hợp quần chúng chưa
phù hợp với từng đối tượng, đặc biệt là đối với đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ,
thanh niên, người theo đạo. Việc chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
làm CTDV chưa đáp ứng yêu cầu. Sự phân hóa giàu - nghèo, phân tầng xã hội,
cùng với tệ quan liêu, tham nhũng, xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân là
thách thức không nhỏ đối với CTDV và mối quan hệ máu thịt giữa nhân dân với
Đảng.


Trước yêu cầu mới của thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH, hội nhập quốc tế, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, có nhiều vấn đề mới đặt ra cần phải giải quyết cả trước
mắt và lâu dài, cả thời cơ, thuận lợi và thách thức, khó khăn. Các thế lực thù
địch vẫn chưa từ bỏ chiến lược “Diễn biến hịa bình” chống phá cách mạng nước
ta, với âm mưu thâm độc là chia rẽ Đảng với nhân dân, Đảng với Quân đội và
Cơng an. Trước tình hình đó, địi hỏi phải tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng,
hiệu quả CTDV phù hợp với yêu cầu của thực tiễn; tập trung vào những giải
pháp cơ bản sau:


Một là, tiếp tục triển khai các nhóm giải pháp về xây dựng Đảng và quán triệt
<i>các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về CTDV. Mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa</i>
Đảng với nhân dân là nguồn gốc tạo nên sức mạnh để giành thắng lợi trong mỗi
giai đoạn của cách mạng; đồng thời, cũng là mục tiêu hướng tới của CTDV. Vì
vậy, trong tình hình hiện nay, thực hiện nghiêm túc các nội dung, giải pháp về
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, tăng cường đồn kết,
thống nhất, gắn bó với nhân dân, cơ sở, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thối
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, gắn với tiếp tục đẩy mạnh việc học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sẽ thiết thực góp phần nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng, củng cố lòng tin của
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Cùng với đó, các cấp ủy cần tiếp tục tổ chức


học tập, nghiên cứu, quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị, quy định của
Đảng và Nhà nước về CTDV, như: Nghị quyết 25 của Ban Chấp hành Trung
ương (khóa XI) về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của đảng đối với CTDV
trong tình hình mới, Quyết định 290 của Bộ Chính trị về Quy chế CTDV của hệ
thống chính trị, Chỉ thị 18 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường CTDV,
Quyết định 217, 218 của Bộ Chính trị về việc ban hành Quy chế giám sát và
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội
và về tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền đến tồn thể cán
bộ, đảng viên, cơng chức, viên chức, đồn viên, hội viên và người lao động.
Trên cơ sở đó, từng địa phương, ngành, lĩnh vực có nghị quyết, kế hoạch,
chương trình CTDV phù hợp với đặc điểm, tính chất nhiệm vụ; đề ra mục tiêu,
yêu cầu đạt được, sao cho vừa đáp ứng sự phát triển của tình hình, vừa tạo sự
đồng bộ trong triển khai thực hiện.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

ủy, tổ chức đảng phải bám sát nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, sâu sát
đến từng địa bàn, cơ sở; thấy được những thuận lợi, khó khăn cùng tâm tư,
nguyện vọng và những bức xúc của người dân để có giải pháp lãnh đạo phù hợp,
tính khả thi cao. Đồng thời, phải phát huy tinh thần trách nhiệm trong lãnh đạo,
chỉ đạo CTDV; coi đó là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, yêu cầu về phẩm chất,
năng lực, phương pháp, tác phong công tác của đội ngũ cán bộ cơ sở. Các cấp
ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đồn thể chính trị - xã hội đưa
nội dung CTDV vào chương trình, kế hoạch cơng tác hằng tháng, quý, năm; chỉ
đạo các đoàn thể tổ chức phong trào thi đua yêu nước và tuyên dương tập thể, cá
nhân có thành tích về CTDV. Các cấp, ngành, địa phương, đơn vị tập trung giải
quyết những bức xúc, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, nhất là những vấn
đề liên quan trực tiếp đến đời sống, việc làm, đền bù, thu hồi đất đai, tệ nạn xã
hội,… theo nguyên tắc: mọi chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước phải thuận với lòng dân, xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng
của nhân dân.



Ba là, tăng cường đổi mới CTDV của các cơ quan nhà nước. Tiếp tục thể chế
hóa quan điểm, chủ trương mới của Đảng về CTDV thành văn bản pháp luật để
các cấp chính quyền, cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân thực hiện. Các
cấp chính quyền phải thường xuyên lắng nghe những đề xuất, kiến nghị từ các
đoàn thể về xây dựng nội dung và phương thức hoạt động của CTDV trong tình
hình mới; đẩy mạnh thực hiện Quy chế phối hợp trong tuyên truyền, vận động
nhân dân chấp hành đường lối, chủ trương của của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước và các quy định của địa phương; tích cực tham gia quản lý việc
thực hiện nghĩa vụ của công dân đối với Nhà nước, chăm lo và bảo vệ lợi ích
chính đáng của nhân dân, v.v. Đổi mới nội dung, hình thức tiếp xúc cử tri, lắng
nghe các ý kiến của nhân dân trong quá trình xây dựng kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội; gắn CTDV với thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở để khơi dậy và
động viên tinh thần, trí tuệ, vật chất, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo
điều kiện để nhân dân hiểu và giám sát hoạt động của chính quyền, trực tiếp
hoặc gián tiếp tham gia vào các hoạt động quản lý nhà nước. Xây dựng và thực
hiện phong cách: “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với
dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Các cơ quan nhà nước, nhất là
những ngành, đơn vị có quan hệ trực tiếp với nhân dân cần cơng khai các quy
định cụ thể về trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức,
viên chức để nhân dân biết và giám sát, kiểm tra việc thực hiện; đẩy mạnh cải
cách thủ tục hành chính, đổi mới lề lối làm việc, chấn chỉnh thái độ phục vụ
nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Đồng thời, tăng cường đối
thoại, tiếp xúc trực tiếp với nhân dân và giải quyết kịp thời đơn, thư khiếu tố của
dân; làm tốt công tác thanh tra nhân dân và hòa giải ở cơ sở; chủ động nắm tình
hình, giải quyết có hiệu quả những cơng việc liên quan đến đời sống của nhân
dân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

hợp nhân dân, hướng về cơ sở, tập trung cho cơ sở. Nội dung tuyên truyền phải
phù hợp với trình độ dân trí và đặc điểm của từng giai tầng xã hội, trong từng
giai đoạn cách mạng. Đẩy mạnh phong trào thi đua “Dân vận khéo” gắn với


“đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và các
phong trào do Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội phát động.
Thơng qua hoạt động thực tiễn, các cấp cần làm tốt công tác tuyên truyền, cổ vũ
và nhân rộng các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt”
trên mọi lĩnh vực; phát huy tinh thần yêu nước, thực hành dân chủ, tạo ra phong
trào hành động cách mạng sâu rộng của tồn dân thực hiện thắng lợi cơng cuộc
đổi mới, phát triển đất nước. Thường xuyên tổ chức học tập, quán triệt các quan
điểm, giải pháp về CTDV của Đảng để mỗi cán bộ, đảng viên nâng cao trình độ,
kiến thức, năng lực CTDV. Đồng thời, tích cực phát hiện, bồi dưỡng kỹ năng
vận động nhân dân cho những người có uy tín trong cộng đồng dân cư, tạo điều
kiện để họ tham gia việc tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, tạo sự lan tỏa, sức sống của CTDV trong tình
hình mới.


Năm là, triển khai tổ chức thực hiện có hiệu quả Quy chế phối hợp về
<i>CTDV giữa Ban Dân vận Trung ương và Bộ Quốc phịng, Bộ Cơng an, nhằm</i>
nâng cao hiệu quả CTDV trong các lực lượng này, góp phần củng cố, tăng
cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; nâng cao vị thế, vai trò của Việt Nam trong khu
vực và trên thế giới, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”. Chủ động đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc,
kích động của các thế lực thù địch chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân. Cấp ủy, chính quyền các cấp, nhất là ở
vùng biên giới cùng với lực lượng Công an, Quân đội cần chú trọng công tác
vận động, phát động quần chúng nhân dân, nêu cao ý thức cảnh giác, tích cực
xây dựng “thế trận quốc phịng toàn dân”, “thế trận an ninh nhân dân”, “Toàn
dân tham gia phịng, chống tội phạm”, “Thanh niên vì cuộc sống bình yên, vì
chủ quyền Tổ quốc”, “Khu dân cư, cơ quan, doanh nghiệp, trường học an tồn
khơng có tội phạm và tệ nạn xã hội”. Đặc biệt, cần phải thực hiện tốt CTDV ở
các địa bàn trọng điểm, như: Tây Bắc, Tây Nam bộ, Tây Nguyên; huy động sức


mạnh của nhân dân trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, ngăn
chặn các loại tội phạm, bài trừ tệ nạn xã hội, tạo môi trường thuận lợi để phát
triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh trên địa bàn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

-xã hội, đáp ứng yêu cầu về trình độ lý luận, năng lực thực tiễn và kỹ năng công
tác vận động nhân dân.


Bảy là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện CTDV. Các tổ
chức đảng từ Trung ương đến cơ sở phải thường xuyên phối hợp, kiểm tra, giám
sát chặt chẽ quá trình triển khai thực hiện và thể chế hóa các quan điểm, chủ
trương của Đảng về CTDV. Đồng thời, quan tâm nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn, giải đáp kịp thời những vấn đề thực tiễn đặt ra, nhất là về xây dựng và
củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, mối quan hệ giữa Đảng với nhân
dân; từ đó, tham mưu với cấp ủy ban hành các chủ trương, chính sách phù hợp,
nâng cao hiệu quả CTDV trong tình hình mới.


Thực hiện đồng bộ những giải pháp trên đây là một bảo đảm quan trọng để đổi
mới, nâng cao hiệu quả CTDV, đáp ứng yêu cầu tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân, tạo sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.


4. Trình bày các quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa VIII) về xây dựng Quy chế dân chủ ở cơ
sở? Để phát huy dân chủ, khắc phục những hạn chế, nâng cao chất lượng họp lệ
kỳ của Tổ nhân dân tự quản (Tổ dân phố, chi đoàn, chi hội, cơng đồn), anh
(chị) có đề xuất giải pháp gì?


<b>Trả lời :</b>


Các quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng


sản Việt Nam (khóa VIII) về xây dựng Quy chế dân chủ ở cơ sở :


<b>1. Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân</b>
<b>dân là mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách</b>
<b>mạng, của công cuộc đổi mới.</b>


Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hnh nhiều chính sách đổi mới về
kinh tế, chính trị, xã hội, phát huy một bước quyền làm chủ của nhân dân, nhờ
đó đã đạt được những thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc.


Tuy nhiên, nhìn chung, quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi,
trên nhiều lĩnh vực; tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu,
gây phiền hà cho dân vẫn đang phổ biến và nghiêm trọng mà chúng ta chưa đẩy
lùi, ngăn chặn được. Phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra"
chưa được cụ thể hoá và thể chế hoá thành luật pháp, chậm đi vào cuộc sống.
Như Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
VIII (tháng 6-1997) đã nhấn mạnh, lúc này để giữ vững và phát huy được bản
chất tốt đẹp của Nhà nước ta, phải phát huy quyền làm chủ của dân, thu hút nhân
dân tham gia quản lý nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm sốt nhà nước, khắc
phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cch trực tiếp và rộng
rãi nhất.


Muốn vậy, Nhà nước cần ban hành quy chế dn chủ ở cơ sở có tính pháp lý, u
cầu mọi người, mọi tổ chức ở cơ sở đều phải nghiêm chỉnh thực hiện. Quy chế
dân chủ cần được xây dựng cho từng loại cơ sở xã, phường, doanh nghiệp, bệnh
viện, trường học, viện nghiên cứu, cơ quan hành chính, …. phù hợp với đặc
điểm của từng loại cơ sở.



<b>2. Việc xây dựng quy chế dân chủ ở cơ sở cần quán triệt những quan điểm</b>
<b>chỉ đạo sau:</b>


- Đặt việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong cơ chế tổng thể
của hệ thống chính trị "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ".
Coi trọng cả ba mặt nói trên, khơng vì nhấn một mặt mà coi nhẹ, hạ thấp các mặt
khác.


- Vừa phát huy tốt chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt
động của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhn dn cc cấp,
vừa thực hiện tốt chế độ dân chủ trực tiếp ở cấp cơ sở để nhân dân bn bạc và
quyết định trực tiếp những công việc quan trọng thiết thực, gắn liền với lợi ích
của mình.


- Pht huy dn chủ phải gắn liền với pht triển kinh tế - xã hội và nâng cao dân trí,
tạo điều kiện mở rộng dân chủ có chất lượng và hiệu quả.


- Nội dung các quy chế phát huy dân chủ ở cơ sở phải ph hợp với Hiến php, php
luật, rõ tinh thần dân chủ đi đôi với kỷ cương, trật tự; quyền hạn gắn với trách
nhiệm, lợi ích đi đôi với nghĩa vụ; chống quan liêu, mệnh lệnh, đồng thời chống
tình trạng vơ chính phủ, lợi dụng dân chủ vi phạm pháp luật.


- Gắn qui trình xây dựng và thực hiện quy chế dn chủ với công tá cải cách hành
chính, sửa đổi những cơ chế, chính sách về thủ tục hành chính khơng phù hợp.
<b>3. Nội dung quy chế dn chủ ở cơ sở cần ch trọng lm r những vấn đề sau:</b>
+ Quy định quyền của mọi người dân ở cơ sở được thông tin về pháp luật, cc
chủ trương, chính sách của Nhà nước, nhất là những vấn đề lin quan trực tiếp
đến đời sống và lợi ích hàng ngày của nhân dân tại cơ sở; có chế độ và hình thức
báo cáo cơng khai trước dân cơng việc của chính quyền, cơ quan, đơn vị về sản


xuất và phân phối, về việc sử dụng cơng quỹ, tài sản cơng, về thu, chi tài chính,
các khoản đóng góp của dân, quyết tốn các cơng trình xây dựng cơ bản, chế độ
thu và sử dụng học phí, viện phí...


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

+ Có quy định về việc để nhân dân bàn và quyết định dân chủ đối với những loại
việc liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân trên địa bàn (như chủ trương
huy động sức dân để xây dựng kết cấu hạ tầng và các cơng trình phúc lợi, các
khoản đóng góp và lập các loại quỹ trong khn khổ php luật...); chính quyền,
thủ trưởng cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện theo ý kiến của đa số nhân dân, có
sự giám sát, kiểm tra của nhân dân.


+ Hoàn thiện cơ chế để nhân dân, công nhân, cán bộ, công chức ở cơ sở trực tiếp
và thơng qua Mặt trận, các đồn thể, ban thanh tra nhân dân kiểm tra, giám sát
hoạt động của chính quyền, thủ trưởng cơ quan, đơn vị; kết quả thanh tra, kiểm
tra, giám sát của nhân dân phải được tiếp thu nghiêm túc.


+ Mở rộng các hình thức tổ chức tự quản để nhân dân, công nhân, cán bộ, công
chức tự bàn bạc và thực hiện trong khn khổ pháp luật những cơng việc mang
tính xã hội hố, có sự hỗ trợ của chính quyền, cơ quan, đơn vị (như việc xây
dựng hương ước, quy ước làng văn hố, xây dựng tổ hồ giải, tổ an ninh, phong
trào vệ sinh - môi trường, đền ơn đáp nghĩa, giúp đỡ người nghèo, v.v.).


+ Xác định rõ trách nhiệm và tổ chức tốt việc tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố co
và trả lời thắc mắc của nhân dân, cơng nhân, cơng chức ở cơ sở, chính quyền, cơ
quan, đơn vị mình, nghiêm cấm mọi hành vi trù dập người khiếu nại, tố cáo.
+ Xác định trách nhiệm của tổ chức chính quyền, thủ trưởng cơ quan, đơn vị cơ
sở định kỳ (ba tháng, sáu tháng, một năm) báo cáo cơng việc trước dân, phải tự
phê bình và tổ chức để nhân dân, công nhân, cán bộ, công chức ở cơ sở góp ý
kiến, đánh giá, phê bình; nghiêm túc tiếp thu những ý kiến đóng góp đó.



<b>4. Về phương châm, phương pháp thực hiện, cần ch ý:</b>


Tổ chức đảng và đảng viên phải gương mẫu, đi đầu trong việc thực hiện quy chế
dn chủ ở cơ sở. Tổ chức đảng phải làm cho đảng viên thông suốt nhận thức, tư
tưởng; đảng viên, nhất là các đảng viên có chức vụ trong chính quyền phải
gương mẫu tự phê bình và phê bình nghiêm túc trong đảng bộ và trong nhân
dân.


- Phải làm từng bước vững chắc, không làm lướt, ồ ạt. Cấp uỷ cấp trên trực tiếp
chỉ đạo điểm, rút kinh nghiệm, bồi dưỡng cán bộ rồi mới triển khai mở rộng.
+ Qua tự phê bình trong nội bộ và qua phê bình nhận xét của nhân dân, biểu
dương những cán bộ, đảng viên tốt, gương mẫu và xử trí những cán bộ, đảng
viên có sai phạm. Việc xử trí cán bộ, đảng vin sai phạm phải nghim minh, có lý
cótình, lấy giáo dục làm chính. Những người đã sai phạm nếu thành khẩn kiểm
điểm và tích cực sửa chữa thì được xem xét giảm nhẹ hình thức kỷ luật; nếu
ngoan cố hoặc tái phạm thì phải xử trí nghim khắc hơn.


<b>5. Để tổ chức thực hiện Chỉ thị này, cần làm những việc sau:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

chính sự nghiệp. Các loại hình cơ sở khác căn cứ vào quy chế của ba loại cơ sở
trên để vận dụng thích hợp.


+ Trước mắt có thể ban hành các quy chế nói trên dưới hình thức nghị định của
Chính phủ, qua một thời gian thực hiện sẽ rút kinh nghiệm, hoàn chỉnh các quy
chế và xem xét việc nâng lên thành pháp lệnh hoặc luật.


+ Các tỉnh uỷ, thành uỷ tổ chức quán triệt Chỉ thị này và các thiết chế dân chủ
cơ sở do Nhà nước ban hành cho các đảng bộ cơ sở, có kế hoạch triển khai thực
hiện và đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện ở địa phương.



Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố có thể có thêm những quy định chi tiết sát
với đặc điểm tình hình của các loại cơ sở trong địa phương và phù hợp với
những quy định trong quy chế dân chủ cơ sở do Nhà nước ban hành.


+ Các bộ, các chính quyền tỉnh, thnh phố cần rà sốt, điều chỉnh, bổ sung những
quy định hiện hành cho phù hợp với quy chế dn chủ cơ sở như về: các thủ tục
hành chính, quy chế làm việc của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân xã, quy
chế về trưởng thôn, quy chế tiếp dân, giải quyết đơn thư của dân, hướng dẫn xây
dựng hương ước, quy ước làng văn hoá, v.v..


Nghin cứu sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức hội đồng nhân dân và uỷ ban nhn dn
theo tinh thần Chỉ thị này.


+ Phải kiện toàn đảng bộ và chính quyền cơ sở trong sạch, vững mạnh để tự giác
và nghiêm túc thực hiện Chỉ thị này. Mặt khác, qua việc thực hiện dân chủ ở cơ
sở mà sàng lọc, chỉnh đốn tổ chức đảng và chính quyền trong sạch, vững mạnh.
+ Mặt trận và các đoàn thể nhân dân tuêyn truyền, giáo dục rộng rãi trong hội
viên, đoàn viên và nhân dân Chỉ thị này và các quy chế dân chủ ở cơ sở. Làm
cho mọi người hiểu v sử dụng đúng các quyền của mình đ quy định trong quy
chế dn chủ ở cơ sở, đồng thời chấp hành đầy đủ trch nhiệm, nghĩa vụ công dân.
Mặt trận và các đồn thể phối hợp với chính quyền trong việc thực hiện v gim st
thực hiện cc quy chế dân chủ ở cơ sở.


+ Các ban của Trung ương Đảng có trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện trên
những lĩnh vực và ở những ngành được phân công theo di.


+ Các đồng chí Uỷ viên Trung ương, các Ban Thường vụ tỉnh uỷ, thnh uỷ, đảng
uỷ trực thuộc Trung ương, các ban cán sự đảng, đảng đoàn trực tiếp chỉ đạo thực
hiện Chỉ thị này trong phạm vi mình phụ trách và định kỳ báo cáo kết quả với
Bộ Chính trị.



Để phát huy dân chủ, khắc phục những hạn chế, nâng cao chất lượng họp lệ kỳ
của Tổ nhân dân tự quản (Tổ dân phố, chi đoàn, chi hội, cơng đồn) cần :


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

đảng bộ, chi bộ, trước hết là đổi mới việc ra nghị quyết và chỉ đạo thực hiện các
nghị quyết của Đảng; đa dạng hóa các nội dung sinh hoạt của các tổ chức cơ sở
đảng. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện nghiêm túc nguyên tắc
tập trung dân chủ và quy chế làm việc; tăng cường công tác giáo dục rèn luyện
nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở.


<i>Hai là, đối với chính quyền cơ sở xã, phường, thị trấn, cần có mơ hình tổ</i>
chức hợp lý, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Không tổ chức HĐND ở
phường theo kết quả thực hiện thí điểm ở 10 tỉnh, thành phố trong cả nước; đồng
thời, xác định rõ mơ hình chính quyền đơ thị và chính quyền nơng thơn đối với
xã, phường, thị trấn để có cơ chế quản lý phù hợp với đối tượng quản lý. Phát
huy mạnh mẽ vai trị của cơ quan hành chính trong việc mở rộng và thực hiện tốt
quy chế dân chủ ở cơ sở, cụ thể hoá phương châm dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra. Mọi hoạt động của cơ quan hành chính ở cơ sở phải hướng vào
mục tiêu phục vụ dân; giải quyết đúng đắn và nhanh chóng các cơng việc có liên
quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân. Giáo dục cán bộ, công chức cơ sở có
phong cách "trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân",
"nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin". Phát huy vai trị tự quản trong cộng
đồng dân cư của tổ chức thôn, buôn, khu phố.


<i>Ba là, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt</i>
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng mở rộng, đa dạng hố các hình
thức tập hợp quần chúng nhân dân, đáp ứng yêu cầu và chăm lo lợi ích thiết
thực, chính đáng và hợp pháp của nhân dân. Pht huy vai trị tham gia xây dựng
chính quyền, gim st cc hoạt động của chính quyền, nhất là đối với các phường
không tổ chức HĐND; nâng cao chất lượng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ


quốc và các tổ chức thành viên. Mở rộng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
đi đôi với giữ vững kỷ cương, kỷ luật. Có cơ chế để nhân dân tham gia, giám sát
các hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân
một cách thiết thực; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, nhất là ở những nơi
có đơng đồng bào có đạo, đồng bào dân tộc ít người. Tập trung xây dựng, hồn
thiện hệ thống quy chế, quy định và làm rõ mối quan hệ giữa các tổ chức trong
hệ thống chính trị ở cơ sở. Đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Toàn dân đồn
kết xây dựng đời sống văn hố ở khu dân cư”, kịp thời giải quyết những vướng
mắc phát sinh trong nội bộ nhân dân, không để những mâu thuẫn nhỏ tích tụ lâu
ngày trở thành “điểm nóng”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Năm là, đối với những cơ sở yếu kém, phức tạp, có biểu hiện vi phạm
quyền làm chủ của nhân dân và có nhiều đơn thư, khiếu nại, tố cáo hoặc có diễn
biến phức tạp về chính trị - xã hội, cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể cần theo di, nắm chắc mọi diễn biến để đánh giá đúng tình hình; tiến
hnh thanh tra, kiểm tra, kết luận rõ đúng, sai và xử lý nghim những cán bộ, đảng
viên sai phạm, đồng thời có giải pháp cụ thể, thiết thực để sửa chữa, khắc phục,
tạo sự thống nhất trong nhận thức, hành động ở các tổ chức cơ sở đảng và cộng
đồng dân cư; kịp thời giải quyết những kiến nghị chính đáng của nhân dân.
<i> Sáu là, tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật hiện đại cho hoạt động</i>
của hệ thống chính trị cơ sở, nhất là đảm bảo các điều kiện làm việc cho bộ phận
“một cửa” theo chủ trương cải cách hành chính của Chính phủ giai đoạn
2011-2020, nhằm đáp ứng với tình hình nhiệm vụ của thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại
hoá và hội nhập quốc tế


5. Anh (chị) hãy giới thiệu về một tấm gương hoặc mơ hình điển hình về "Dân
vận khéo" ở khu dân cư (cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp) trên địa bàn tỉnh Tiền
Giang mà mình biết (bài viết có độ dài khoảng 800 đến 1500 từ, là mẫu chuyện
<i>có thật).</i>



<b>Trả lời :</b>


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém
thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành cơng". Chính vì vậy,
dân vận khéo đã trở thành chìa khóa thành cơng trong cơng tác vận động quần
chúng nhân dân xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Những năm qua, trong
phong trào thi đua "Dân vận khéo", Tiền Giang đã xuất hiện nhiều mơ hình, điển
hình tiêu biểu.


Với quan điểm "Gần dân, hiểu dân, trọng dân, có trách nhiệm với dân",
điển hình thực hiện tốt công tác dân vận khéo trong phong trào xây dựng nông
thôn mới là Chi bộ Ấp Mỹ Lương, xã Mỹ Phong, TP. Mỹ Tho. Ơng Nguyễn
Văn Trang, Bí thư Chi bộ ấp Mỹ Lương cho biết: Nhờ biết vận dụng phong cách
dân vận của Bác vào thực tiễn của địa phương, nên trong thời gian ngắn, ấp đã
vận động nhân dân xây dựng được 7 tuyến đường, với tổng chiều dài 3,2 km,
kinh phí 3,2 tỷ đồng, trong đó nhân dân đóng góp hơn 600 triệu đồng và hiến
trên 200 m2<sub> đất.</sub>


Tương tự, mơ hình "Phân loại, xử lý rác thải hộ gia đình - Bảo vệ mơi trường,
xây dựng cảnh quan: sáng, xanh, sạch, đẹp khu dân cư" tại khu phố 4, thị trấn
Vĩnh Bình, huyện Gị Cơng Tây là một điển hình trong phong trào thi đua dân
vận khéo, mơ hình này đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao nhận thức,
thay đổi hành vi theo hướng tích cực của nhân dân và cán bộ trong bảo vệ môi
trường.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

thế mạnh của các đồn thể giáo dục, vận động thành viên tích cực thực hiện các
chủ trương của Đảng, Nhà nước, trong đó có nhiệm vụ bảo vệ mơi trường.


Tân Phú Đơng là huyện cù lao nghèo của tỉnh, trước những khó khăn của huyện
mới thành lập, Ban Dân vận Huyện ủy tập trung lãnh đạo hệ thống dân vận, Mặt


trận các ban ngành, đoàn thể từ huyện đến cơ sở, đẩy mạnh thực hiện các phong
trào thi đua "Dân vận khéo", "Dân vận chính quyền", quy chế dân chủ ở cơ sở,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, vai trò tham mưu của
các cấp ủy Đảng được nâng lên, vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp,
sự quản lý điều hành của hệ thống chính quyền phát huy hiệu quả, tạo được lòng
tin của nhân dân.


Ông Võ Văn Thuận, Trưởng Ban Dân vận huyện cho biết, với hiệu quả của công
tác dân vận, nhân dân đã tự nguyện hiến hơn 394.000 m2<sub> đất và các loại cây ăn</sub>


trái, hoa màu khác, trị giá hơn 41 tỷ đồng, để góp phần xây dựng các cơng trình
phúc lợi, thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2010 là
53% đến giai đoạn này giảm xuống cịn 23,7%, giảm hơn 3.100 hộ.


Ngồi ra, trong phong trào thi đua dân vận khéo còn xuất hiện nhiều mơ hình
hiệu quả: Thùng rác compost ở xã Bình Nghị (huyện Gị Cơng Đơng), "5 khơng,
3 sạch", "Câu lạc bộ bảo vệ môi trường" ở xã Long Hưng (huyện Châu Thành);
các mơ hình tuyến đường thanh niên tự quản,... nhìn chung, mỗi ban, ngành,
đồn thể đều xây dựng những mơ hình riêng, để nâng cao hiệu quả hoạt động,
mang lại lợi ích cho nhân dân.


Có thể nói, trong q trình thực hiện, các mơ hình, điển hình "Dân vận khéo" đã
huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị ở cơ sở, đồng thời
kết hợp đồng bộ giữa công tác dân vận với hoạt động quản lý, điều hành của
chính quyền, cụ thể hóa chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, từng
bước tìm ra những biện pháp hiệu quả, để giải quyết nhu cầu và nguyện vọng
chính đáng của nhân dân. Thơng qua phong trào "Dân vận khéo" đã đổi mới
phương thức lãnh đạo, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
Đảng, tạo sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân



</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23></div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×