Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ ĐẢNG bộ TỈNH hà NAM LÃNH đạo CÔNG tác dân vận từ năm 2005 đến 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.37 KB, 98 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
An ninh nhân dân

Chữ viết tắt
ANND

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH, HĐH

Chỉ huy quân sự
Chủ nghĩa xã hội
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Hội đồng nhân dân

CHQSG
CNXH
ĐLDT và CNXH
HĐND

Hệ thống chính trị
Kinh tế - xã hội
Lực lượng vũ trang

HTCT
KT - XH
LLVT

Mặt trận Tổ quốc
Quốc phòng toàn dân



MTTQ
QPTD

Quốc phòng và an ninh
Quy chế dân chủ

QP - AN
QCDC

Trong sạch vững mạnh

TSVM

Ủy ban nhân dân

UBND


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1

3
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG
BỘ TỈNH HÀ NAM VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN

1.1.
1.2.


TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2015
Yêu cầu khách quan đối với công tác dân vận của

9

Đảng bộ tỉnh Hà Nam

9

Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Nam về công tác
dân vận

1.3.
Chương 2
2.1.

2.2.

Sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Nam về công tác dân
vận
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
Nhận xét quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Nam lãnh đạo
công tác dân vận từ năm 2005 đến năm 2015
Một số kinh nghiệm

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


21
33
44
44
65
85
87
92

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân vận là sức mạnh xây dựng, bảo vệ đất nước, nguồn động lực cho
sự phát triển. Bàn về công tác dân vận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lực
lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng
kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công” [56, tr.700]. Thấm nhuần tư
tưởng Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn coi
trọng công tác vận động quần chúng: “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ
đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh…)
đều làm công tác dân vận” [56, tr.699]. Công tác dân vận là một nhiệm vụ chiến
lược cách mạng, nguồn sức mạnh của Đảng, thể hiện sự gắn bó chặt chẽ giữa
Đảng với nhân dân, đó là vấn đề có ý nghĩa sống còn của Đảng và toàn dân tộc.
Hiện nay, đất nước đang tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ công bằng, văn minh. Công tác dân vận ngày càng cấp thiết hơn, trở
thành nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp đổi mới và xây dựng
chủ nghĩa xã hội, gắn bó mật thiết với chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc
với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới nâng cao chất lượng hệ

thống chính trị, góp phần tạo động lực đưa đất nước vững bước tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Là một tỉnh có vị trí chiến lược đối với cả nước, trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, Đảng bộ tỉnh Hà Nam đã quán
triệt chủ trương, chính sách công tác dân vận của Đảng và Nhà nước, từng
bước nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận, tạo sự gắn bó tin tưởng
giữa dân với Đảng và chính quyền, động viên nhân dân ra sức thực hiện thắng
lợi các mục tiêu, nhiệm vụ KT-XH, quốc phòng và an ninh của tỉnh; góp phần
quan trọng đưa Hà Nam trở thành tỉnh trọng điểm của đồng bằng Bắc Bộ có
sự phát triển toàn diện về kinh tế, vững mạnh về QP-AN và ổn định trật tự an
toàn xã hội. Trước năm 2005, công tác dân vận của Đảng bộ tỉnh Hà Nam có
nhiều ưu điểm trong phát triển KT-XH, góp phần giữ vững ổn định an ninh
chính trị của địa phương và cả nước. Tuy nhiên, còn nhiều hạn chế, yếu kém
trong nhận thức hoạch định chủ trương và chỉ đạo tổ chức thực hiện.
3


Thời kỳ mới đã đặt ra yêu cầu bức thiết đối với công tác dân vận của cả
nước trong xây dựng, phát huy nguồn động lực, đảm bảo đà tăng tưởng nhanh và
phát triển bền vững. Song, những năm (2005-2015), công tác dân vận của tỉnh Hà
Nam vẫn còn một số hạn chế, bất cập, ảnh hưởng đến hiệu quả phát triển KT-XH,
tình hình an ninh chính trị. Hiệu quả, hiệu lực công tác dân vận của các cấp ủy
đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội có mặt còn
thấp. Lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân có nơi, có thời điểm chưa quan
tâm đúng mức: Chưa tập trung giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu kiện kéo dài
trong quy hoạch, đền bù giải phóng mặt bằng, ô nhiễm môi trường, giải quyết chế
độ chính sách đối với người có công còn bất cập, chuyển đổi cơ cấu kinh tế cũng
như đề ra các cơ chế, chính sách chưa hợp lý trong đời sống xã hội. Những bất cập,
hạn chế đó đã tác động tiêu cực đến việc phát huy nội lực nhân dân và sự ổn định,
phát triển của địa phương; ảnh hưởng không nhỏ đến công tác xây dựng Đảng bộ,
chính quyền các cấp và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội ở Hà Nam.

Nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Nam lãnh đạo công tác dân vận từ năm
2005 đến năm 2015 nhằm làm rõ chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng và Đảng bộ tỉnh về
công tác dân vận; nhất là vai trò, hiệu quả công tác dân vận của chính quyền, rút ra
những kinh nghiệm có giá trị tham khảo và vận dụng trong thời gian tới là hết sức cần
thiết. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn “Đảng bộ tỉnh Hà Nam lãnh đạo công tác
dân vận từ năm 2005 đến năm 2015 ” làm đề tài luận văn Cao học chuyên
ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Công tác dân vận là một chủ trương chiến lược của Đảng, Nhà nước
nhằm tập hợp giáo dục, phát huy vai trò quần chúng trong sự nghiệp cách
mạng trước đây và trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay,
vấn đề đang được được các cơ quan, nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Tiêu
biểu là các nhóm công trình khoa học sau:
- Nhóm công trình nghiên cứu về công tác dân vận của Đảng
Trong đó, tác giả Nguyễn Văn Linh với bài viết “Đổi mới nội dung,
phương thức vận động quần chúng”, Tạp chí Dân vận, số 8/2006; trên tinh thần
quán triệt Nghị quyết TW 8B (Khóa VI) “về tăng cường công tác vận động
quần chúng của Đảng” đã làm rõ vị trí, vai trò của công tác dân vận và đổi mới
4


công tác dân vận cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Nguyễn Thị Ngọc Mai,
Công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình thực hiện
đường lối đổi mới (1986-1996), luận văn Thạc sĩ Lịch sử Đảng, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002; đã đề cập sâu sắc thực tiễn
công tác dân vận của Đảng thông qua chủ trương, mục tiêu nhiệm vụ và giải
pháp trong mười năm đầu thực hiện đường lối đổi mới.
Ngoài ra, còn có nhiều công trình nghiên cứu về công tác dân vận của Đảng,
như: Đỗ Mười (1991), Xây dựng Nhà nước của dân, thành tựu, kinh nghiệm, đổi
mới, Nxb Sự thật, Hà Nội; PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc (2000), Tăng cường

đoàn kết dân tộc phát huy sức mạnh của toàn dân trong sự nghiệp đổi mới, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Hồng Quân (2010), Đảng lãnh đạo tăng
cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân từ năm 1986 đến năm 1996, luận văn
Thạc sĩ Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị, Hà Nội; Vũ Oanh (1996), Đổi mới
công tác dân vận của Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội; PGS, TS Đoàn Ngọc Hải (2003), Quán triệt quan điểm của
Đảng về xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn
mới, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, số 4; Nam Yên (2009), “Tư cách,
cách ứng xử của cán bộ làm công tác dân vận”, Tạp chí Dân vận, số 4; Ban biên
tập (2015), “Đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết và các quyết định của Bộ chính trị về
công tác dân vận”, Tạp chí Dân vận, số 3; Vũ Hùng (2005), Dân và mối quan hệ
giữa Đảng cầm quyền với dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh, luận án Tiến sĩ Xây
dựng Đảng, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội.
Những công trình trên đã đề cập đến nội dung công tác dân vận của Đảng,
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể một cách khái quát. Chỉ ra sự
cần thiết phải đổi mới công tác vận động nhân dân trong công cuộc đổi mới,
làm rõ phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp thực hiện công tác dân
vận. Có một số công trình bước đầu tổng kết, đúc rút kinh nghiệm công tác dân
vận đối với hệ thống chính trị.
- Nhóm công trình nghiên cứu về công tác dân vận ở các địa phương
Nguyễn Mậu Linh (2003), Đảng bộ tỉnh Đắc Lắc lãnh đạo công tác
dân vận (1986 - 2002), luận văn Thạc sĩ Lịch sử Đảng, Học viện Chính
5


trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Văn Nhang (2003), Đảng bộ tỉnh Hải
Dương lãnh đạo công tác dân vận từ năm 1997 đến năm 2003, luận văn
Thạc sĩ Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội; Bế Văn Hữu
(2008), Công tác vận động quần chúng của Đảng bộ tỉnh Cao Bằng từ
năm 1996 đến năm 2005, luận văn Thạc sĩ Lịch sử Đảng, Học viện

Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Các công trình khoa học này đã đề cập đến những vấn đề chung nhất về
công tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ở một số
địa phương. Từ thực tiễn, phát huy sức mạnh công tác này, góp phần thực
hiện thắng lợi các mục tiêu KT-XH.
- Nhóm công trình nghiên cứu về công tác dân vận ở Hà Nam
Tiêu biểu là: Hà Nam thế và lực mới trong thế kỷ XXI, Nxb CTQG, Hà
Nội, 2005, của tác giả Chu Viết Tuấn, đã đề cập tương đối toàn diện những
nhân tố thúc đẩy quá trình phát triển KT-XH của tỉnh Hà Nam trong quá trình
hội nhập và phát triển, làm nổi bật vai trò con người và truyền thống địa
phương; Quốc Đoàn (2009), “Một số kinh nghiệm bước đầu xây dựng phong
trào thi đua dân vận khéo ở Hà Nam”, Tạp chí Dân vận, số 9, đã đánh giá sơ
bộ thực tiễn xây dựng phong trào thi đua “Dân vận khéo” trong năm dân vận
chính quyền, chỉ ra những kinh nghiệm có giá trị vận dụng. Đặc biệt, Mai
Tiến Dũng với bài viết “Hà Nam thực hiện tốt công tác dân vận của chính
quyền, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh”, Tạp chí Cộng sản, số
8/2014, khẳng định vị trí then chốt, quyết định công tác dân vận của các cấp
chính quyền trong xây dựng Hà Nam giàu mạnh.
Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu như: Ngô Xuân Các (Chủ
biên), (2005), Văn hóa Hà Nam trong thời kỳ đổi mới, Nxb VHTT, Hà Nội;
Đàm Thị Mai (Chủ biên), (2001), Những giá trị văn hóa tinh hoa đặc sắc
của Hà Nam; Nxb Hội nhà văn, Hà Nội; Nguyễn Trung Dung, Đào Ngọc
Đảm (2009), “Công tác tiếp dân ở Hà Nam”, Tạp chí Kiểm tra, số 10.
Các công trình nghiên cứu nêu trên là tài liệu chuyên khảo đánh giá công
tác dân vận dưới góc độ và phạm vi hẹp, chưa làm rõ sự lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh Hà Nam đối với công tác dân vận. Tuy nhiên, các công trình, đề tài địa
6


phương đã nêu lên nét đặc thù về phong tục tập quán, văn hoá, tín ngưỡng của

người dân Hà Nam, cơ sở để tiến hành công tác vận động quần chúng tốt hơn.
Tổng thể những công trình, đề tài, bài viết trên đã đề cập nhiều vấn đề
khác nhau về công tác dân vận của Đảng, của một số địa phương và ở Hà
Nam. Song, chưa có công trình và tác giả nào nghiên cứu một cách toàn diện
và cụ thể dưới góc độ chuyên ngành lịch sử Đảng về đề tài “Đảng bộ tỉnh
Hà Nam lãnh đạo công tác dân vận từ năm 2005 đến năm 2015”. Nhưng,
những công trình của các tác giả trên là những tài liệu quý, tác giả có thể
tham khảo kế thừa trong quá trình thực hiện luận văn của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Nam lãnh đạo công tác dân vận
từ năm 2005 đến năm 2015, qua đó rút ra một số kinh nghiệm để vận dụng
vào công tác vận động nhân dân trong thời gian tới đạt hiệu quả cao hơn.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ yêu cầu khách quan đối với công tác dân vận của Đảng bộ tỉnh
Hà Nam từ năm 2005 đến năm 2015.
- Phân tích, luận giải làm rõ chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Nam
về công tác dân vận ( 2005 - 2015). Đánh giá thành tựu, hạn chế, nguyên nhân.
- Rút ra nhận xét và một số kinh nghiệm từ qúa trình Đảng bộ tỉnh Hà Nam
lãnh đạo công tác dân vận trong những năm (2005 - 2015)
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Nam về công tác dân vận.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung nghiên cứu: Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hà
Nam về công tác dân vận, tập trung làm rõ công tác dân vận của các cấp ủy
đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội ở địa phương.
- Về thời gian từ năm 2005 đến năm 2015. Tuy nhiên, luận văn cũng đề cập
đến một số vấn đề liên quan đến thời gian trước năm 2005 và sau năm 2015.
- Về không gian nghiên cứu: Trên địa bàn tỉnh Hà Nam.

7


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử và phương pháp luận sử học Mác xít để làm rõ nội dung của
đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic và sự kết hợp hai
phương pháp đó là chủ yếu. Đồng thời kết hợp với một số phương pháp khác
như phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu…
6. Ý nghĩa của đề tài
- Đề tài góp phần hệ thống hoá quan điểm, chủ trương và sự chỉ đạo của
Đảng, của Đảng bộ tỉnh Hà Nam về công tác dân vận trong những năm (2005 2015); đúc rút kinh nghiệm vận dụng vào thực tiễn.
- Góp phần tổng kết sự lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận từ cơ sở;
cung cấp những luận cứ khoa học cho việc xây dựng chủ trương, chỉ đạo của
các cấp về công tác dân vận trong thời kỳ đổi mới.
- Luận văn là tài liệu tham khảo cho nghiên cứu, giảng dạy Lịch sử Đảng ở
các Học viện, Nhà trường trong và ngoài Quân đội. Đồng thời, luận văn có thể là tài
liệu tham khảo cho các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội tỉnh Hà Nam trong lãnh đạo, thực hiện công tác dân vận.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: Mở đầu, 2 chương (5 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.

8


Chương 1

CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ NAM
VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2015
1.1. Yêu cầu khách quan đối với công tác dân vận của Đảng bộ tỉnh Hà
Nam
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội của tỉnh Hà Nam tác động
đến công tác dân vận
Hà Nam, nằm ở phía Tây Nam châu thổ Sông Hồng, cửa ngõ phía Nam Thủ
đô Hà Nội, phía Bắc giáp tỉnh Hưng Yên, phía Đông giáp tỉnh Thái Bình, phía Nam
giáp tỉnh Nam Định, phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Hoà Bình, Ninh Bình, có lợi thế
trong vùng trọng điểm phát triển kinh tế Bắc Bộ; có hệ thống giao thông thuận lợi,
nằm trên trục giao thông quan trọng xuyên Bắc Nam. Trên địa bàn tỉnh có đường sắt
Bắc - Nam, Quốc lộ 1A, Quốc lộ 21B và Quốc lộ 38. Do vậy, Hà Nam thuận lợi
trong phát triển, giao lưu kinh tế, văn hóa - xã hội, khoa học - kỹ thuật với các tỉnh
trong vùng và cả nước. Là tỉnh nông nghiệp, địa hình đa dạng, chủ yếu là
vùng đồng bằng chiêm trũng, vùng đồi núi và nửa đồi núi, có nguồn tài
nguyên đá vôi trữ lượng lớn ở hai huyện Kim Bảng và Thanh Liêm; ngoài
sông Hồng, còn có hai con sông lớn chảy qua là sông Đáy và sông Châu
Giang thường gây ra xói lở, lũ lụt. Yếu tố tự nhiên này đã phân hóa mức
thu nhập các vùng, ảnh hưởng lớn đến tâm lý và đời sống nhân dân trong
phát triển KT-XH và tạo ra nhiều tình huống khó khăn phức tạp cho công
tác dân vận của Đảng bộ, chính quyền các cấp trong giữ vững ổn định
chính trị xã hội, sự đồng thuận, đoàn kết, tương trợ của nhân dân.
Tỉnh Hà Nam được tái lập từ 01.01.1997, có vị trí chiến lược quan
trọng về KT-XH và QP-AN ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ cũng như cả nước.
Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 860,2 km 2, dân số trung bình 834,1 nghìn
người với 5 huyện và 1 thành phố; mật độ dân số trung bình 961 người/ km 2..
Điểm nổi bật của Hà Nam là hệ thống giao thông thuận lợi; có nhiều khu công
nghiệp, cơ sở đào tạo và công trình phục vụ dân sinh quy mô lớn [65, tr.1]. Diện
tích đất nông nghiệp tương đối lớn phù hợp cho sản xuất nông nghiệp và nuôi
trồng thuỷ sản; ngoài ra Hà Nam còn có trữ lượng đá vôi lớn phù hợp cho việc

9


sản xuất vật liệu xây dựng. Các khu du lịch kinh tế mở Tam Chúc - Ba Sao, khu
công nghiệp Đồng Văn, Châu Sơn, Đại Cương, Tây sông Đáy và một số Trường
Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề đóng trên địa bàn
tỉnh đã đóng góp tích cực vào quá trình phát triển KT-XH của tỉnh. Những
năm gần đây, đầu tư phát triển và xây dựng cơ bản trong tỉnh đạt kết quả cao,
có nhiều công trình mang ý nghĩa xã hội và phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế,
văn hóa xã hội, QP-AN như, Khu Liên hợp Thể thao, công trình Bệnh viện Đa
khoa Phủ Lý, Bệnh viện Mắt, Lão khoa Hà Nam, cơ sở 2 của Bệnh viện Việt Đức,
Bạch Mai đang xây dựng với trên 2000 giường bệnh; đẩy nhanh tiến độ xây dựng
Đại học Nam Cao, giải phóng mặt bằng của Học viện An ninh nhân dân, Trường
Đại học Phòng cháy chữa cháy, Trường Trung học Cảnh sát Nhân dân số 6. Nhiều
công trình lớn đã hoàn thành trong giai đoạn (2013-2015): Nhà thi đấu đa năng và
các công trình phụ trợ thuộc Khu liên hợp Thể dục thể thao, Quốc lộ 21A mới,
cầu Châu Giang, Phù Vân, trạm bơm Kim Thanh II [65, tr.3]. Song, mặt trái sự
phát triển nhanh cơ sở hạ tầng là sự mất ổn định trật tự an toàn địa bàn, do xáo
trộn đời sống bộ phận nhân dân nằm trong diện giãn dân, đền bù đất canh tác. Vấn
đề đó đòi hỏi tính năng động, nhạy cảm của HTCT, nhất là các cấp chính quyền
trong công tác vận động nhân dân.
Trong công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập và phát triển sâu
rộng, KT-XH của tỉnh đã có bước chuyển biến lớn. Tốc độ tăng trưởng kinh
tế bình quân 5 năm (2005-2010) là 13%, giai đoạn (2011-2015) là 12,9%. Cơ
cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp; năm
2014, tỉ trọng công nghiệp - xây dựng trong cơ cấu GDP chiếm 54,7%; dịch vụ:
30,8%, nông lâm nghiệp, thủy sản giảm còn 14,5%. Thu cân đối ngân sách của
Hà Nam liên tục tăng cao qua từng năm, năm 2014 đạt trên 3070 tỷ đồng vượt
mục tiêu Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu
đạt 1.180,08 triệu USD. Đến hết năm 2014, tỉ lệ hộ nghèo giảm còn 5%. Thu

nhập bình quân đầu người hiện nay đạt 35,73 triệu đồng, thu ngân sách đạt
2850 tỷ đồng. Đời sống nhân dân được nâng lên, bộ mặt đô thị, nông thôn đổi
mới, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định; Chương trình xây dựng
nông thôn mới được triển khai với hiệu quả cao, năm 2014 có 18 xã trong tỉnh
10


đạt tiêu chí nông thôn mới. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế ở Hà Nam tính ổn
định chưa đảm bảo, chưa khai thác hiệu quả các nguồn lực để tạo bước đột
phá kinh tế, sự phân hoá giàu nghèo và chênh lệch trình độ dân cư còn cao.
Dân số Hà Nam phân bố không đều trên địa bàn. Tỷ lệ tăng dân số của
tỉnh tương đối nhanh; sự di dân tập trung nhiều ở các thành phố, thị trấn, khu công
nghiệp nên gây phức tạp tình hình. Trong tỉnh có 3 tôn giáo: Công giáo, Tin lành,
Phật giáo; tính đến ngày 31.12.2014 toàn tỉnh có trên 20 vạn tín đồ tôn giáo,
chiếm 26 % tổng dân số; có 379 chức sắc các tôn giáo, 762 cơ sở thờ tự tôn giáo
(530 chùa, 224 nhà thờ, 07 nhà nguyện, 09 nhà dòng đạo công giáo, 01 nhà thờ
đạo tin lành) [14, tr.1], tín đồ Công giáo đang gia tăng, nguyên nhân một số nhà
thờ bị hư hỏng trong chiến tranh nay được xây dựng lại và sự chuyển về của tín
đồ từ các địa phương khác. Hoạt động tôn giáo, nhìn chung tuân thủ pháp luật;
quan hệ giữa tổ chức, cá nhân tôn giáo đối với hệ thống chính trị ở các cấp tiếp
tục thay đổi theo hướng tích cực. Song, trong các sinh hoạt tôn giáo của các tôn
giáo ở một số nơi trên địa bàn còn có biểu hiện vi phạm, có thời điểm phức tạp
gây khó khăn cho tỉnh trên phương diện thực hiện chính sách tôn giáo, an ninh,
chính trị. Đó là việc gây sức ép đòi xây dựng lại nhà thờ, đòi đất cho nhà chùa,
truyền đạo trái quy định, có chức sắc tôn giáo tư tưởng cực đoan bảo thủ xúi
giục tín đồ gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân. Vì vậy, vận động đồng bào có
đạo là một khâu rất quan trọng trong công tác dân vận của tỉnh Hà Nam.
Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH tích cực chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, nền văn hoá của tỉnh Hà Nam càng phong phú đa dạng và được phát huy
theo hướng tích cực nằm trong tính thống nhất của văn hoá Việt Nam. Những giá

trị truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp, những thiết chế xã hội cổ truyền được
giữ vững và phát huy. Song, bên cạnh những yếu tố tích cực đó thì nhiều yếu tố
lạc hậu về văn hoá xã hội ở một số địa phương có xu hướng phục hồi. Cần có sự
nhậy bén của công tác dân vận trong gạn đục, khơi trong nền văn hóa.
Với thế mạnh về kinh tế, chính trị xã hội, về tài nguyên: Đất đai, rừng,
khoáng sản, Hà Nam thực sự là địa phương giàu tiềm năng có nhiều lợi thế đã
và đang được khai thác phục vụ cho việc phát triển KT-XH. Tuy nhiên, tình
hình an ninh chính trị ở một số địa phương trong một số thời điểm còn có sự
11


bất ổn: Do cách thức tổ chức việc đền bù, giải phóng mặt bằng chưa hợp lý;
còn bất cập trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nắm chưa chắc đặc điểm tâm lý
nhân dân, chưa phối hợp đồng bộ giữa cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp
trong công tác vận động quần chúng. Một số cấp uỷ, chính quyền có thời
điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân vận còn thiếu tập trung, còn có biểu
hiện né tránh. Sự phối hợp giữa các cấp ngành ở cơ sở trong xử lý những vấn
đề nổi cộm, phát sinh chưa kịp thời và hiệu quả còn hạn chế. Vấn đề này ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống của nhân dân, là yếu tố gây trở ngại làm phức
tạp thêm việc lãnh đạo công tác dân vận của Đảng bộ các cấp trong tỉnh.
Trên đây là những nét rất cơ bản về điều kiện tự nhiên, KT-XH đã và đang
ảnh hưởng trực tiếp tới công tác dân vận ở Hà Nam, công tác xây dựng Đảng,
chính quyền, MTTQ và đoàn thể chính trị xã hội; đến tình hình chính trị, trật
tự an toàn xã hội trên địa bàn. Những đặc điểm trên cần được tính đến trong quá
trình lãnh đạo, quản lý nói chung và công tác dân vận ở Hà Nam nói riêng trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập, phát triển sâu rộng.
1.1.2. Thực trạng công tác dân vận ở Hà Nam trước năm 2005
Công tác dân vận là một cơ chế thực thi quyền lực của nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng, có vai trò, vị trí rất quan trọng liên quan đến sự thành bại của
cách mạng, của Đảng cầm quyền. Nhưng trong thực tế công tác đó không phải bao

giờ cũng được mọi ngành, mọi cấp, mọi cán bộ đảng viên quan tâm đúng mức. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc nhở: “Vấn đề dân vận nói đã nhiều, bàn đã kỹ
nhưng vì nhiều địa phương, nhiều cán bộ hiểu chưa thấu, làm chưa đúng, cho nên
cần phải nhắc lại” [56, tr.698]. Người đã kịch liệt phê phán thái độ coi thường công
tác dân vận. Công tác dân vận làm không tốt sẽ không tạo được sự đồng thuận cao
trong nhân dân, hạn chế trong huy động nội lực thực hiện nhiệm vụ chính trị, mất
ổn định an ninh, chính trị, xã hội ở cơ sở trong một thời gian nhất định. Không làm
tốt công tác dân vận, thì không thể phát triển KT-XH và giữ vững ổn định tình hình
chính trị, trật tự an toàn xã hội, nhất là không đảm bảo chắc chắn sự lãnh đạo của
Đảng trong sự nghiệp Xây dựng và Bảo vệ Tổ quốc.
Trước năm 2005, công tác dân vận ở Hà Nam có những ưu điểm, hạn
chế như sau:
12


Về ưu điểm:
Đánh giá khái quát, trước năm 2005 các chủ thể dân vận trong HTCT,
dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh đã đạt được ưu điểm: “Hệ thống dân vận
của Đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể nhân dân từ tỉnh đến cơ sở
được củng cố, kiện toàn, tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia”
[50, tr.43]. Trong đó:
Công tác dân vận của các cấp ủy đảng có hiệu ứng lan tỏa cao, góp
phần phát huy sức mạnh đại đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong tỉnh, thúc
đẩy phát triển KT-XH, tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng
với nhân dân.
Công tác dân vận của các cấp chính quyền và lực lượng vũ trang có
những bước chuyển biến và đạt được những kết quả tích cực nhất định. LLVT
trong tỉnh tích cực tham gia giúp dân phát triển KT-XH, xóa đói giảm nghèo;
xây dựng HTCT ở cơ sở; làm nòng cốt trong phòng chống và giúp dân khắc
phục hậu quả thiên tai; giữ gìn trật tự an toàn xã hội.

Công tác dân vận của MTTQ và các đoàn thể chính trị xã hội đã có sự
đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động. Công tác phối hợp giữa
MTTQ, các đoàn thể nhân dân và cơ quan chính quyền đã có sự chặt chẽ, hiệu
quả. MTTQ, các đoàn thể nhân dân làm tham mưu nòng cốt trong công tác
dân vận của HTCT, hướng các hoạt động về cơ sở, đẩy mạnh phong trào thi
đua yêu nước. Góp phần động viên các tầng lớp nhân dân hăng hái sản xuất,
kinh doanh làm giàu chính đáng, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, trên
cơ sở đó góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và
HTCT trong sạch vững mạnh.
Do làm tốt công tác dân vận, nên KT-XH có sự chuyển biến đáng kể,
đời sống nhân dân được cải thiện hơn, tình hình chính trị ổn định, trật tự an
toàn xã hội được giữ vững. Đại đa số nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của
cấp uỷ đảng và sự quản lý, điều hành của chính quyền các cấp; tích cực tham
gia, hưởng ứng các cuộc vận động mà Đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn
thể phát động. Công tác dân vận trước năm 2005 của tỉnh đã đạt được những
thành quả to lớn: Nhân dân tích cực phát triển KT-XH, QP-AN được giữ
13


vững, bộ mặt đô thị và nông thôn ngày càng đổi mới. Do vận động khéo, chỉ
ra lợi ích của việc phát triển kinh tế, các tầng lớp nhân dân trong tỉnh đã có sự
thay đổi nhanh về nếp nghĩ cách tính toán làm ăn có hiệu quả theo mô hình
kinh tế mới, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với thế mạnh từng địa bàn,
biết vận dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất ở các ngành
nghề. Ở Hà Nam trong những năm (2000-2004) “kinh tế phát triển toàn diện
với nhịp độ tăng trưởng nhanh”[50, tr.45]; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo
hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp; kết cấu
hạ tầng được quan tâm đầu tư, nhiều dự án quan trọng đã và đang được xây
dựng. Quá trình đổi mới theo hướng đa dạng hóa các hình thức sản xuất, kinh
doanh làm cho hoạt động kinh tế trong mỗi ngành, mỗi lĩnh vực trở nên sôi động,

các loại hình doanh nghiệp luôn phát triển trên tất cả các ngành, công-nông
nghiệp, lâm nghiệp và thương mại, dịch vụ. Kinh tế nông nghiệp chuyển dịch theo
hướng sản xuất hàng hóa, thuế từ công nghiệp đóng góp hơn 60% ngân sách của
tỉnh hàng năm. Các khu công nghiệp như Đồng Văn, Hoàng Đông, Tân Tạo, khu
đô thị Hòa Mạc và đào tạo nguồn nhân lực Hà Hoa Tiên, Phú Cường được đầu tư
xây dựng và bước đầu hoạt động có hiệu quả nhất định. Bộ mặt văn hóa xã hội có
sự khởi sắc đáng kể, nhân dân tích cực xây dựng nếp sống văn hoá, đẩy mạnh
hoạt động đền ơn đáp nghĩa. Thông qua đó tình thương yêu trách nhiệm trong các
tầng lớp nhân dân được nâng lên, các tệ nạn xã hội dần được ngăn chặn, đẩy lùi.
Các tầng lớp nhân dân trong tỉnh đã nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc xây
dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Nhờ sự cố gắng tích cực của
nhân dân, sự phối kết hợp giữa chính quyền, các đoàn thể với LLVT tình hình
chính trị, QP-AN, trật tự xã hội luôn được giữ vững.
Nhìn chung công tác dân vận của các cấp bộ Đảng, chính quyền, đoàn
thể trước năm 2005 đã có nhiều chuyển biến, nhưng có mặt chưa thực sự đáp
ứng được nhiệm vụ phát triển KT-XH, QP-AN của tỉnh, phương thức vận
động quần chúng ở một số địa phương chưa thật thích hợp, sức thu hút quần
chúng vào các phong trào hoạt động thực tiễn chưa thực sâu, mạnh mẽ. Bên
cạnh những ưu điểm về công tác dân vận của Đảng bộ tỉnh trước năm 2005
công tác dân vận tại tỉnh Hà Nam còn có những hạn chế như sau:
14


Về hạn chế:
Thứ nhất, nhận thức về công tác dân vận của một số cấp uỷ đảng, chính
quyền, MTTQ và các đoàn thể xã hội chưa thực sự sâu sắc, còn coi công tác
dân vận là công tác vận động quần chúng; trong tổ chức thực hiện ở một số
đơn vị cơ sở còn thiếu sự kiểm tra, đôn đốc thường xuyên. Một bộ phận cán bộ,
đảng viên còn xem nhẹ, thậm chí coi thường công tác dân vận. Có cấp uỷ chưa
quan tâm đổi mới sự lãnh đạo đối với công tác dân vận, chậm củng cố kiện toàn

Ban Dân vận, Mặt trận và các đoàn thể. Các cấp chính quyền còn chậm trong
ban hành một số cơ chế, chính sách, chưa kiến tạo lợi ích hợp pháp chính đáng
cho nhân dân; thực hiện cải cách hành chính còn chậm, hiệu quả chưa rõ nét [50,
tr.44], còn gây phiền hà cho nhân dân. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
chuyên trách làm công tác dân vận của tỉnh, huyện có mặt chưa được quan tâm
đúng mức.
Thứ hai, chưa có Quy chế về công tác dân vận, phân định chức năng
từng ngành, hiệu quả công tác dân vận của cán bộ chủ chốt các ngành còn hạn
chế; công tác dân vận của chính quyền chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ; chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát các chỉ thị, nghị quyết liên quan
đến công tác dân vận. Việc tổ chức, triển khai thực hiện Chỉ thị 18/2000/CTTTg, ngày 21/9/2000 của Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường công tác dân
vận của chính quyền các cấp” đạt hiệu quả thấp. Sự phối hợp hoạt động giữa
chính quyền với Mặt trận và đoàn thể nhân dân chưa thường xuyên [50,
tr.45], giữa các đơn vị trong khối dân vận tại một số nơi chưa được chặt chẽ,
chưa đồng bộ, chưa thống nhất, công tác bám nắm tình hình cơ sở chưa chắc.
Vì vậy, thực hiện chức năng tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương
về công tác vận động quần chúng nhận dân còn hạn chế. Mặt trận và các đoàn
thể đã có cố gắng trong việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động công
tác dân vận, nhưng còn mang tính hành chính (nặng vận động, ít quan tâm
đến lợi ích thiết thực của nhân dân); chưa đi sâu, đi sát và giải quyết kịp thời
những bức xúc của cơ sở.
Thứ ba, phong cách làm việc và trình độ nghiệp vụ dân vận của một số cán bộ
đảng viên trong HTCT các cấp chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra. Chức
15


năng giám sát của HĐND cấp xã, hiệu quả giám sát và phản biện xã hội của MTTQ,
các đoàn thể nhân dân đối với hoạt động của các cấp chính quyền còn hạn chế.
Những hạn chế nêu trên, có nguyên nhân khách quan và chủ quan,
nhưng chủ yếu là nguyên nhân chủ quan.

Một là, chưa nhanh nhạy trong nắm bắt đánh giá tình hình, nhận thức
chưa đầy đủ, sâu sắc tầm quan trọng của công tác vận động quần chúng, sắp
xếp, bố trí đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận chưa phù hợp.
Hai là, sự phối hợp giữa chính quyền và Mặt trận, đoàn thể ở cơ sở chưa thực
sự đồng bộ, hiệu quả hạn chế. Vai trò lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị
của một số cấp uỷ đảng, chính quyền còn máy móc, dập khuôn; thiếu tính sáng tạo,
chưa sát thực tế. Việc thực hiện theo chức năng các thành tố trong HTCT ở cơ sở có
thời điểm chưa đúng với quy chế, quy định.
Những hạn chế trên đây là những vấn đề cấp thiết đặt ra đòi hỏi Đảng bộ
tỉnh Hà Nam có sự đổi mới hơn nữa công tác dân vận những năm (2005-2015)
nhằm phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp đẩy mạnh
CNH, HĐH, hội nhập và phát triển sâu rộng đất nước.
1.1.3. Điều kiện mới và chủ trương của Đảng về công tác dân vận
những năm (2005 - 2015)
- Tình hình thế giới, trong nước
Hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn trên thế giới,
nhưng xung đột dân tộc và tôn giáo, tranh giành tài nguyên và lãnh thổ, nạn
khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia gia tăng. Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục
phát triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu hiện với những tác động tích
cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen rất phức tạp. Nền kinh tế tri thức
phát triển mạnh làm cho con người và tri thức càng trở thành nhân tố quyết
định sự phát triển của mỗi quốc gia. Do ảnh hưởng khủng hoảng tài chính kéo
dài, khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các nước ngày càng lớn đòi hỏi
các quốc gia, các tổ chức quốc tế phải phối hợp giải quyết. Cuộc đấu tranh
của nhân dân các nước trên thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân sinh, dân
chủ và tiến bộ xã hội tiếp tục phát triển. Cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc
vẫn diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch vẫn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn
16



giáo, dân chủ, nhân quyền để can thiệp, chia rẽ nội bộ các nước; tìm cách can
thiệp quân sự. Khu vực Châu Á, Thái Bình Dương phát triển năng động,
nhưng tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây bất ổn định, khó lường. Tranh chấp chủ
quyền giữa một số nước trên Biển Đông ngày càng gay gắt, phức tạp.
Việt Nam tuy còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng tiếp tục giữ vai trò
quan trọng trong khu vực, đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó
khăn, thách thức, nhất là những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng hoảng
tài chính - kinh tế khu vực và toàn cầu, đạt được thành tựu to lớn và rất quan
trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước
đang phát triển có thu nhập trung bình. Với sự nỗ lực của toàn Đảng và các
tầng lớp nhân dân, KT-XH có sự chuyển biến tích cực. Kinh tế vĩ mô ổn định
tốt hơn, tăng trưởng kinh tế cao hơn, lạm phát được kiềm chế và thấp hơn thời
gian trước; sản xuất công nghiệp từng bước được phục hồi; nông nghiệp, dịch
vụ tăng trưởng khá; an sinh xã hội bảo đảm; chính trị xã hội ổn định; QP-AN
được giữ vững, công tác đối ngoại được tăng cường. Vị thế Việt Nam trên
trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội đạt
nhiều thành tựu quan trọng, nhất là an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo. Đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt; dân chủ trong xã
hội tiếp tục được mở rộng, chính trị, xã hội ổn định, QP-AN vững mạnh. Công
tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả, góp phần
tạo môi trường hòa bình, ổn định cho sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Những năm vừa qua, dân chủ xã hội có tiến bộ, đời sống các tầng lớp nhân dân
được cải thiện; khối đại đoàn kết toàn dân tộc luôn phát huy sức mạnh và tiếp tục
củng cố; việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN có tiến bộ được đẩy mạnh
trên cả ba lĩnh vực, nâng cao hiệu quả hiệu lực; Công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng được tăng cường và đạt được một số kết quả tích cực; phần lớn cán bộ
đảng viên, nhân dân có niềm tin đối với Đảng, Nhà nước, công cuộc đổi mới và
triển vọng phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn đang phải đối mặt với nhiều hạn chế và thách
thức ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả công tác dân vận. Còn nhiều vấn đề bức

xúc trong xã hội chưa được giải quyết tốt; dân chủ XHCN, sức mạnh khối đại
17


đoàn kết dân tộc chưa được phát huy đầy đủ; một số mặt công tác của Đảng,
Nhà nước, MTTQ còn chuyển biến chậm; còn tiềm ẩn những yếu tố gây mất
ổn định chính trị xã hội. Lĩnh vực văn hoá, xã hội còn một số yếu kém chậm
được khắc phục, nhất là về giáo dục, đào tạo và y tế; môi trường nhiều nơi
đang bị ô nhiễm nặng. Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực,
kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển; nguy cơ tụt hậu
về kinh tế; suy thoái và chệch hướng; quan liêu, tham nhũng, xa rời quần chúng
vẫn là những nguy cơ không thể xem nhẹ; một bộ phận nhân dân chưa thật sự
yên tâm, tin tưởng vào việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Tình hình thế giới, trong nước với những thuận lợi, khó khăn liên quan
trực tiếp đến công tác dân vận, vì vậy Đảng đã có chủ trương về công tác dân
vận trong những năm (2005-2015) như sau:
- Chủ trương của Đảng về công tác dân vận từ năm 2005 đến năm 2015
Trong thời kỳ hội nhập, phát triển sâu rộng, bên cạnh những thành tựu
đã đạt được về kinh tế, văn hóa xã hội vẫn còn những hạn chế mà có nguyên
nhân từ mối quan hệ giữa Đảng với dân, giữa dân với Đảng. Do vậy công tác
dân vận trong thời kỳ này luôn mang tính cấp thiết và đặt ra những yêu cầu
mới. Chủ trương của Đảng về công tác dân vận từ năm 2005 đến năm 2015
được thể hiện trong Văn kiện các Đại hội Đảng lần thứ IX, X, XI và các Nghị
quyết của BCH Trung ương; bao gồm hệ thống các quan điểm, mục tiêu,
phương hướng, nhiệm vụ giải pháp công tác dân vận (Đặc biệt là NQTW 25,
ngày 03/6/2013 của Hội nghị BCHTW 7, Khóa XI về “Tăng cường và đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”, đã
thể hiện sâu sắc chủ trương của Đảng về công tác dân vận)
Thứ nhất, quan điểm chỉ đạo công tác dân vận.

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã xác định:
Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước, ý
chí tự lực tự cường, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong mặt
trận Tổ quốc Việt Nam luôn luôn được củng cố và phát triển sâu trên cơ
sở liên minh vững chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
18


ngũ trí thức. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân gắn với việc phát huy
dân chủ trong đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực hiện dân
chủ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội ở tất cả các
cấp, các ngành”. [47, tr. 123 - 124]
Truyền thống cộng đồng, dân tộc là nguồn cội để xây dựng, củng cố,
phát huy dân chủ và sức mạnh khối đại đoàn đết toàn dân tộc, trên nền tảng
liên minh công, nông, trí vững chắc. Trên cơ sở của Đại hội Đảng IX, Đại hội
Đảng X đã đề cao mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với dân và cán bộ, đảng
viên phải thực sự tiên phong, là cái gốc của công việc, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, lợi ích của Đảng là lợi ích của quốc gia, dân tộc. Hiệu quả
công tác dân vận, quyết định sự phát triển toàn diện của xã hội, để nâng cao
hiệu quả công tác dân vận, nhấn mạnh:
Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng, phải xây dựng
các thiết chế mở rộng và phát huy dân chủ, bảo đảm các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước đều có sự tham gia xây dựng của nhân
dân, phản ánh ý chí, lợi ích của nhân dân, của quốc gia, dân tộc. Cán bộ,
đảng viên, công chức phải thực sự là công bộc của nhân dân.” [48, tr. 68]
Đại hội XI, khi đánh giá về vai trò làm chủ và động lực của nhân
dân trong phát triển xã hội, đã chỉ rõ nhân dân sẽ thực hiện đầy đủ quyền
chủ nhân đất nước và phát huy sức mạnh của mình, khi Đảng, Nhà nước
có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện cao và có cơ chế, chính sách phù

hợp: Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền
làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng
sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển
xã hội đất nước.
Quan điểm của Đảng về công tác dân vận trong tình hình mới, được
thể hiện cụ thể, sâu sắc trong NQTW-25 (Hội nghị BCHTW 7, khóa XI),
đánh giá toàn diện chủ thể, khách thể của công tác dân vận. Mối quan hệ giữa
nhân dân và cách mạng được làm rõ hơn “cách mạng là sự nghiệp của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân; nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ”. Công tác
19


dân vận chỉ đạt hiệu quả khi có động lực đúng đắn và chú trọng lợi ích trực
tiếp của người dân “phát huy quyền làm chủ, đáp ứng lợi ích thiết thực của
nhân dân...”. Tiếp tục khẳng định, công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị và đặt ra yêu cầu cao đối với chính quyền trong tổ chức, thực
hiện. Đảng phải có phương thức lãnh đạo công tác dân vận phù hợp, gắn liền
với công tác xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch vững mạnh.
Thứ hai, phương hướng, mục tiêu; nhiệm vụ giải pháp về công tác dân
vận của Đảng trong thời kỳ mới.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, X xác định: Phát huy dân chủ là
mục tiêu, phương hướng của công tác dân vận. Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ
công tác dân vận của Đảng. Trong thời kỳ mới, công tác dân vận được xác
định theo phương hướng:
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích;
cán bộ, công chức phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao,
tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân”. [49, tr. 238-239]

Công tác dân vận phải thực sự phát huy dân chủ, phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc. Nghị quyết 25 của Hội nghị BCHTW 7 (Khóa XI) đã
chỉ rõ vai trò, tầm quan trọng của công tác dân vận của chính quyền trong
phát huy dân chủ, làm rõ điểm mới và sự bổ sung, phát triển so với các Nghị
quyết trước đây về công tác dân vận. Khẳng định ba mục tiêu của công tác
dân vận: Đó là, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân;
tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo ra phong
trào cách mạng rộng lớn, xây dựng và bảo vệ đất nước, thực hiện thành công
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Công tác dân vận là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng và củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước và
20


nhân dân. Trong thời kì mới, quy tụ, xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết
giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân càng tăng tính cấp thiết, tạo ra sức mạnh
tổng hợp thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”, đó cũng là nhiệm vụ của công tác dân vận.
Nhằm thực hiện các nội dung trên, trong tình hình mới công tác dân
vận đã đặt ra những vấn đề cấp thiết, có những giải pháp chủ yếu như: Cấp
ủy, chính quyền, cán bộ đảng viên phải nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng
của công tác dân vận. Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác dân vận; trong đó, đổi mới và tăng cường công tác dân vận của chính
quyền là trọng yếu. Vận dụng chủ trương của Đảng về công tác dân vận vào
thực tiễn địa phương sẽ xây dựng và thực hiện tổng thể, đồng bộ các quan
điểm; mục tiêu, phương hướng; nhiệm vụ, giải pháp, tạo hiệu ứng mạnh mẽ
đáp ứng yêu cầu mới đối với công tác dân vận hiện nay.
1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Nam về công tác dân vận

Trên cơ sở quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác dân vận, căn
cứ vào thực tiễn địa phương, vào nhiệm vụ phát triển KT-XH, Đảng bộ tỉnh
Hà Nam đã đề ra những chủ trương về công tác dân vận ở địa phương.
1.2.1. Quan điểm của Đảng bộ tỉnh Hà Nam về công tác dân vận
Từ những định hướng chỉ đạo của các nghị quyết Trung ương và Bộ
Chính trị, Đảng bộ tỉnh Hà Nam đã xác định tính chất, tầm quan trọng của
công tác dân vận trong thời kỳ mới (đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc
tế sâu rộng). Báo cáo chính trị của BCH Đảng bộ Hà Nam tại Đại hội lần thứ
XVII, trên cơ sở đánh giá thực trạng phát triển KT-XH, nêu rõ quan điểm về
công tác dân vận của Đảng bộ tỉnh từ năm 2005 đến năm 2010:
Tiếp tục đổi mới công tác dân vận của các cấp uỷ, tổ chức đảng. Tăng
cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng và sự phối hợp chặt chẽ giữa
chính quyền đối với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân..., tăng cường
mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với dân. Quan tâm, chăm lo xây dựng
tổ chức đoàn thể vững mạnh; đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân, đi sâu, đi sát cơ sở, bám dân tuyên truyền,
vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện tốt đường lối chủ trương của
21


Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, cuộc vận động xây dựng
đời sống văn hoá ở khu dân cư; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở;
phát huy quyền làm chủ, tinh thần năng động, sáng tạo của nhân dân,
tích cực tham gia đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí. Phát
huy tốt vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
[50, tr.75-76]
Công tác dân vận của Đảng bộ tỉnh Hà Nam những năm (2005-2010)
thể hiện tập trung trên các nội dung chính sau đây:
Thứ nhất, nâng cao sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng của các cấp ủy đảng
về công tác dân vận. Vì vậy, tiếp tục đổi mới, tìm phương thức hoạt động phù hợp

của các cấp ủy đảng; tăng cường sự lãnh đạo chỉ đạo của cấp ủy đảng đối với hoạt
động dân vận của các cấp, ngành, đoàn thể. Đảm bảo đúng, phát huy vai trò chức
năng và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp ủy, cơ quan nhà nước và Mặt trận,
đoàn thể trong thực hiện công tác dân vận. Thành quả của công tác dân vận góp
phần tích cực vào chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc và tôn giáo trong xã hội.
Bước đầu thấy được dân vận chính quyền là mũi nhọn trong khơi dậy, phát huy
sức mạnh tiềm tàng, quyền làm chủ, tính năng động sáng tạo của quần chúng nhân
dân trong phát triển kinh tế, ổn định an ninh chính trị xã hội.
Thứ hai, chính quyền, MTTQ, các đoàn thể phải luôn đổi mới sát dân,
gần dân hơn, đủ sức là lực lượng trực tiếp của công tác dân vận; có hiệu lực,
sức lan tỏa cao trong tập hợp, giáo dục, động viên quần chúng tham gia các
phong trào các hoạt động, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
Làm rõ, chính MTTQ và các tổ chức đoàn thể không chỉ là cầu nối giữa dân
với Đảng, Nhà nước; mà còn phải thực hiện tốt chức năng giám sát cán bộ,
đảng viên; đổi mới công tác tuyên truyền vận động nhân dân, để nhân dân
hiểu đường lối chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước phải
xuất phát từ cơ sở và hướng về cơ sở. Qua đó, nhân dân xác định rõ quyền lợi
và nghĩa vụ, phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của mình trong xây dựng xã
hội, làm cho Quy chế dân chủ ở cơ sở được hiện thực hóa với hiệu quả cao,
thiết thực, tích cực đấu tranh với quốc nạn “tham nhũng, lãng phí”.
22


Sự đúng đắn sáng tạo trong quan điểm dân vận của Đảng bộ tỉnh đã
đem lại hiệu quả đáng kể những hoạt động dân vận những năm (2005 - 2010)
ở Hà Nam, căn cứ vào yêu cầu và điều kiện mới, Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà
Nam lần thứ XVIII nhấn mạnh: Nâng cao hiệu quả công tác dân vận và hoạt
động của MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội. Các cấp ủy đảng, chính
quyền phải coi trọng công tác dân vận, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
tăng cường mối liên hệ giữa Đảng, chính quyền với nhân dân; phát huy vai trò

của MTTQ và các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền
và thực hiện vai trò giám sát, phản biện xã hội; xây dựng các tổ chức, đoàn
thể vững mạnh; chú trọng phát triển tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên
trong các doanh nghiệp; phát động sâu rộng các phong trào thi đua yêu nước
trong các tầng lớp nhân dân [51, tr.70 - 71]. Quan điểm công tác dân vận của
Đảng bộ tỉnh những năm (2011- 2015) được thể hiện như sau:
Thứ nhất, phát huy vai trò của các chủ thể làm công tác dân vận, công
tác dân vận được hợp thành bởi nhiều chủ thể, như dân vận của cấp ủy đảng,
dân vận của chính quyền và dân vận của MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã
hội. Do vậy, hiệu quả công tác dân vận phải được nhìn nhận từ các quan hệ
chủ thể - đối tượng, đối tượng - chủ thể; thực chất là quan hệ giữa Đảng với
dân, Nhà nước với dân, Mặt trận đoàn thể với dân, quan hệ trong nội bộ dân
với dân. Hiệu quả công tác dân vận được thể hiện trong tất cả các mối quan hệ
đó, trong các hoạt động, các phong trào, các cuộc vận động đòi hỏi phải thiết
thực, cụ thể, lâu bền, tiết kiệm và tiến bộ.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả hoạt động của MTTQ, các đoàn thể chính
trị - xã hội. Điều đó có nghĩa là đảm bảo bề rộng, chiều sâu các hoạt động
dân vận của MTTQ, các tổ chức đoàn thể và đánh giá chất lượng hoạt động
bằng tiêu chí thực tế, thông qua thành quả cụ thể. Có sự bổ sung, phát triển
chủ trương dân vận, xác định rõ hơn vai trò của chủ thể công tác dân vận;
vai trò phản biện, giám sát của MTTQ và các đoàn thể xã hội trong xây
dựng Đảng, chính quyền, nhằm đưa lại hiệu quả thiết thực phù hợp với
thực tiễn, khắc phục khuyết điểm trong công tác dân vận. Đảm bảo quyền
lợi hợp pháp, chính đáng của người lao động, phải chú trọng phát triển tổ
23


chức Công đoàn, Đoàn thanh niên trong các doanh nghiệp và quan tâm đến
nhu cầu chính đáng hợp pháp của đồng bào có đạo nhằm thực hiện tốt
chính sách tôn giáo, tín ngưỡng. Đã đánh giá đúng và phát huy vai trò của

giai cấp công nhân, nông dân, năng lực trí tuệ của đội ngũ trí thức trong
phát triển kinh tế xã hội. Sự bổ sung, phát triển chủ trương dân vận của Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII so với trước đây cơ bản toàn diện trên tất cả
các lĩnh vực.
Quán triệt sâu sắc Nghị quyết 25 của Hội nghị BCHTW 7 (Khóa XI),
về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận
trong tình hình mới”, Đảng bộ tỉnh Hà Nam đã bổ sung quan điểm về công
tác dân vận một cách hệ thống, toàn diện. Đặc biệt, đề cao vai trò và tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ công tác dân vận của các cấp chính quyền: Mỗi cơ
quan đơn vị thực hiện và giám sát việc thực hiện nâng cao nhận thức, kỹ năng
về công tác dân vận trong quá trình thực hiện thi nhiệm vụ chính trị. [69, tr.1]
Quan điểm sát, đúng về công tác dân vận của Đảng bộ tỉnh Hà Nam
những năm (2005-2015) là cơ sở quan trọng để công tác dân vận ở tỉnh Hà
Nam có phương hướng, mục tiêu phù hợp.
1.2.2. Phương hướng, mục tiêu công tác dân vận của tỉnh Hà Nam
Quán triệt và vận dụng quan điểm của Đảng về công tác dân vận, xây dựng
các phương hướng, chương trình cụ thể nâng cao hiệu quả phát triển KT-XH.
Phương hướng, mục tiêu công tác dân vận ở Hà Nam đã được đề cập trong các
Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh, sát với nhiệm vụ chính trị của tỉnh, nhằm nâng
cao hiệu quả các hoạt động dân vận, phát huy sức mạnh cộng đồng trong phát
triển toàn diện xã hội. Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII xác định phương hướng,
mục tiêu công tác dân vận như sau:
Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức đảng. Phát huy sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Huy động có hiệu quả các nguồn
lực, đẩy nhanh hơn nữa tốc độ phát triển kinh tế, đảm bảo tăng trưởng
kinh tế cao, bèn vững hiệu quả..., tăng cường công tác quốc phòng- an
ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Không ngừng
nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần cho nhân dân.” [50, tr.52]
24



Mục tiêu, phương hướng chủ yếu của công tác dân vận trong những năm
(2006-2010) là: Nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng đối với công tác
dân vận, tạo sự chuyển biến từ nhận thức đến hành động của cán bộ đảng viên và
quần chúng nhân dân về công tác dân vận. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các
tầng lớp nhân dân thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển KT-XH của địa
phương. Tập hợp và tạo sự đồng thuận, đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trong nội
bộ nhân dân.
Quán triệt sâu sắc những mục tiêu, phương hướng về công tác dân vận
của Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII và qua hiệu quả hoạt động dân vận của
HTCT, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII bổ sung, phát triển thêm một số
nội dung như “tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp
ủy, tổ chức đảng”, “tập trung phát triển hạ tầng kinh tế xã hội” và “đẩy
mạnh cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng lãng phí”. Trong cải
cách hành chính, lấy cải cách thủ tục hành chính làm trọng tâm. Tổng thể
sự kế thừa và phát triển đó nhằm tăng cường đoàn kết các tầng lớp nhân
dân, phát huy thế mạnh của địa phương phấn đấu thực hiện thắng lợi các
mục tiêu KT-XH, QP-AN mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh đề ra nhằm
nâng cao đời sống nhân dân, vận động nhân dân để tạo và huy động có hiệu
quả các nguồn lực; đẩy nhanh tốc độ phát triển KT-XH, đảm bảo kinh tế
tăng trưởng cao, bền vững hiệu quả. Động viên mọi tiềm năng sáng tạo,
phát huy vai trò làm chủ của nhân dân đẩy mạnh CNH, HĐH địa phương,
tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở;
nâng cao trình độ dân trí, trình độ hưởng thụ văn hoá xã hội cho nhân dân,
tạo công việc phù hợp cho nhân dân. Ổn định và cải thiện đời sống nhân
dân, thực hiện mục tiêu nâng cao dân sinh, dân trí và thực hành dân chủ
của nhân dân. Chăm lo xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở vững
mạnh. Củng cố mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền với nhân dân. Phát
huy quyền làm chủ và trí tuệ của nhân dân tham gia xây dựng Hà Nam giàu
mạnh, văn minh.

25


×