Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.66 KB, 12 trang )

A. MỞ ĐẦU
Sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoach hóa tập chung sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là một tất yếu khách
quan. Quá trình chuyển đổi được bắt đầu từ đại hội IV năm 1986. Trong quá
trình chuyển đổi từ đó đến nay nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Việc
chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã đưa nước ta
thốt khỏi sự trì trệ về phát triển kinh tế sang một nền kinh tế mới, phát triển
mạnh mẽ hơn. Những thành công bước đầu là do Đảng và Nhà nước ta đã vận
dụng và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin, Đảng và nhà nước đã chủ trương
chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập chung sang cơ chế thị trường nhưng nền kinh
tế thị trường nước ta không phải là nền kinh tế thị trường thuần túy mà là nền
kinh tế thị trường với sự tham gia của Nhà nước với tư cách là người điều tiết
nền kinh tế theo định hướng XHCN.Nhận thức được tầm quan trọng về vai trò
của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường nên chúng em đã chọn đề tài “Vai trò
của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta’’làm đề tài nghiên cứu. Là sinh viên nên tầm hiểu biết, nhận thức và lý luận
của chúng em còn nhiều hạn chế. Bởi vậy chúng em rất mong được sự giúp đỡ
của cô để bài viết của chúng em được hoàn chỉnh hơn. Chúng em xin chân
thành cảm ơn.


B.

NỘI DUNG


CHƯƠNG I LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC
1.Nguồn gốc và bản chất của nhà nước.
1.1. Nguồn gốc của nhà nước
Lịch sử đã cho thấy chúng ta đã và đang trải qua các thời kỳ từ công xã
nguyên thuỷ đến chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ


nghĩa. Nhưng khơng phải lúc nào xã hội cũng có nhà nước. Trong xã hội
nguyên thuỷ, kinh tế còn thấp kém, chưa có sự phân hố giai cấp, nên chưa có
nhà nước, mọi người đều bình đẳng và hường thụ, xã hội khơng phân biệt kẻ
giàu, người nghèo, khơng có sự phân chia giai cấp. Đứng đầu các thị tộc và bộ
lạc là các tộc trưởng do nhân dân bầu ra, quyền lực của những người đứng đầu
thuộc về uy tín và đạo đức, việc điều chỉnh các quan hệ xã hộI được thực hiện
bằng các quy tắc chung. Trong tay họ khơng có và cũng khơng cần một cơng cụ
đặc biệt nào. Những người đứng đầu thị tộc, bộ lạc khơng có đặc quyền lợi nào
họ cùng sống, lao động và hưởng thụ như mọi thành viên khác và chịu sự kiểm
tra của cộng đồng.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và năng suất lao động xã hội đã làm
thay đổi cơ cấu tổ chức xã hội của xã hội cộng sản nguyên thuỷ. Trong xã hội
lúc này bắt đầu xuất hiện các dư thừa và phần này bị những người đứng đầu thị
tộc và bộ lạc chiếm giữ làm cuả riêng. Sau 3 lần phân công lao động trong xã
hội, chế độ tư hữu xuất hiện đã phân chia xã hội thành kẻ giàu, người nghèo,
thành các giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp khơng thể điều hồ
được xuất hiện.Vậy nguồn gốc sâu xa của sự ra đời của nhà nước là do sự ra đời
của quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất làm xuất hiện giai cấp.Điều
đó dẫn đến nguy cơ các giai cấp chẳng những tiêu diệt lẫn nhau mà cịn tiêu diệt
ln cả xã hội. Để thảm hoạ đó khơng diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt
ra đời. Đó là Nhà nước. Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu
nô lệ. Tiếp đó là nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản, nhà nước xã hội chủ
nghĩa.
1.2. Bản chất của nhà nước.
Nhà nước tựa hồ như đứng ngoài xã hội, làm cho xã hội tồn tại trong vòng
trật tự nhất định nhưng trên thực tế chỉ có giai cấp thế lực nhất- giai cấp thống
trị về kinh tế mới có đủ điều kiện lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước. Nhờ có
nhà nước, giai cấp này cũng trở thành giai cấp thống trị về mọi mặt chính trị và
do đó có thêm những phương tiện để đàn áp và bóc lột giai cấp khác. Nhà nước
có bản chất giai cấp sâu sắc, nhà nước là bộ máy của một giai cấp này dùng để

trấn áp một giai cấp là bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối
với giai cấp khác, là cơ quan quyền lực của một giai cấp đối với toàn xã hội, là
cơng cụ chun chính của một giai cấp. Nhà nước là cơng cụ sắc bén để duy trì
sự thống trị giai cấp. Ví dụ trong các xã hội bóc lột, nhà nước của giai cấp bóc
lột (nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư bản) đều có bản chất
chung là bộ máy thực hiện nền chun chính của giai cấp bóc lột là giai cấp
chiếm thiểu số trong xã hội. Ngược lại, trong nhà nước XHCN là bộ máy củng
cố địa vị lãnh đạo và bảo vệ lợi ích của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao
động, lực lượng chiếm đa số trong xã hội, trấn áp những lực lượng thống trị cũ
đã bị lật đổ và những phần tử chống đối, xây dựng một xã hội cơng bằng dân
chủ và bình đẳng.
Bản chất của nhà nước không phải là của chung mọi giai cấp trong xã hội mà
chỉ là của một giai cấp, giai cấp nắm quyển về thống trị về kinh tế, do giai cấp
này thiết lập ra nhằm hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức của chúng đối với
quần chúng lao động. Bản chất nhà nước thực hiện sự chuyên chính về mặt giai
cấp của giai cấp thống trị đối với giai cấp khác trong xã hội. Giai cấp thống trị
sử dụng bộ máy nhà nước để đàn áp, cưỡng bức giai cấp khác trong khn khổn
lợi ích của giai cấp thống trị. Như vậy, theo bản chất của nhà nước không thể là


lực lượng điều hoà sự xung đột giai cấp mà trái lạI nó càng làm cho giai cấp
mâu thuẫn ngày càng gay gắt. Nhà nước là một bộ phận quan trọng nhất của
kinh tế thị trường trong xã hội có giai cấp. Tất cả những hoạt động chính trị, văn
hố, xã hội do nhà nước tiến hành, xét cho cùng đều xuất phát từ lợi ích của giai
cấp thống trị. Thực tế lịch sử đã chứng minh dù được che giấu dưới hình thức
tinh vi như thế nào, cho dù có bị khúc xạ q lăng kính phức tạp ra sao, nhà
nước trong mọi xã hội có giai cấp đối kháng cũng chỉ là cơng cụ bảo vệ lợi ích
của giai cấp thống trị mà thơi. Ví dụ như trong cuộc Cách mạng Tư sản nổ ra
với khẩu hiệu là bình đẳng, tự do, cơng bằng nhưng khi cách mạng thắng lợi thì
những khẩu hiệu đó khơng được thực hiện, những tư sản đươc thiết lập để phục

vụ lợi ích cho giai cấp tư sản, giai cấp vô sản thậm chí cịn bị bóc lột nặng nề
hơn.


CHƯƠNG II VAI TRỊ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KÍNH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
2.1.Tính tất yếu về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội không chỉ là điểm then chốt trong lý
luận về chủ nghĩa xã hội mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng đối với sự
nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng
sản Việt Nam khẳng định chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đã khẳng định và chứng minh đây là một
bước đột phá có tính sáng tạo và cách mạng trong tư duy lý luận của Đảng
Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn xây dựng xã hội chủ nghĩa trên thế giới mấy thập niên gần đây đã
chứng minh tư duy coi sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường là đối lập với chủ
nghĩa xã hội là hồn tồn khơng phù hợp với thực tế. Sai lầm của các nước xã
hội chủ nghĩa trước đây là, trong một thời gian tương đối dài, đã phủ nhận kinh
tế thị trường, thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp. Tại Việt Nam, cơ
chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp đã tồn tại tương đối dài, từ khi hịa bình lập
lại ở miền Bắc (1954) cho đến cuối những năm 90 của thế kỷ XX. Không thể
phủ nhận được cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp đã phát huy những tác
động tích cực trong việc huy động sức người sức của cho cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước. Tuy nhiên sau khi đất nước thống nhất, Nhà nước vẫn thực
hiện cơ chế này nên đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, khiến đất nước
rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm sau đó.
Nhưng với sự đổi mới tư duy của Đảng về kinh tế thị trường qua các đại hội,
từ Đại hội VI đến Đại hội XII đã từng bước làm rõ thêm về nội dung cơ bản của

định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là bước đi phù hợp với
nước ta giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức nền kinh tế dựa trên nguyên tắc
và quy luật của kinh tế thị trường cùng với nguyên tắc và bản chất của chủ
nghĩa xã hội. Nó là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội, trong đó q trình sản xuất,
phân phối, trao đổi, tiêu dùng gắn với thị trường được thực hiện thông qua thị
trườơng dưới sự quản lý của nhà nước. Do đó, kinh tế thị trường khơng chỉ là
cơng nghệ, kỹ thuật mà còn là quan hệ xã hội bao hàm yếu tố lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất. Nó gồm nhiều hình thức sở hữu mà trong đó nó phụ thuộc
vào chế độ sở hữu của Nhà nước xã hội chủ nghĩa thống trị, xã hội khác nhau,
kinh tế thị trường mang tính chất xã hội khác nhau. Tác động tích cực và tiêu
cực của nền kinh tế thị trường phụ thuộc vào chế độ xã hội, đường lối của Đảng
cầm quyền và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có 2 đặc điểm cơ
bản: Đầu tiên, do đây là nền kinh tế thị trường mới bước đầu hình thành cịn sơ
khai, trình độ thấp, các loại hình thị trường chưa hình thành đầy đủ, đồng bộ.
Thứ hai, kinh tế thị trường mang định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng
sản lãnh đạo và do Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý.
Vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước đối với nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là tất yếu.


Là một đặc điểm bản chất kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
chi phối bởi bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Khơng có Đảng
lãnh đạo và Nhà nước xã hơi chủ nghĩa quản lý thì khơng thể có kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường vốn có xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa. Nên chỉ có Đảng
Cộng sản lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương đúng đắn phù hợp và sự quản lý
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa bằng chính sách pháp luật, các cơng cụ quản lý

vĩ mơ mới hạn chế tính tự phát tư bản chủ nghĩa, đảm bảo tính định hướng xã
hội chủ nghĩa cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Kinh tế thị trường vốn có 2 mặt: Mặt tích cực là thúc đẩy kinh tế tăng trưởng
nhanh, chú trọng lợi ích và hiệu quả kinh tế, … và mặt tiêu cực là sự phân hóa
giàu nghèo ngày càng tăng, hạ thấp giá trị đạo đức, … Mặt trái của nền kinh tế
thị trường mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội nên cần sự quản lý của
Nhà nước để phát huy mặt tích cực và hạn chế tiêu cực của nền kinh tế thị
trường.
Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa là lực lượng lãnh đạo và quản lý
xã hội. Lực lượng này có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế
khách quan, chuyển hóa chúng thành đường lối, chính sách, pháp luật, … để tổ
chức, thực hiện nâng cao đời sống nhân dân.
Phát triển tất cả các thành phần kinh tế trên cơ sở đa dạng hóa các quan hệ sơ
hữu, lấy kinh tế nhà nước làm chủ đạo, thực hiện chế độ phân phối lợi ích một
cách hợp lý thông qua việc sử dụng các công cụ quản lý kinh tế, tạo động lực
phát triền mạnh mẽ nền kinh tế.
Tạo môi trường pháp lý lành mạnh về kinh tế để phát triển manh mẽ lực lượng
sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể kinh tế hoạt động bình đẳng,
tạo mơi trường cạnh tranh lành mạnh.
Thực hiện các chức năng kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh tế theo đúng pháp
luật và chính sách.
2.2 Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Qua gần 30 năm đổi mới, nước ta đã dần chuyển từ nền kinh tế kế hoạch
hoá, tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Vai trị quản lý của nhà nước có những bước chuyển biến lớn trong điều
kiện kinh tế thị trường, thể hiện ở những điểm sau:
Một là, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế thị
trường.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tư cách một nhiệm vụ

chiến lược quan trọng trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước. Việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa với
mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhằm xây dựng một chế
độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để xây
dựng được một chế độ xã hội có tính mục tiêu như vậy thì cơng cụ, phương tiện
cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và một
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.


Bên cạnh đó, nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sau khi nước ta trở thành thành
viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đòi hỏi chúng ta tiếp tục đẩy
mạnh cải cách hành chính Nhà nước, cải cách pháp luật, đảm bảo cho Nhà nước
không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ
phát triển kinh tế – xã hội, thực hành dân chủ, giữ vững độc lập, tự chủ và hội
nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.
Hai là, các nguồn lực do Nhà nước quản lý được phân bổ theo chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phù hợp cơ chế thị trường.
Chính phủ có thể thơng qua hệ thống luật pháp và thơng qua sự lựa chọn của
mình để tác động đến sản xuất. Đồng thời, thông qua thuế và các khoản chuyển
nhượng để tác động đến khâu phân phối, từ đó tác động đến việc phân bổ các
nguồn lực của nền kinh tế. Kinh nghiệm của Việt Nam trong những năm qua
cho thấy để phân bổ nguồn vốn hiệu quả thì khâu đột phá là giải quyết mối quan
hệ Nhà nước và thị trường. Cho dù sự phân bổ các nguồn lực thuộc về Nhà
nước thì cũng phải tơn trọng các nguyên tắc của thị trường.
Với chủ trương phát triển đồng bộ và vững chắc thị trường tài chính, Nhà
nước đã sử dụng nhiều biện pháp tăng cường quản lý thị trường vốn, đảm bảo
thị trường này vận hành thống suốt, cơng khai và hiệu quả; nâng cao tính thanh
khoản và tạo được những thay đổi căn bản về thể chế, cấu trúc thị trường để tạo
dựng nền tảng tài chính vững mạnh, đảm đương được vai trị phân bổ nguồn lực

xã hội hiệu quả, đồng thời đảm bảo ổn định tài chính để phát triển bền vững.
Ba là, Nhà nước đóng vai trị định hướng, xây dựng và hồn thiện thể chế
kinh tế, tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch
Vai trị kinh tế của nhà nước là hướng tới mục tiêu chung, làm cho dân giàu,
nước mạnh, tăng trưởng ổn định và công bằng xã hội. Sự định hướng nền kinh
tế của nhà nước được thực hiện thông qua việc nhà nước xây dựng quy hoạch,
chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong ngắn hạn, trung hạn và
dài hạn. Mặt khác, nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi như: hệ thống luật
pháp đồng bộ, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế; hệ thống các văn bản
hướng dẫn, các định chế, các chính sách phát triển kinh tế …để các chủ thể kinh
tế giảm thiểu rủi ro, tranh chấp. Nhà nước đã xây dựng hệ thống pháp lý để
chống lại gian lận bao gồm: hệ thống có liên quan tới những quyền sở hữu,
những điều luật về phá sản và khả năng thanh toán, hệ thống tài chính với ngân
hàng trung ương và các ngân hàng thương mại để giữ cho việc cung cấp tiền
mặt được thực hiện một cách nghiêm ngặt.
Đồng thời, Nhà nước sử dụng cơng cụ chiến lược, kế hoạch, luật pháp và chính
sách làm căn cứ cho hoạt động kiểm tra, kiểm soát, đánh giá đối với nền kinh tế
để điều tiết các hành vi ứng xử của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, Nhà nước sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và cơng cụ, cơ chế,
chính sách để định hướng, điều tiết nền kinh tế, thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, bên cạnh
sự phát triển tất yếu của xã hội xuất hiện sự phân hoá giàu nghèo ngày càng
tăng. Do vậy, nhà nước cần phải có những biện pháp phân phối lại của cải xã
hội nhằm hạn chế sự phân hoá này, làm lành mạnh xã hội. Nhà nước thực hiện
phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế


gắn với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Điều này

thể hiện rõ rệt nhất tính định hướng xã hội của nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Về vấn đề thu nhập, Nhà nước sử dụng hai biện pháp là: Điều tiết tăng thu nhập
được thực hiện thông qua trợ cấp, ưu đãi đối với người có cơng với cách mạng;
chính sách đối với người già, trẻ mồ côi không nơi nương tựa, người tàn tật;
điều tiết giảm thu nhập được thực hiện thông qua công cụ thuế: như thuế thu
nhập cá nhân; thuế thu nhập doanh nghiệp; mặt hàng xa xỉ, cao cấp việc tăng
thuế sẽ góp phần phân phối lại một bộ phận thu nhập trong xã hội.
Về vấn đề an sinh xã hội, Nhà nước có vai trị quyết định trong việc nâng cao
phúc lợi cơng cộng, xố đói, giảm nghèo. Các vấn đề như việc làm, sức khoẻ,
bảo hiểm y tế, lương hưu, trợ cấp khó khăn… ln là những vấn đề rất cần đến
sự quan tâm của Nhà nước.
Tóm lại, Nhà nước có vai trị to lớn trong việc bảo đảm sự ổn định vĩ mô
cho phát triển và tăng trưởng kinh tế, thể hiện sự cân đối, hài hịa các quan hệ
nhu cầu, lợi ích giữa người và người, tạo ra sự đồng thuận xã hội trong hành
động vì mục tiêu phát triển của đất nước. Tính đúng đắn, hợp lý và kịp thời của
việc hoạch định và năng lực tổ chức thực hiện các chính sách phát triển vĩ mô
do Nhà nước đảm nhiệm là điều kiện tiên quyết để hình thành sự đồng thuận đó.
Việc tăng cường quản lý vĩ mơ sẽ nâng cao hiệu quả tác động của Nhà nước tới
sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
2.3. Liên hệ: thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường hơn 30 năm đổi mới
cho thấy, Nhà nước ta đã có nhiều tác động tích cực trong việc bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển nền kinh tế này. Việc từng
bước hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch
theo hướng tạo động lực và điều kiện thuận lợi hơn cho khai thác các tiềm năng
trong và ngoài nước để phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ đó, tốc độ tăng trưởng
kinh tế, nhìn chung, khơng ngừng được nâng cao: thời kỳ 1986 – 1990, tăng
trưởng GDP bình quân đạt 4,5%/năm; 1996 – 2000: 7%/năm; 2001 – 2005:
7,5%/năm; năm 2007 đạt 8,48%. Năm 2008, dù phải đối mặt với khơng ít khó
khăn, nhưng Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng GDP là 6,23% Trong các năm

tiếp theo, do tiếp tục chịu tác động từ cuộc khủng hoảng nợ công 2010, tốc độ
tăng trưởng GDP giai đoạn (2011 – 2015) của Việt Nam tuy đã chậm lại nhưng
vẫn đạt 5,75%/năm, là mức cao của khu vực và thế giới. GDP tăng trưởng năm
2016 đạt 6,21%. Nhà nước cũng có nhiều chính sách khai thác ngoại lực, biến
ngoại lực thành nội lực cho sự phát triển. Biểu hiện rõ nhất là Nhà nước đã hoàn
thiện Luật Đầu tư, thu hút được nhiều vốn ODA, FDI,… Từ năm 1988 đến hết
năm 2006, có hơn 8.000 dự án đầu tư FDI với tổng vốn đăng ký 74 tỉ USD.
Năm 2006, khu vực FDI đóng góp gần 30% cho tăng trưởng kinh tế; xuất khẩu
của khu vực này chiếm khoảng 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước;
cung cấp việc làm cho khoảng 50 vạn người và việc làm gián tiếp cho 2,5 triệu
người; đào tạo được 8.000 cán bộ quản lý, 30.000 cán bộ kỹ thuật. Giai đoạn
2006 – 2010 đã đánh dấu thời kỳ khởi sắc của dòng vốn FDI, đây là giai đoạn
Việt Nam bước vào WTO và đã tọa ra làn sóng FDI thứ 2 trong năm 2008 khi
cả năm thu hút được 1.171 dự án với tổng vốn đăng ký lên đến 71,1 tỷ USD,
gần bằng số vốn lũy kế của giai đoạn từ 1988 – 2007. Sang năm 2009 – 2010,
vốn FDI sụt giảm rất lớn so với năm 2008 nhưng cũng không phải kết quả tồi
trong bối cảnh kinh tế toàn cầu rơi vào khủng hoảng tài chính và suy thối kinh
tế. Giai đoạn từ 2011 đến nay, dù có chút khó khăn bất ổn nhưng nền kinh tế
Việt Nam vẫn đạt được kế hoạch thu hút FDI đề ra, bình quân trên dưới 20 tỷ
USD/năm. Theo số liệu thống kê của Cục Đầu tư nước ngồi, tính đến ngày
20/12/2016, cả nước đang có 22.509 dự án cịn hiệu lực với tổng vốn đăng ký
đạt gần 293,25 tỷ USD.


Hơn thế nữa, Nhà nước đã góp phần tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, chỉ số
giá tiêu dùng không ngừng giảm: tháng 9-2008 tăng 0,18%, tháng 10 giảm
0,19%, tháng 11 giảm 0,76%, tháng 12 giảm 0,68%. Kinh tế vĩ mô ổn định: thu
chi ngân sách được cân đối; tổng thu ngân sách nhà nước vượt mức dự toán cả
năm, tăng 26,3% so với năm 2007. Kim ngạch xuất khẩu đạt 62,9 tỉ USD, vượt
kế hoạch đề ra; kim ngạch nhập khẩu đạt 80,4 tỉ USD, tăng 28% so với năm

2007. Giai đoạn 2011-2016, xuất khẩu hàng hóa đã đạt tốc độ tăng trưởng cao,
gấp hơn 3 lần tốc độ tăng trưởng GDP . Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa thế giới đã tăng hơn
gấp 3 lần trong 15 năm từ mức 0,25% năm 2001 lên hơn 0,8% năm 2016, đặc
biệt là nhóm hàng nơng sản Việt Nam. Mặc dù tỷ trọng đóng góp cịn ở mức
thấp song điều này cho thấy mức độ tham gia ngày càng sâu và rộng của Việt
Nam trong chuỗi giá trị thế giới, cải thiện đáng kể vị thế của Việt Nam nói
chung và hàng hóa Việt Nam nói riêng. Về nhập khẩu, tỷ trọng nhập khẩu trong
tổng kim ngạch xuất khẩu có xu hướng giảm dần, góp phần cải thiện cán cân
thương mại Việt Nam. Giai đoạn 2011-2016, nhập khẩu Việt Nam trung bình
tăng trên 14,36%/ năm, thấp hơn hẳn 2 giai đoạn (2001-2010). Những thành tựu
này có vai trị to lớn trong việc giữ vững ổn định xã hội, tạo môi trường thuận
lợi cho tăng trưởng kinh tế.


C.KẾT LUẬN
Sau 30 năm chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoach hóa tập chung sang nền kinh
tế thị trường đã đem lại cho Việt Nam những thành tựu to lớn cựu kì quan trọng.
Từ đại hội VI Đảng ta đã khởi xướng quá trình chuyển đổi nền kinh tế theo
KTTT định hướng XHCN phải có sự quản lý của nhà nước, các đại hội tiếp theo
cho đến nay vẫn nhấn mạnh vai trò của Nhà nước là yếu tố quan trọng quyết
định phát triển của nền kinh tế. Vì vậy Đảng và Nhà nước cần có những chính
sách cụ thể hơn nữa để nâng cao mặt tích cực của thị trường hạn chế tối đa mặt
tiêu cực. Đồng thời Nhà nước phải nâng cao hơn nữa hiệu lực pháp lý trong
điều tiết vĩ mô của nền kinh tế. Phất triển kinh tế gắn liền với phát triển văn hóa
xã hội nhằm làm cho dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu hướng dẫn sinh viên tự học môn đường lối của Đảng cộng sản

Việt Nam học viện Ngân hàng.
2.
3.
4.
5.
6. Các văn kiện đại hội Đảng.
7. Tạp chí quản lý nhà nước


25



×