TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI
MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
CHỦ ĐỀ 6 : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
Giảng viên hướng dẫn : Cô Nguyễn Thị Thảo Nguyên
Sinh viên thực hiện : Trịnh Nguyễn Quỳnh Trang – 31201021074
(Trưởng Nhóm)
Mai Thu Hà – 31201020236
Nguyễn Ngọc Tường Vy – 31201021198
Đỗ Thị Kim Thoa – 31201023557
Dương Hải Yến – 31201023821
Đỗ Ngọc Vĩnh Hằng – 31201023376
Trương Thái Vượng – 31201021793
Nhóm : 6
Lớp : 21C1HCM51000432
(Chiều thứ 7)
Bài Làm
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TTHCM VỀ CON NGƯỜI
a) Cơ sở lý luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người mới chiếm một vị trí trung tâm, là chiều sâu
nhất trong tư duy lý luận của Người, chứa đựng những giá trị khoa học vô cùng to lớn.
Điều cốt lõi nhất trong tư tưởng, trong cuộc đời hoạt động cách mạng của chủ tịch Hồ
Chí Minh là lòng yêu nước thương dân, yêu thương con người sâu sắc, đấu tranh
khơng mệt mỏi vì con người, sẵn sàng làm tất cả những gì có thể để đảm bảo tự do,
hạnh phúc của con người.
Đó là nhân sinh quan, 1 triết lý nhân văn sâu sắc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người với nội dung sâu sắc mới mẻ, có ý
nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng giáo dục và đào tạo con người Việt
Nam. Trên cơ sở quán triệt quan điểm giáo dục đạo lý để làm người, coi con người là
vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc của con người. Con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người còn căn dặn Đảng và Nhà
nước ta phải ghi nhớ điều “đầu tiên là công việc đối với con người”. Đảng ta xác định
giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.
b) Cở sở thực tiễn
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng Hồ Chí Minh đã xây dựng những thế hệ con
người mới vừa có đức vừa có tài, làm nên những chiến thắng thần kì trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc và con người, cả nước đã bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội và giành được những thắng lợi rực rỡ.
Bối cảnh quốc tế hiện nay trải qua nhiều biến đổi nhanh chóng và sâu sắc, sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, mở ra một thời đại kinh tế tri thức và xã hội
thơng tin tồn cầu. Vấn đề con người và xây dựng chiến lược con người, phát triển con
người, phát triển nguồn nhân lực, phát huy nhân tố con người trong quá trình phát triển
kinh tế xã hội đã trở thành vấn đề bức thiết đối với mỗi quốc gia, dân tộc.
Sự phát triển của con người đã trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng trong việc
xếp hạng các nước trên thế giới.
Dưới ánh sáng tư tưởng HCM, Đảng ta đã nhấn mạnh việc chăm lo hạnh phúc của
con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, phấn đấu làm cho nhân dân có
cuộc sống no đủ, có đời sống vật chất tinh thần ngày càng nâng cao, quan hệ xã hội
lành mạnh, lối sống văn minh.
Xét đến cùng đó là tư tưởng phấn đấu cho độc lập tự do, hạnh phúc của con người,
của dân tộc, của nhân loại.
2. QUAN NIỆM HCM VỀ CON NGƯỜI
a) Con người được nhìn nhìn như một chỉnh thể
Mối quan hệ giữa " cá nhân" và " xã hội" : quan hệ gia đình, dịng tộc, làng xã,
quan hệ giai cấp, dân tộc...
Mối quan hệ xã hội: quan hệ chính trị, đạo đức, văn hóa,tơn giáo...
Đa dạng trong hoàn cảnh xuất thân, điều kiện sống, làm việc.
Đa dạng trong tính cách, khát vọng, phẩm chất, khả năng cũng như năm ngón tay
dài, ngắn khác nhau, nhưng đều hợp nhau lại nơi bàn tay: mấy mươi triệu người Việt
Nam, có người thế này, thế khác, nhưng đều cùng là nịi giống Lạc Hồng.
Hồ Chí Minh xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối lập: thiện và
ác hay và dở, tốt và xấu, hiền và dữ,... bao gồm cả tính người - mặt xã hội và tính bản
năng - mặt sinh học của con người. Theo Hồ Chí Minh, con người có tốt có xấu,
nhưng "dù là xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có tình có nghĩa”.
Người giải thích “ Chữ Người” – nghĩa hẹp là gia đình, anh em , họ hàng,bạn bè; nghĩa rộng là đồng bào cả nước, rộng hơn nữa là lồi người. Con người ln có xu
hướng vươn lên cái Chân - Thiện - Mỹ mặc dù "có thế này, thế khác".
Khi bàn về chính sách xã hội, cũng như ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hồn cảnh,
Người ln quan tâm đến nhu cầu, lợi ích của con người với tư cách nhu cầu chính
đáng.
Đem lại lợi ích cho con người chính là tạo ra động lực vơ cùng lớn lao cho sự
nghiệp chung, vì nếu như những nhu cầu, lợi ích của mỗi cá nhân khơng được quan
tâm thỏa đáng thì tính tích cực của họ sẽ không thể phát huy được.
Trong khi phê phán một cách nghiêm khắc chủ nghĩa cá nhân, Người viết: "Đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là "giày xéo lên lợi ích cá nhân“. Mỗi người
đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình
mình".
b) Con người cụ thể lịch sử
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh khơng tồn tại như một phạm trù bản thể luận
có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa, mà được đề cập đến một cách cụ thể, đó là
nhân dân Việt Nam.
Hồ Chí Minh cũng dùng khái niệm "con người" theo nghĩa rộng trong một số
trường hợp ("phẩm giá con người", "giải phóng con người", "người ta", "con người",
"ai"...), nhưng đặt trong một bối cảnh cụ thể và một tư duy chung, còn phần lớn.
Người xem xét con người trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp, theo giới
tính (thanh niên, phụ nữ), theo lứa tuổi (phụ lão, nhi đồng), nghề nghiệp (cơng nhân,
nơng dân, trí thức...), trong khối thống nhất của cộng đồng dân tộc (sĩ, nông, công,
thương) và quan hệ quốc tế (bầu bạn năm châu, các dân tộc bị áp bức, bốn phương vơ
sản).
Đó là con người hiện thực, cụ thể, khách quan.
c) Bản chất con người mang tính xã hội, là con người xã hội, là thành viên của
một cộng đồng xã hội
Hồ Chí Minh cũng cho ta những hiểu biết về yếu tố sinh vật của con người . Theo
Người, "dân dĩ thực vi thiên " , " dân chỉ biết rõ giá trị của tự do , độc lập khi mà dân
được ăn no , mặc đủ " , Theo Người , trong mọi đường lối chủ trương , chính sách ,
nhiệm vụ, phải thực hiện ngay làm cho dân có ăn , có mặc có chỗ ở ,học hành.
Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất. Trong quá trình lao động, sản xuất,
con người dần nhận thức được các hiện tượng, quy luật của tự nhiên, của xã hội: hiểu
về mình và hiểu biết lẫn nhau..., xác lập các mối quan hệ giữa người với người.
Con người là sản phẩm của xã hội. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, con người
là sự tổng hợp các quan hệ xã hội nhiều chiều từ hẹp đến rộng, chủ yếu bao gồm các
quan hệ: anh, em: họ hàng: bầu bạn: đồng bào, loài người. Đối với cộng đồng xã hội,
con người là một thành viên; một chế độ xã hội ( làm chủ hoặc nô lệ bị áp bức); quan
hệ với tự nhiên( một bộ phận không thể tách rời)
Nét đặc sắc trong quan niệm của Hồ Chí Minh về con người là nhìn nhận đặc điểm
con người Việt Nam với những điều kiện lịch sử cụ thể , với những cấu trúc kinh tế, xã
hội cụ thệ . Cách tiếp cận này đi đến việc giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp
rất sáng tạo , không chỉ về mặt đường lối cách mạng mà cả về mặt con người .
Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong khi lãnh đạo nhân dân cả
nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Hồ Chí
Minh ln tin ở dân, hết lòng thương yêu, quý trọng nhân dân, biết tổ chức và
phát huy sức mạnh nhân dân. Người đã coi con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con
người, đó chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con người của
Người thông qua thực tiễn cách mạng, trở thành một sức mạnh vật chất to lớn
và là nhân tố quyết định thắng lợi của chính sự nghiệp cách mạng.
3. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRỊ CỦA CON NGƯỜI
a) Con người là mục tiêu của cách mạng.
Con người là mục tiêu của cách mạng..Con người là chiến lược số một trong tư
tưởng và hành động của Hồ Chí Minh. Mục tiêu này được cụ thể hóa trong 3 giai đoạn
cách mạng ( giải phóng dân tộc – xây dựng chế độ dân chủ nhân dân – tiến dần lên chủ
nghĩa xã hội ) nhằm giải phóng dân tộc, xã hội, giai cấp, con người.
Giải phóng dân tộc là xóa bỏ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, giành lại độc lập
cho dân tộc. Con người trong giải phóng dân tộc là cả cộng đồng dân tộc Việt Nam,
phạm vị thế giới là giải phóng các dân tộc thuộc địa.
Giải phóng xã hội là đưa xã hội phát triển thành một xã hội khơng có chế độ người
bóc lột người, có nền sản xuất phát triển cao bền vững, văn hóa tiến tiến, mọi người là
chủ và làm chủ xã hội, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, văn minh, tiến bộ. Xã
hội đó phát triển cao nhất là xã hội cộng sản giai đoạn đầu là xã hội – xã hội chủ nghĩa.
Giải phóng con người là xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột, nơ dịch con người; xóa
bỏ các bỏ các điều kiện xã hội làm tha hóa con người, làm cho con người được hưởng
tự do, hạnh phúc, phát huy tiềm năng sáng tạo, làm chủ xã hội, làm chủ tự nhiên, làm
chủ bản thân, phát triển toàn diện theo bản chất tốt đẹp con người.
Các “giải phóng” đó kết hợp chặt chẽ với nhau, giải phóng dân tộc đã có một phần
giải phóng xã hội và giải phóng con người; đồng thời nối tiếp nhau, giải phóng dân tộc
mở đường cho giải phóng xã hội, giai cấp, con người.
Năm 1911, giữa lúc đất nước đang bị xâm lược, nhân dân phải chịu cảnh lầm than,
Người ra đi với ý chí” quyết giải phóng gơng cùm nơ lệ cho đồng bào”, “làm sao cho
nước ta hoàn toàn được độc lập, dân ta được hồn tồn tự do, đồng bào ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Ở Hồ Chí Minh, có niềm tin vững chắc và trí tuệ, bản lĩnh của con người, có sự
cảm thơng sâu sắc với thân phận những người cùng khổ, nó khác với sự cảm thông
kiểu tôn giáo. Người xác định, “nếu nước độc lập mà dân khơng hưởng hạnh phúc thì
độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Vì vậy, phải làm cho dân có ăn, làm cho dân có
mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành.
Con người là mục tiêu cách mạng nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng vì lợi ích chính đáng của con người, việc gì lợi cho dân, dù nhỏ mấy – ta phải
hết sức làm, việc gì hại cho dân, dù nhỏ mấy – ta hết sức tránh.
Mục tiêu của cách mạng là giải phóng con người, mang lại tự do, hạnh phúc
cho con người; nhưng sự nghiệp giải phóng là do chính con người thực hiện.
Với tư cách là mục tiêu của cách mạng, mọi chủ trương đường lối, chính sách
của Đảng phải vì dân, vì lợi ích của dân. Bao nhiêu lợi ích cũng vì dân. Dân
trước hết là giai cấp công nhân, liên minh với nông dân, trí thức cũng là một
tầng lớp cần coi trọng.
b) Con người là động lực của cách mạng
Theo Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất, động lực, nhân tố quyết định thành
công của sự nghiệp cách mạng.
Người nhấn mạnh “ mọi việc đều do con người làm ra”; “ trong bầu trời khơng gì
q bằng nhân dân, trong thế giới khơng gì q bằng sức mạnh đồn kết của nhân
dân”. “Ý dân là ý trời”; “ Dễ trăm lần khơng dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng
xong”. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nhân dân là những người sáng tạo
chân chính ra lịch sử thơng qua các hoạt động thực tiễn cơ bản nhất như lao động sản
xuất, đấu tranh chính trị - xã hội, sáng tạo ra các giá trị văn hóa. Nói đến nhân dân là
nói đến lực lượng, trí tuệ, quyền hành, lịng tốt, niềm tin, đó chính là gốc, là động lực
cách mạng.
Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả nước, song
trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân.
Không phải mọi con người đều trở thành động lực, mà phải là những con người
được giác ngộ, có tổ chức, có lãnh đạo. Chính vì thế, vai trị của Đảng, cách mạng lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng là vơ cùng quan trọng. Bên cạnh đó, phải
hết sức coi trọng và phát huy nhân tố con người, dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra, tránh thái độ xa nhân dân, khinh nhân dân, sợ nhân dân, không hiểu biết nhân dân,
không biết khắc phục chủ nghĩa cá nhân là thứ vi trùng rất độc đẻ ra hàng trăm thứ
bệnh nguy hiểm.
Với tư cách là động lực của cách mạng, cần phải tổ chức và thức tỉnh hàng chục
triệu nông dân, phải thức tỉnh và tổ chức tồn thể giai cấp cơng nhân. Có như
vậy mới tạo ra sức mạnh to lớn để có thể làm cách mạng thành cơng. Họ phải
có trí tuệ, bản lĩnh, văn hố, đạo đức, được ni dưỡng trên nền truyền thống
lịch sử và văn hoá hàng ngàn năm của dân tộc. Lịch sử đã chứng minh, quần
chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo cơ bản, có dân là có tất cả. Xuất phát từ
sự đánh giá đúng con người và hiểu biết con người, con người là động lực chỉ
có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo. Đảng cách mạng
lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, qua phong trào cách mạng của
quần chúng, Đảng sẽ nhân sức mạnh của con người lên gấp bội lần.
4. QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN LƯỢC TRỒNG NGƯỜI.
Trong Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 5 đã nói
rằng “Vơ luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế
cả”. Thật vậy, để xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu
mạnh hùng cường chúng ta cần có những con người xã hội chủ nghĩa “Vừa hồng, vừa
chuyên” nói rộng ra đó thực chất chính là hai mặt đức và tài trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Chăm lo, bồi dưỡng cho thế hệ sau được Hồ Chí Minh xác định là “chiến lược”
chứ khơng phải là “sách lược” tạm thời. Việt Nam sẽ không thể xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội nếu không có được chiến lược giáo dục - đào tạo, phát triển con
người toàn diện
a) Ý nghĩa của việc xây dựng con người:
Hồ Chí Minh khẳng định: “Trồng người” là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách
mạng, vừa cấp bách vừa lâu dài, có ý nghĩa chiến lược.
Xuất phát từ quan niệm coi con người là vốn quý nhất, là yếu tố quyết định đối với
sự thành bại của cách mạng, vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng. Hồ Chí
Minh rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo, rèn luyện con người.
Người nói đến “lợi ích mười năm trồng cây, trăm năm trồng người” và mục tiêu xây
dựng chủ nghĩa xã hội là những quan điểm mang tầm vóc chiến lược, cơ bản, lâu dài,
nhưng cũng rất cấp bách. Nó liên quan đến nhiệm vụ ”trước hết cần có những con
người xã hội chủ nghĩa” và “trồng người”. Tất cả những điều này phản ánh tư tưởng
lớn về tầm quan trọng có tính quyết định của nhân tố con người, tất cả vì con người,
do con người. Như vậy, con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển,
vừa nằm trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa
nằm trong chiến lược giáo dục – đào tạo theo nghĩa hẹp... nhằm phát huy cao nhất mọi
tiềm năng của con người.
“Trồng người” là cơng việc “trăm năm”, gian khổ, “khơng thể nóng vội “một sớm
một chiều” vừa vì lợi ích trước mắt vừa vì lợi ích lâu dài, là cơng việc của văn hóa
giáo dục. "Trồng người" phải được tiến hành thường xuyên trong suốt tiến trình đi lên
chủ nghĩa xã hội và phải đạt được những kết quả cụ thể trong từng giai đoạn cách
mạng. Nhiệm vụ "Trồng người" phải được tiến hành song song với nhiệm vụ phát triển
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. "Trồng người" phải được tiến
hành bền bỉ, thường xuyên trong suốt cuộc đời mỗi người, với ý nghĩa vừa là quyền
lợi, vừa là trách nhiệm của cá nhân đối với sự nghiệp xây dựng đất nước. Công việc
"trồng người" là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đồn thể chính trị-xã hội kết
hợp với tính tích cực, chủ động của từng người.
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội
chủ nghĩa”
CNXH sẽ tạo ra những con người XHCN, những con người XHCN lại là chủ thể
của toàn bộ sự nghiệp xây dựng CNXH. Khơng phải chờ cho kinh tế, văn hóa phát
triển cao rồi mới xây dựng con người XHCN, cũng không phải xây dựng xong con
người XHCN rồi mới xây dựng CNXH. Việc xây dựng con người phải được đặt ra từ
đầu và quan tâm trong suốt quá trình xây dựng CNXH. “Trước hết, cần có những con
người XHCN” có nghĩa là khơng phải tất cả mọi người phải và có thể trở thành con
người XHCN thật đầy đủ, thật hoàn chỉnh ngay một lúc, mà chỉ có nghĩa là trước hết
cần có những con người tiên tiến có được những nét tiêu biểu của XHCN như lý
tưởng, đạo đức, lối sống, tác phong XHCN. Qua đó để có thể làm gương và lơi cuốn
người khác. Đồng thời, họ cũng khơng ngừng được hồn thiện, được nâng cao, phát
triển tồn diện: Đức, Trí, Thể, Mỹ.
b) Tiêu chuẩn của con người XHCN
Có tư tưởng XHCN: có ý thức làm chủ, có tinh thần tập thể, có tư tưởng mình vì
mọi người, mọi người vì mình, có tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm,
quyết chí vươn lên, có tinh thần tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH.
Có đạo đức và lối sống XHCN: trung với nước, hiếu với dân, yêu thương con
người, cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư, có tinh thần quốc tế trong sáng, lối sống
lành mạnh.
Có tác phong XHCN: làm việc có kế hoạch, biện pháp, có quyết tâm, tổ chức, kỷ
luật, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, lao động hăng say, khơng sợ khó, sợ khổ,
làm việc vì lợi ích của XH, tập thể và của bản thân.
Có năng lực làm chủ: làm chủ bản thân, gia đình và cơng việc mình đảm nhiệm, có
đủ sức khỏe và tư cách tham gia làm chủ nhà nước và xã hội, thực hiện có kết quả
quyền cơng dân: phải khơng ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học cơng nghệ, chun mơn nghiệp vụ để làm chủ.
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng u cầu trong giáo dục đào tạo thế hệ cách mạng
cho đời sau cần hướng người được giáo dục tránh xa ba sự ham muốn đó là ham muốn
về tiền tài, danh vọng và quyền lực, Người còn cho rằng "phải chống tâm lý tự tư, tự
lợi, chỉ lo lợi ích riêng và sinh hoạt riêng của mình. Chống tâm lý ham sung sướng và
tránh khó nhọc. Chống thói xem khinh lao động nhất là lao động chân tay. Chống lười
biếng, xa xỉ. Chống cách sinh hoạt ủy mị, chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang”.
c) Phương pháp xây dựng con người
Để thực hiện chiến lược “Trồng người” có nhiều biện pháp, nhưng theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh, giáo dục đào tạo là quan trọng nhất. Người nhắc nhở rằng “hiền, dữ của
con người khơng phải tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên”. Sự học tập ở trong
trường có ảnh hưởng rất lớn cho tương lai của thế hệ. Theo Người, các cháu mẫu giáo,
tiểu học như tờ giấy trắng. Chúng ta vẽ xanh thì xanh, vẽ đỏ thì đỏ. Nói như vậy để
thấy giáo dục rất quan trọng trong việc xây dựng con người.
Người cho rằng, để “Trồng người” có hiệu quả, cần tiến hành đồng bộ các giải
pháp sau:
Trước hết, mọi người phải tự tu dưỡng, rèn luyện ý thức. Tu dưỡng hàng ngày, bền
bỉ suốt đời, gắn với thực tiễn CM. Trong khi xây dựng những đức tính tốt, phải có bản
lĩnh chống lại mọi thói hư tật xấu như lối sống bàng quan, vị kỉ cá nhân, thiếu tinh thần
trách nhiệm, chống tham nhũng, xa hoa, lãng phí,...
Chú trọng vào vai trò, sức mạnh tổ chức của cả hệ thống chính trị. Đó là vai trị của
chi bộ Đảng, của các tổ chức chính trị - xã hội như cơng đồn, đồn thanh niên, hội
phụ nữ, hội thanh niên,...
Thông qua các phong trào cách mạng như phong trào Thi đua yêu nước, Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, phong trào người tốt việc tốt, Uống nước nhớ
nguồn, Đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, xây dựng gia đình VH, làng, xã,
phường VH,... Đặc biệt phải dựa vào quần chúng theo quan điểm "dựa vào ý kiến của
dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta".
Song đó, việc nêu gương, nhất là người đứng đầu có ý nghĩa rất quan trọng. Hồ Chí
Minh thường nói đến "tu thân, chính tâm" thì mới có thể "trị quốc, bình thiên hạ" làm
những việc có lợi cho nước, cho dân. Văn hóa Phương Đơng cho thấy "một tấm gương
sống có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền" và "tiên trách kỷ, hậu trách
nhân". Hồ Chí Minh thường nhắc lại những điều ấy trong khi bàn biện pháp xây dựng
con người. Người nói rằng lấy gương người tốt, việc tốt hàng ngày để giáo dục lẫn
nhau là rất cần thiết và bổ ích.
5. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
Ở nước ta trong cách mạng XHCN hiện nay, chiến lược con người được đặt ra như
một đòi hỏi tất yếu và cấp bách của sự phát triển đất nước và là nguồn lực quyết định
để đẩy mạnh công cuộc đổi mới. Tư tưởng về chiến lược con người của Đảng ta đặt
trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Leenin trong đó tư tưởng C.Mác ln ln là
nền tảng. Ở VN, tư tưởng HCM là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng. Do vậy, sự nghiệp cách mạng và tiến trình lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta in đậm dấu ấn tư tưởng HCM trong đó có tư tưởng về con người.
Thực tiễn của quá trình cách mạng VN cũng chứng tỏ rằng trong những thời điểm
lịch sử hiểm nghèo, trong những tình thế hết sức khó khăn, con người VN đều rất sáng
tạo và năng động ln tìm ra những lối thoát, những đường hướng đi lên làm kinh
ngạc bạn bè quốc tế. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh: thời kì nào, cách mạng nào nếu
biết phát huy mạnh mẽ yếu tố con người, tạo điều kiện cho hoạt động sáng tạo của con
người thì con người VN ln biết “chuyển bại thành thắng”, chuyển từ tình thế khó
khăn thành lợi thế phát triển mới trong đó con người là động lực trung tâm.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, tiềm năng sáng tạo của con người VN đã và
đang được phát huy mạnh mẽ. Tuy nhiên có thể nhận thấy tiềm năng trí tuệ của con
người VN mà chúng ta chưa khai thác hết vẫn còn rất lớn.
Thực tiễn đổi mới cho thấy, chỉ với một cơ chế khốn 10 mà giai cấp nơng dân VN
đã phát huy tính năng động sáng tạo ghê gớm đủ sức làm thay đổi căn bản bộ mặt nền
nông nghiệp nước nhà. Với đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật có trình độ, đội ngũ trí
thức khá đơng đảo và giàu tiềm năng như hiện nay rất cần 1 cơ chế “khốn 10” làm bật
dậy và bừng sáng trí tuệ VN trong thời đại kinh tế tri thức. Như vậy, vấn đề mấu chốt là
cơ chế, chính sách. Chỉ cần xây dựng hệ thống cơ chế chính sách thích hợp là sẽ khơi
thông được nguồn lực con người cả trong và ngồi nước, cả tài lực và trí lực dường như
vơ tận. Điều đó sẽ tạo nên nội lực vơ cùng mạnh mẽ đưa đất nước tiến nhanh và sớm
trên con đường CNH, HĐH theo định hướng CNXH.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập rất nhiều vấn đề phải xây dựng con người mới
trong lòng nhân dân. Và trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay, trở về với tư tưởng
xây dựng con người mới làm nền tảng, làm bản lĩnh ta lại thấy sự đúng đắn sâu sắc và
tầm thời đại của Người. Chính vì vậy, Đảng ta phải lãnh đạo Nhà nước, các ban ngành
trong việc nâng cao giáo dục dân tộc giữ gìn truyền thống của đất nước để làm tăng
khả năng hội nhập giáo dục con người cũng với sự phát triển giáo dục của thế giới mà
không mất đi giá trị của nền giáo dục truyền thống.
Kết hợp giải phóng con người về mặt chính trị với giải phóng con người về
mặt kinh tế, văn hóa. Khơng ngừng phát triển sản suất để nâng cao đời sống vật
chất tinh thần của nhân dân.
-
-
Từ lúc ra đi tìm đường cứu nước để giải phóng đồng bào, giúp nhân dân có
cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc. Muốn có cuộc sống mới đó trước tiên phải
giành lại độc lập cho dân tộc, kế đó phải xây dựng vững mạnh chính trị, kinh tế
văn hóa, xã hội.
Đối với HCM, khơng có gì khác hơn là đáp ứng ngày càng cao lợi ích vật chất
tinh thần của nhân dân. Một xã hội mới là xã hội nhân dân được ấm no hạnh
phúc.
Đối với Người, nhân dân luôn là lực lượng vĩ đại và quyền lợi của nhân dân
luôn là tối thượng. Đó khơng chỉ là quyền độc lập dân tộc mà cịn là những lợi
ích vật chất liên quan cuộc sống thường ngày của mỗi người như ăn, mặc, học
hành.
Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả con người và chiến lược “
trồng người” những năm tới theo tư tưởng HCM
-
Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với vấn đề
phát triển đào tạo con người mới XHCN.
Đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, “chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau”.
Phát huy hiệu quả vai trị của đồn thanh niên và các đồn thể xã hội trong việc
hình thành nhân cách con người mới XHCN.
Kết hợp cơ sở đào tạo, nhà trường với doanh nghiệp, các ngành, các địa phương
trong nền giáo dục đào tạo con người mới.
Xây dựng môi trường xã hội trong sạch, lành mạnh, cơ sở cơ bản nhất cho lớp
trẻ học tập đấu tranh và tôi luyện thành con người mới XHCN.