Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Luận Văn Tư tưởng giáo dục của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệp phát triển giáo dục ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.41 KB, 29 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
----------------

TIỂU LUẬN
TRIẾT HỌC

ĐỀ TÀI:

TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA NHO GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG
CỦA NÓ ĐỐI VỚI NỀN GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Họ và tên:

Tạ Mạnh Quỳnh

Mã sinh viên:

2019604789

Mã lớp:

20202BM6034005

GVHD:

Nguyễn Duy Chức

Hà Nội, tháng 4 năm 2021



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................3
Lí do chọn đề tài..........................................................................................................3
Mục tiêu ...................................................................................................................... 4
PHẦN 1. BỐI CẢNH KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ NHỮNG NỘI DUNG TƯ
TƯỞNG GIÁO DỤC CHỦ YẾU CỦA NHO GIÁO.................................................5
1.1.

Bối cảnh lịch sử, kinh tế - xã hội xuất hiện tư tưởng giáo dục của Nho giáo5

1.1.1. Bối cảnh lịch sử, kinh tế - xã hội Trung Quốc cổ đại khi Nho giáo xuất hiện.5
1.1.2. Nguồn gốc và quá trình xuất hiện những tư tưởng giáo dục Nho giáo............6
1.2.

Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo....................7

1.2.1. Về quan niệm giáo dục...................................................................................7
1.2.2. Về mục tiêu giáo dục......................................................................................8
1.2.3. Về nội dung giáo dục......................................................................................8
1.2.4. Về phương pháp giáo dục...............................................................................9
1.2.5. Vai trò và vị trí người thầy trong quá trình giáo dục.....................................10
1.3.
Một số nhận xét, đánh giá mặt tích cực và hạn chế trong tư tưởng giáo dục
của Nho giáo..............................................................................................................11
1.3.1. Những giá trị tích cực trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo.......................11
1.3.2. Những hạn chế, nhược điểm trong tư tưởng của Nho giáo...........................12
PHẦN 2. QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC Ở VIỆT
NAM VÀ NHỮNG GIÁI PHÁP PHÁT HUY MẶT TÍCH CỰC, HẠN CHẾ MẶT
TIÊU CỰC TRONG TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA NHO GIÁO VÀO SỰ
NGHIỆP ĐỔI MỚI GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..................................14

2.1.
Quá trình đổi mới và phát triển giáo dục ở Việt Nam và sự cần thiết phải
vận dụng các giá trị tư tưởng giáo dục của Nho giáo trong sự nghiệp đổi mới và phát
triển giáo dục ở Việt Nam hiện nay...........................................................................14
2.1.1. Khái quát quá trình đổi mới và phát triển giáo dục ở Việt Nam hiện nay.....14
2.1.2. Sự cần thiết phải vận dụng các giá trị tư tưởng giáo dục của Nho giáo trong
sự nghiệp đổi mới và phát triển giáo dục ở Việt Nam hiện nay...............................16
2.2.
Những bài học kinh nghiệm từ giáo dục ở Trung Quốc và những giải pháp
phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo
vào sự nghiệp đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay...............................................19
2.2.1. Bài học từ giáo dục Trung Quốc và kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc kế
thừa các giá trị tư tưởng tích cực về giáo dục của Nho giáo....................................19
2.2.2. Những giải pháp phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực trong tư tưởng
giáo dục của Nho giáo vào sự nghiệp đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay.........21
1


Kết luận ....................................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................27

2


PHẦN MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Nho giáo là một trong những học thuyết triết học và chính trị - xã hội lớn nhất
trong lịch sử triết học Trung Hoa cổ đại. Mặc dù ra đời từ rất sớm nhưng Nho giáo đã
dành sự quan tâm đặc biệt đến con người, đặc biệt là vấn đề giáo dục con người. Đây
là một trong những nội dung triết học chủ yếu và nổi bật nhất của Nho giáo.

Nho giáo du nhập vào nước ta được khoảng 2000 năm và với hơn nghìn năm Bắc
thuộc, tư tưởng giáo dục Nho giáo đã để lại dấu ấn đậm nét trong đời sống chính trị xã hộ, đặc biệt là trong cách thức giáo dục của nước ta suốt chiều dài lịch sử. Cho đến
nay, cơng cuộc đổi mới của Việt Nam nó trải qua hơn hai mươi năm và đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước hiện nay, cùng với việc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, công tác giáo dục và đào tạo
đã và đang được đặt lên hàng đầu bởi việc phát triển giáo dục – đào tạo trực tiếp giúp
con người nâng cao trí tuệ, hiểu biết và khả năng vận dụng tri thức khoa học kỹ thuật
vào sản xuất để không ngừng phát triển kinh tế, xã hội nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân tiến tới thực hiện các mục tiêu cao cả mà Đảng và Nhà nước ta
đã đặt ra. Trước thực trạng nền giáo dục Việt Nam trong những năm gần đây đang gặp
phải nhiều khó khăn, vướng mắc, cũng khơng tránh khỏi những thiếu sót. Một trong
những vấn đề cấp bách hiện nay là cần đưa ra những giải pháp nhằm góp phần xây
dựng và phát triển nền giáo dục nước ta. Để làm được điều đó, một trong những việc
khơng thể bỏ qua là cần phải nghiên cứu tư tưởng giáo dục của các bậc tiền bối trong
lịch sử để kế thừa những tinh hoa trong quan điểm giáo dục của họ.
Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá tư tưởng giáo dục của Nho giáo và ảnh hưởng
của nó trong sự nghiệp phát triển giáo dục ở nước ta hiện nay là một vấn đề cấp thiết,
khơng chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn phát
triển giáo dục của nước ta hiện nay. Với những ý nghĩa như vậy, tôi chọn vấn đề: “Tư
tưởng giáo dục của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệp phát triển giáo
dục ở nước ta hiện nay” làm đề tài tiểu luận.

3


Mục tiêu
Mục đích của tiểu luận là trên cơ sở nghiên cứu các tư tưởng giáo dục của Nho
giáo đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt
tiêu cực trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo vào sự nghiệp đổi mới giáo dục ở Việt

Nam hiện nay.
Với mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Một là, trình bày một cách có hệ thống những tư tưởng giáo dục của Nho giáo
thông qua một số triết gia tiêu biểu, từ đó đánh giá những mặt tích cực cũng như hạn
chế trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo.
Hai là, chỉ ra những ảnh hưởng của tư tưởng giáo dục Nho giáo đối với sự nghiệp
phát triển giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
Ba là, bước đầu đề xuất một số định hướng vận dụng các giá trị tư tưởng giáo
dục của Nho giáo đối với việc phát triển giáo dục ở Việt Nam hiện nay

4


PHẦN 1. BỐI CẢNH KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ NHỮNG NỘI DUNG
TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CHỦ YẾU CỦA NHO GIÁO
1.1.

Bối cảnh lịch sử, kinh tế - xã hội xuất hiện tư tưởng

giáo dục của Nho giáo
Cũng như nhiều trường phái triết học khác trong lịch sử, tư tưởng triết học của
Nho giáo nói chung và tư tưởng giáo dục nói riêng được ra đời trong những hoàn cảnh
lịch sử cụ thể, gắn với những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của Trung Quốc thời
cổ đại
1.1.1.

Bối cảnh lịch sử, kinh tế - xã hội Trung Quốc cổ

đại khi Nho giáo xuất hiện
Tư tưởng triết học của Nho giáo ra đời chủ yếu trong thời kỳ Xuân thu - Chiến

quốc. Đó là thời kỳ tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ, bắt đầu thời kỳ đang lên của
chế độ phong kiến sơ kỳ.
Về lịch sử, Thời Xuân thu, xã hội Trung Quốc trải qua một thời kỳ giao thời từ
chế độ tông tộc chuyển sang chế độ gia trưởng, giá trị tư tưởng, đạo đức của xã hội cũ
bị băng hoại, những tư tưởng, đạo đức của chế độ xã hội mới còn manh nha và đang
trên đường xác lập. Điều đó có ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình ra đời và phát triển
của tư tưởng triết học nói chung và tư tưởng giáo dục của Nho gia trong thời kỳ này
nói riêng.
Về kinh tế, ở thời Xuân thu, nền kinh tế Trung Quốc đang chuyển từ thời đại đồ
đồng sang thời đại đồ sắt. Sự ra đời của tiền tệ và những người giàu có đã vượt lên lấn
át cả quyền lực của vua chúa. Tuy nhiên, nghề buôn bán ở Trung Quốc trong thời kỳ
này vẫn bị coi là nghề rẻ mạt nhất theo quan điểm “nông bản, thương mạt”.
Về chính trị - xã hội, Trong thời kỳ này, xã hội Trung Hoa không chỉ xảy ra chiến
tranh liên miên giữa các nước mà trong mỗi gia đình, cha con, anh em, vợ chồng cũng
thường xuyên xảy ra tranh cãi, chia lìa. Sự thay đổi lớn lao của lịch sử, sự phát triển
của lực lượng sản xuất làm cho mâu thuẫn giữa các tầng lớp trong xã hội ngày càng
tăng, những giá trị đạo đức bị xáo trộn, trong xã hội Trung Quốc thời kỳ này đã đặt ra
một vấn đề cấp bách cho các nhà triết học:”Cần phải có những quan điểm mới mẻ về
con người và giáo dục con người để giữ gìn đạo lý luân thường của xã hội, để đảm bảo
5


trật tự xã hội. Tư tưởng giáo dục của Nho gia ra đời trong thời kỳ này đáp ứng những
yêu cầu, đỏi hỏi bức thiết của lịch sử xã hội”.
1.1.2.

Nguồn gốc và quá trình xuất hiện những tư

tưởng giáo dục Nho giáo
Trong lịch sử triết học Trung Hoa cổ đại, Khổng Tử là người đầu tiên đặt vấn đề

về bản tính con người. Ông viết: “nhân chi sinh dã trực” nghĩa là con người ta khi sinh
ra hoàn toàn ngây thơ, trong trắng, nguyên sơ, tự nhiên, chưa chịu sự tác động của
ngoại cảnh và của các nhân tố xã hội. Tư tưởng đó được kết tinh trong một luận điểm
nối tiếng: “Người ta tất thảy đều giống nhau vì ai nấy đều có bản tính ngay thật nhưng
bởi nhiễm thói quen nên họ thành ra khác nhau”
Kế thừa tư tưởng “tính tương cận” của Khổng Tử, Mạnh Tử đã phát triển học
thuyết tính người của Nho giáo lên một nấc thang mới khiến tên tuổi của ông gắn liền
với học thuyết tính thiện. Theo Mạnh Tử, bản tính thiện của con người sinh ra đã có.
Đó là do trời phú. Theo đó, con người sinh ra đã có bốn đức là nhân, nghĩa, lễ, trí ứng
với bốn thịnh đức của trời là: nguyên, hanh, lợi, trinh. Bốn đức đó của con người bắt
nguồn từ tứ đoan hay bốn đầu mối của thiện, còn gọi là thiện đoan.
Cũng là một nhà Nho nhưng tư tưởng về tính người nhưng Tuân Tử lại hoàn toàn
khác với Mạnh Tử. Tuân Tử cho rằng bản tính của con người sinh ra đã ác. Điều đó
bắt nguồn từ bản năng sinh lý của con người khi sinh ra đã có lịng ham muốn như mắt
ham muốn màu sắc, tai thích âm thanh, miệng khoái mùi vị, tai chuộng lợi lộc, da thịt
thú khoái lạc. Trong thiên Tính ác, ông viết: “Tính con người, sinh ra là hiếu lợi, thuận
theo tính đó thì thành ra tranh đoạt lẫn nhau mà sự theo từ nhượng không có; sinh ra là
đố kị, thuận theo tính đó thì thành ra tàn tặc, mà lịng trung tín khơng có; sinh ra có
lịng muốn của tai mắt, có lịng thích về thanh sắc, thuận theo tính đó thì thành ra dâm
loạn mà lễ nghĩa văn lý khơng có. Như vậy, trong quan điểm của Tuân Tử, thiện, ác
không chỉ thuộc về tâm tính mà nó cịn mang tính xã hội. Tuân Tử khẳng định thánh
nhân không phải sinh ra đã có, cũng khơng phải là cái gì q to tát: ”thánh là do công
phu của người chứa nhiều thiện mà thành”.
Như vậy, dù đứng trên những quan điểm khác nhau về bản tính của con
người nhưng điểm chung mà chúng ta có thể nhìn thấy ở ba nhà triết học thuộc trường
phái Nho gia là theo để giữ được tính thiện, tránh cho con người làm điều ác cần phải
6


thi hành các biện pháp giáo hóa, dưỡng dục. Đó là những tiền đề lý luận trực tiếp cho

việc hình thành tư tưởng giáo dục của Nho giáo.
1.2.

Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng giáo dục của

Nho giáo
Nội dung tư tưởng giáo dục của trường phái Nho giáo là những quan điểm về
giáo dục nói chung, về mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục và
vai trò của người thầy trong giáo dục.
1.2.1.

Về quan niệm giáo dục

Trong tư tưởng của các nhà triết học thuộc trường phái Nho giáo, nhận thấy vấn
đề đào tạo con người rất được Nho giáo quan tâm, chú trọng. Cho dù quan niệm bản
tính con người là thiện hay ác thì tất cả họ đều cần phải được giáo dục. Nho giáo đều
quan niệm giáo dục là biện pháp để hướng con người tới những phẩm chất cao quý
như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đó là những giá trị chuẩn mực của con người trong xã hội
phong kiến.
Nho giáo mà tiêu biểu là Khổng Tử đã đưa ra những quan niệm rất cụ thể về
giáo dục. Quan niệm “hữu giáo vô loại” của Khổng Tử đã mở đường cho việc học của
Trung Quốc lúc bấy giờ rất phát triển, khiến cho nhiều người bình dân cũng có cơ hội
được tiếp cận với giáo dục. Quan điểm giáo dục có vị trí và vai trò quan trọng trong tư
tưởng của Nho giáo bởi theo họ, giáo dục là công cụ hữu hiệu nhất và là con đường
ngắn nhất để đào tạo lớp người cai quản và thống trị xã hội theo hệ tư tưởng phong
kiến. Đó là lớp người quân tử. Thơng qua giáo dục, Nho giáo cịn muốn trùn bá hệ
tư tưởng phong kiến của giai cấp thống trị thấm sâu đến mọi tầng lớp trong xã hội (đặc
biệt là đối với giai cấp bị trị) và chiếm địa vị độc tôn để đảm bảo ổn định trật tự xã hội
lúc bấy giờ. Khổng Tử là một người đánh giá rất cao vai trò của giáo dục, đào tạo con
người trong việc ổn định và phát triển xã hội. Theo ơng, giáo dục khơng chỉ có vai trị

quan trọng trong việc hình thành nhân cách mỗi cá nhân mà còn quyết định đến vận
mệnh và tương lai của cả một dân tộc.
Như vậy, tư tưởng về giáo dục theo quan điểm của Nho giáo là coi giáo dục
chính là cách thức, là phương tiện để giáo hóa cho con người kể cả về tri thức và đạo
đức. Theo lẽ đó, con người ai cũng cần phải được giáo dục. Giáo dục chính là công cụ
7


cần thiết để ổn trịnh trật tự xã hội và làm cho con người ngày càng hoàn thiện hơn. Vì
vậy, giáo dục là một việc làm không thể thiếu được trong xã hội.
1.2.2.

Về mục tiêu giáo dục

Tư tưởng về giáo dục của Nho giáo ra đời trên cơ sở của lịch sử, kinh tế, văn hóa,
chính trị của xã hội Trung Hoa cổ đại và xuất phát từ quan niệm về bản tính con người
của Nho giáo. Những cơ sở đó chính là những địi hỏi bức bách của thực tiễn đặt ra.
Nho giáo đã đưa ra một số mục tiêu cụ thể của giáo dục như sau:
Thứ nhất, giáo dục là để hình thành nhân cách lý tưởng. Theo quan điểm của Nho
giáo, mục đích cao nhất của giáo dục là đào tạo ra lớp người quân tử có đủ đức và tài
để tham gia gánh vác công việc quốc gia, để giúp vua, giúp nước.
Thứ hai, giáo dục là để đào tạo ra đội ngũ quan lại nhằm giúp ích cho nước nhà.
Điều đó được thể hiện qua tư tưởng “Học trí dĩ dũng”, tức là học để ứng dụng có ích
cho quốc gia xã hội. Đây được coi là mục đích cao nhất của người học.
Thứ ba, giáo dục là để tỏ cái đức sáng, đạt tới chỗ chí thiện. Để làm được điều
đó, mỗi nho sinh cần phải thường xuyên có sự tu thân, rèn luyện hàng ngày nhưng:
“Muốn tu thân thì phải chính tâm. Muốn chính tâm thì trước phải khiến cho ý nghĩ
thành thật. Muốn ý nghĩ thành thật thì trước phải hiểu thấu đáo. Hiểu thấu đáo ở chỗ
nghiên cứu sự vật cho rõ ràng”.
Như vậy,mục đích chính của giáo dục theo quan điểm của Nho giáo là nhằm đào

tạo ra những con người lý tưởng, có sự hoàn thiện cả về đạo đức, nhân cách cũng như
tri thức, lối sống.
1.2.3.

Về nội dung giáo dục

Theo Khổng Tử, trong xã hội có năm mối quan hệ giữa người và người. Đó là
giữa: vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bạn - bè. Trong đó, Khổng Tử tập
trung nhấn mạnh vào ba mối quan hệ (còn gọi là Tam cương): vua - tôi, cha - con,
chồng - vợ. Trong gia đình, điều cơ bản của cái “đạo làm người” của người con là phải
có đức hiếu, “đạo làm người” của bậc làm cha mẹ là phải có đức từ. Nếu trong gia
đình quan trọng nhất là đạo hiếu thì ngoài xã hội quan trọng nhất là đạo trung. Đạo
hiếu là cơ sở của đạo trung. Trong quan niệm của Nho giáo Tiên Tần như Khổng Tử và
Mạnh Tử, quan hệ vua - tôi là mối quan hệ hai chiều, chế ước lẫn nhau theo đúng tinh
thần: quân nhân - thần trung.
8


Ngoài nội dung giáo dục “đạo làm người” cho con người, Khổng Tử còn chủ
trương giáo dục “đức” (hay là đạo đức) cho con người. Đức là sự khái quát những giá
trị cơ bản của con người, là những chuẩn mực, những quy phạm mang nội dung đạo
đức mà mỗi con người cần phải có.
Khổng Tử chủ trương giáo dục lễ cho con người bởi theo ông, lễ là một trong
những chuẩn mực, những quy tắc đạo đức cơ bản, là yêu cầu có tính chất bắt buộc với
mọi hành vi ứng xử của con người trong các mối quan hệ xã hội. Khổng Tử nói:
“Cung kính mà thiếu lễ thì khó nhọc, cẩn thận mà thiếu lễ thì nhút nhát, cương cứng
mà thiếu lễ thì loạn, thẳng thắn mà thiếu lễ thì nóng gắt”. Coi trọng việc giáo dục đức
lễ là một nội dung mới hết sức tiến bộ trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử.
Một nội dung quan trọng nữa trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử là thuyết
chính danh định phận.

Bên cạnh việc giảng dạy đạo lý, đạo làm người cho mọi người, Khổng Tử còn
dạy học trò văn chương và lục nghệ. Văn là gồm thi, thư, lễ, nhạc, xuân thu; còn lục
nghệ bao gồm sáu môn như: lễ, nhạc, xạ (bắn cung), ngự (đánh xe), thư (viết chữ), số
(toán pháp).
Như vậy, trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo, nội dung chủ yếu của giáo dục là
đạo đức, lễ nghĩa - những nguyên tắc ứng xử có tính chuẩn mực. Những phạm trù căn
bản nhất trong tư tưởng về nội dung giáo dục của Nho gia là nhân, lễ, nghĩa, trí, dũng,
nhạc… trong đó chữ nhân có nội hàm sâu rộng nhất. Đây là nội dung sâu sắc, có tác
dụng giáo hóa cho con người, giúp con người hướng đến những giá trị tốt đẹp.
1.2.4.

Về phương pháp giáo dục

Không chỉ đưa ra tư tưởng về mục đích giáo dục, nội dung giáo dục, Nho giáo
còn đưa ra nhiều quan điểm về phương pháp giáo dục như sau:
Một là, phương pháp biết phân loại học trị. Dạy học vốn khơng phải là một
ngun tắc bất biến, áp dụng đồng nhất cho tất cả mọi người. Theo Khổng Tử, để đạt
được mục đích của giáo dục cũng như để triển khai đầy đủ nội dung giáo dục thì trong
quá trình giáo dục phải phân biệt ra các đối tượng khác nhau để có những biện pháp
giáo dục cụ thể, phù hợp với từng người, từng đối tượng.

9


Hai là, phương pháp kết hợp học với hành, học tập với tư duy. Đây là phương
pháp đòi hỏi lời nói phải gắn liền với việc làm, phải thực hành điều đã học và đem tri
thức của mình vận dụng vào cuộc sống.
Ba là, phương pháp coi trọng tinh thần tự giác, sự nỗ lực của người học. Khi đề
ra các phương pháp giáo dục, Nho giáo đều nhấn mạnh cần phải đề cao tinh thần tự
giác của người học. Để việc học đạt kết quả tốt, người học cần phải chủ động, tự giác.

Bốn là, phương pháp thiết lập các mối quan hệ trong q trình học. Đó là mối
quan hệ giữa những người học, giữa thày và trò, dạy và học.
Năm là, phương pháp “ôn cố tri tân” (ơn cũ để biết mới). Phương pháp này địi
hỏi người học thường ngày cần xem đi xem lại những điều đã học để ghi nhớ trong
lịng, từ đó mà tìm hiểu thêm, biết thêm những điều mới, ôn lại việc xưa mà biết việc
nay và việc sau.
Sáu là, phương pháp “nêu gương”. Trong các phương pháp giáo dục của mình,
Khổng Tử đặc biệt đề cao phương pháp “Nêu gương”. Theo ông, không có phương
pháp nào hiệu nghiệm bằng “dĩ thân vi giáo” và cũng khơng có phương pháp nào khó
thực hiện bằng phương pháp ấy.
Trên đây là những phương pháp học tập cơ bản trong nội dung về phương pháp
giáo dục của Nho giáo. Những nhà Nho đã đưa ra những phương pháp rất cụ thể, thiết
thực nhằm giúp cho học trị có thể lĩnh hội được tri thức, khơng ngừng hoàn thiện bản
thân mình.
1.2.5.

Vai trị và vị trí người thầy trong q trình

giáo dục
Khơng chỉ bàn đến mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo
dục, chúng tơi nhận thấy Nho giáo cịn bàn đến vai trị của người thầy trong giáo dục.
Khổng Tử - một người thầy được người đời sau vinh xưng là “vạn thế sư biểu” (người
thầy của mn đời) ln có ý thức về trách nhiệm, vai trò của người thầy trong hoạt
động dạy học. Theo ông, người thầy phải làm những công việc như: chỉ cho học trò
biết phương pháp học tập phù hợp, gợi ý để học trò suy nghĩ và giải đáp những thắc
mắc, vướng mắc của trị chứ khơng phải là người nhồi nhét kiến thức cho học trò của
mình. Người thầy khơng phải là người thợ dạy sách, học trị cũng khơng phải là cái giá

10



đựng sách. Quá trình dạy và học là quá trình trao đổi giữa thầy và trị, giúp cho học trị
có kiến thức, chủ động để có thể ứng phó trong mọi hoàn cảnh.
Tư tưởng của Khổng Tử về vai trò, vị trí của người thầy đã được Nho giáo sau
này kế thừa và phát triển thêm. Tuân Tử - một nhà Nho ở thời Chiến quốc nổi tiếng với
học thuyết tính ác cũng đề cao vai trò to lớn của người thầy trong việc giáo dục con
người từ bỏ tính ác để hướng đến những điều thiện. Nếu có thầy, nếu ra sức tu dưỡng,
rèn luyện, học tập có thể cải hoá trở nên thiện được cũng như “cây cong phải đợi uốn,
hơ nóng rồi kéo ra, sau mới thẳng được. Đồ kim khí cùn nhụt, ắt phải mài giũa rồi sau
mới sắc bén được. Cái tính của con người ta cũng vậy, ắt phải có thầy, có phép dạy bảo
rồi sau mới có lễ nghĩa và mới trị” . Bằng sự giáo hoá, tích thiện, bất cứ người nào
cũng có thể trở thành quân tử.
Như vậy, theo quan điểm của Nho giáo, người thầy đóng một vai trị rất quan
trọng trong q trình giáo dục. Người thầy khơng chỉ có vai trị định hướng cho học trị
mà cịn giúp cho học trị có thể bỏ ác, tích thiện, hướng đến những giá trị tốt đẹp của
đạo đức, nhân cách. Do đó, có thể nói, để việc giáo dục thật sự có hiệu quả khơng thể
thiếu vai trị của người thầy.
1.3.

Một số nhận xét, đánh giá mặt tích cực và hạn chế

trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo.
Tư Tư tưởng triết học nói chung và tư tưởng giáo dục của Nho giáo nói riêng đã
từng có một ảnh hưởng to lớn đến đời sống chính trị - xã hội không chỉ của Trung
Quốc mà cả với rất nhiều nước châu Á, trong đó có Việt Nam. Nó đã để lại dấu ấn đậm
nét trong đường lối giáo dục của nhiều quốc gia trong suốt thời kỳ lịch sử lâu dài. Sở
dĩ có được những dấu ấn đậm nét đó là vì tư tưởng giáo dục của Nho giáo đã chứa
đựng nhiều yếu tố hợp lý, đã trở thành công cụ hữu hiệu của nhiều triều đại lịch sử
trong việc giáo hóa dân chúng để giữ gìn trật tự xã hội. Tuy nhiên, tư tưởng giáo dục
của Nho giáo ra

đời trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Trung Quốc thời Xuân thu - Chiến
quốc nên cũng không tránh khỏi những nhược điểm, hạn chế.

11


1.3.1.

Những giá trị tích cực trong tư tưởng giáo dục

của Nho giáo
Tư tưởng giáo dục của Nho giáo từ quan niệm chung về giáo dục, mục đích giáo
dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục đều chứa đựng nhiều yếu tố tích cực.
Thứ nhất, về quan niệm giáo dục. Nho giáo cho rằng giáo dục là một việc làm
cần thiết vì mỗi con người dù thiện hay ác đều cần phải được giáo dục.Nho giáo đã
chủ trương “hữu giáo vô loại”. Nho giáo chủ trương xây dựng một nền giáo dục cho
tất cả mọi người, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn là một quan điểm hoàn toàn
mới mẻ.
Thứ hai, về mục đích giáo dục. Mục đích giáo dục của Nho giáo như đã trình bày
ở trên là nhằm truyền bá sâu rộng tư tưởng nhân nghĩa vào trong nhân dân để đào tạo
những con người biết sống đúng với danh phận của mình nhằm ổn định trật tự xã hội.
Đây là một quan điểm rất mới mẻ và tiến bộ so với thời đại bấy giờ.
Thứ ba, về nội dung giáo dục. Nội dung chủ yếu của giáo dục theo quan điểm
của các Nho giáo là giáo dục đạo làm người. Trong bối cảnh xã hội thời Xuân thu Chiến quốc, khi trật tự xã hội bị đảo lộn, đạo đức bị băng hoại, nhân luân bị xáo trộn
thì việc Nho giáo đưa ra nội dung giáo dục đạo đức là hết sức cần thiết và hữu ích, góp
phần to lớn trong việc thiết lập lại trật tự xã hội.
Thứ tư, về phương pháp giáo dục. Trong phương pháp giáo dục của Nho giáo
chứa đựng nhiều điểm tích cực và tiến bộ. Nho giáo đưa ra những phương pháp rất cụ
thể như dạy từ xa đến gần, từ dễn đến khó, tùy theo từng đối tượng mà áp dụng những
phương pháp dạy học khác nhau, kết hợp giữa học tập và suy nghĩ, học và hành, phát

huy ý thức và tính sáng tạo của người học, kết hợp giữa thầy và trò trong giáo dục.
1.3.2.

Những hạn chế, nhược điểm trong tư tưởng

của Nho giáo
Bên cạnh những điểm tiến bộ, tích cực, tư tưởng giáo dục của Nho giáo cũng
không tránh khỏi một số điểm hạn chế, mâu thuẫn. Điều đó được thể hiện trong quan
niệm của Nho giáo về giáo dục nói chung, về mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo
dục.
Thứ nhất, về quan niệm giáo dục nói chung. Mặc dù Nho giáo đưa ra tư tưởng
“hữu giáo vô loại” nhưng tư tưởng của họ, đặc biệt là Khổng Tử lại chứa đựng nhiều
12


mâu thuẫn. Dù ơng coi giáo dục là bình đẳng với tất cả mọi người nhưng trong giáo
dục, Khổng Tử lại phân biệt từng loại người khác nhau. Đặc biệt hơn nữa, Khổng Tử
nói riêng và Nho giáo nói chung đều có tư tưởng coi thường phụ nữ, họ cho rằng phụ
nữ không phải là đối tượng được giáo dục bởi: “Phụ nữ và tiểu nhân là hai hạng người
khó ở cho vừa lịng nhất. Gần thì họ khinh nhờn, xa thì họ ốn trách”.
Thứ hai, về mục đích giáo dục. Bên cạnh những điểm tích cực, trong tư tưởng về
mục đích giáo dục của Nho giáo cũng chứa đựng nhiều điểm hạn chế. Trước hết, đó là
tư tưởng coi thường người dân. Nho giáo luôn đánh giá thấp khả năng nhận thức của
tầng lớp dưới so với bậc quan lại và quý tộc. Do vậy, mục đích của việc giáo dục họ là
để biết phục tùng, biết lắng nghe những người cầm quyền.
Thứ ba, về nội dung giáo dục. Mặc dù đề cao việc giáo dục đạo đức trong hoàn
cảnh xã hội lúc bấy giờ là rất quan trọng và cần thiết nhưng nội dung giáo dục đó chưa
đủ, mang tính lý tưởng nhiều hơn hiện thực. Khổng Tử đã từng khẳng định có ba thứ
quan trọng đối với một quốc gia như “thứ”, “phú”, “giáo” nhưng trong nội dung giáo
dục, Khổng Tử lại tách giáo dục ra khỏi hoạt động chính yếu, có tính chất quyết định

sự tồn tại của xã hội là hoạt động sản xuất ra của cải vật chất.
Thứ tư, về phương pháp giáo dục. Hạn chế rõ nét nhất là mặc dù đề ra chủ trương
cần áp dụng phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học
nhưng Nho giáo, tiêu biểu là Khổng Tử lại bó hẹp sự sáng tạo trong khn khổ sẵn có
của nhà Chu. Điều đó đã khiến cho những phương pháp giáo dục của Nho giáo dù rất
tiến bộ nhưng khơng thật sự triệt để.
Tóm lại, những hạn chế và mâu thuẫn trong tưởng giáo dục của Nho giáo là điều
không thể tránh khỏi. Với hơn nghìn năm Bắc thuộc, Việt Nam là một quốc gia có ảnh
hưởng sâu sắc bởi tư tưởng triết học Trung Quốc nói chung và tư tưởng giáo dục của
Nho giáo nói riêng. Ảnh hưởng đó khơng chỉ từ thời phong kiến mà cho đến ngày nay,
khi nước ta đang trong quá trình đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và hội nhập quốc
tế, nhiều tư tưởng giáo dục của Nho giáo vẫn còn vẹn nguyên giá trị, vẫn còn cần được
chúng ta kế thừa và phát huy trong điều kiện, hoàn cảnh mới.

13


PHẦN 2. QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC Ở
VIỆT NAM VÀ NHỮNG GIÁI PHÁP PHÁT HUY MẶT TÍCH CỰC,
HẠN CHẾ MẶT TIÊU CỰC TRONG TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA
NHO GIÁO VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
2.1.

Quá trình đổi mới và phát triển giáo dục ở Việt Nam

và sự cần thiết phải vận dụng các giá trị tư tưởng giáo
dục của Nho giáo trong sự nghiệp đổi mới và phát triển
giáo dục ở Việt Nam hiện nay
2.1.1.


Khái quát quá trình đổi mới và phát triển giáo

dục ở Việt Nam hiện nay
Quá trình đổi mới ở Việt Nam khởi xướng từ tháng 12/1986, được thông qua ở
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Với tên gọi Đại hội đổi mới tư duy, Đại hội VI đã
vạch ra những đường lối, những phương hướng đúng đắn trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Đây được coi là một bước đột phá trong quá trình đổi mới tư duy lý
luận của Đảng ta về chiến lược phát triển đất nước, từng bước xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Cho đến nay, tuy không tránh khỏi những khó khăn, thử thách nhưng đã làm
thay đổi toàn diện nền kinh tế - xã hội, mang lại những thành quả to lớn, có ý nghĩa
lịch sử. Vì vậy, trong Diễn văn khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí Nguyễn Minh Triết - Ủy viên Bộ chính trị Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa X, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã tổng kết: “Những thành tựu đạt được trong 20 qua là to lớn và có ý nghĩa lịch
sử. Chúng ta đã thực hiện thành công chặng đường đầu của công cuộc đổi mới, đưa đất
nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống nhân dân có nhiều thay đổi tích cực,
sức mạnh quốc gia về mọi mặt được tăng cường, độc lập, tự chủ và chế độ xã hội chủ
nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao,
tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn trong giai đoạn
14


mới”. Những thành tựu đó đã chứng tỏ đổi mới là một quá trình tất yếu, hợp lý, thể
hiện tư duy nhạy bén, sáng suốt của Đảng ta. Cùng với tiến trình đổi mới toàn diện đất
nước, đổi mới giáo dục được Đảng ta coi là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, góp
phần quyết định mọi thắng lợi. Việc đổi mới giáo dục cũng xuất phát từ thực tiễn giáo
dục nước ta đầu những năm 80. Trong bài “Đổi mới tư duy giáo dục” (tháng 12/1986),
bên cạnh việc phân tích những thành quả của nền giáo dục nước nhà từ năm 1945, tác

giả Phạm Minh Hạc đã chỉ ra một số những hạn chế, mâu thuẫn, mất cân đối lớn như:
- Mất cân đối giữa phát triển kinh tế - xã hội và phát triển giáo dục; giữa mong
muốn phát triển giáo dục thật nhanh và chính sách đầu tư cho giáo dục, giữa yêu cầu
phát triển số người đi học và khả năng đảm bảo chất lượng giáo dục, giữa ý định phổ
cập giáo dục trong cả nước và các điều kiện thực hiện.
- Mất cân đối giữa cơ cấu kinh tế - xã hội và cơ cấu giáo dục, giữa cơ cấu lao
động và cơ cấu đào tạo, giữa kế hoạch đào tạo và kế hoạch sử dụng.
- Trong nội bộ ngành giáo dục cũng ngày càng thấy rõ nhiều mất cân đối giữa
chủ trương giáo dục toàn diện với số lượng và cơ cấu đội ngũ giáo viên, giữa phát triển
tinh thần và thể chất, giữa kiến thức và kỹ năng lao động, giữa hiểu biết và hành động
ở học sinh.
Bên cạnh những hạn chế, mất cân đối như trên, tác giả Phạm Minh Hạc còn nhấn
mạnh: “Điều đáng lo ngại nhất là đội ngũ giáo viên và nguồn tuyển sinh vào các
trường sư phạm. Đời sống của giáo viên rất khó khăn và điều kiện tối thiếu để dạy và
học, ngày càng có nhiều bất hợp lý, có khi đến mức phi lý đối với nghề cao quý này.
Vị trí và uy tín xã hội của người giáo viên chưa tương xứng với trách nhiệm mà Đảng,
Nhà nước và nhân dân giao cho, một số bỏ nghề, một số giảm sút ý chí, lý tưởng nghề
nghiệp mờ nhạt, thậm chí có một số bộ phận người dạy không đủ phẩm chất và năng
lực để tạo ra chất lượng giáo dục” .
Những hạn chế đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của nền kinh tế - xã
hội nước ta. Bởi vậy, việc đổi mới giáo dục trở thành một yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa
sống cịn. Do đó, cùng với việc vạch ra đường lối đổi mới kinh tế - xã hội nói chung,
Đại hội VI cũng vạch ra đường lối đổi mới giáo dục: “Giáo dục nhằm mục tiêu hình
thành và phát triển toàn diện nhân cách xã hội chủ nghĩa của thế hệ trẻ, đào tạo đội ngũ
lao động có kỹ thuật, đồng bộ về ngành nghề, phù hợp với yêu cầu phân công lao động
của xã hội. Sự nghiệp giáo dục, nhất là giáo dục đại học và chuyên nghiệp trực tiếp
15


góp phần vào việc đổi mới cơng tác quản lý kinh tế và xã hội. Tổng kết thực tiễn kinh

nghiệm cải cách giáo dục, điều chỉnh, nâng cao chất lượng của cuộc cải cách này. Phát
triển có kế hoạch hệ thống giáo dục từ mầm non đến đại học và trên đại học, đảm bảo
chất lượng và hiệu quả đào tạo. Bố trí lại cơ cấu hệ thống giáo dục, thể hiện tính thống
nhất của quá trình giáo dục, bao gồm nhiều hình thức: đào tạo và bồi dưỡng, chính quy
và không chính quy, tập trung và tại chức. Mục tiêu đào tạo của từng loại hình trường
học phải được cụ thể hóa thành các kế hoạch đào tạo và các tiêu chuẩn đánh giá kết
quả đào tạo. Cải tiến chế độ thi cử, cấp chứng chỉ, văn bằng và học vị theo hướng đảm
bảo chất lượng và sự công minh” .
Những đường lối trên được coi là những quan điểm có tính chất căn bản nhằm
đổi mới nền giáo dục nước ta từ nội dung đến hình thức. Kế thừa tinh thần đó, trong
những Đại hội Đảng về sau, Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển quan điểm đổi mới
giáo dục cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nước trong mỗi thời kỳ lịch sử.
Điều đó đã làm cho diện mạo của nền giáo dục nước ta có nhiều thay đổi.
Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục xác định vai
trò to lớn của giáo dục và đào tạo trong việc phát triển kinh tế - xã hội nói chung và
trong việc phát triển nguồn lực con người nói riêng: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh
nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng
phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục
và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, đầu tư
cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển”. Nhận định trên đã cho thấy Đảng ta rất
chú trọng đến việc phát triển giáo dục, coi đó là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
trong chiến lược phát triển đất nước. Từ đó, Đại hội XI cũng đưa ra những chỉ đạo cụ
thể nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của nền giáo dục ở nước ta hiện nay và
định hướng phát triển giáo dục trong những chặng đường tiếp theo. Đảng đã chỉ rõ cần
phải “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã
hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ
hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy
mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập
suốt đời”
Có thể nhận thấy, cùng với việc đổi mới đất nước nói chung, đổi mới giáo dục

được coi là một nhu cầu thiết yếu, có ý nghĩa quyết định đến sự thắng lợi của sự
16


nghiệp đổi mới. Việc đổi mới giáo dục gắn liền với tiến trình đổi mới đất nước và cần
phải tiếp tục đổi mới.
2.1.2.

Sự cần thiết phải vận dụng các giá trị tư tưởng giáo dục của

Nho giáo trong sự nghiệp đổi mới và phát triển giáo dục ở Việt Nam hiện
nay
Sự nghiệp đổi mới và phát triển giáo dục ở Việt Nam đã và đang được tiến hành
trong bối cảnh nền kinh tế - xã hội của đất nước có bước phát triển đáng kể, kể cả về
lượng và chất nhưng cũng vẫn cịn nhiều vướng mắc, khó khăn, thử thách. Việc đổi
mới và phát triển giáo dục vì thế khơng phải là một việc làm giản đơn, có thể tiến hành
nhanh chóng. Để có được đường lối đổi mới và phát triển giáo dục đúng đắn, khoa
học; chúng tôi nghĩ rằng Đảng và Nhà nước ta không chỉ căn cứ vào thực tiễn phát
triển giáo dục của đất nước để đưa ra những đường lối, những chính sách hợp lý mà
cần phải kế thừa những tinh hoa trong tư tưởng giáo dục của nhân loại. Những tinh
hoa ấy không thể không kể tới tư tưởng giáo dục của Nho giáo.
Sự cần thiết cần phải vận dụng các giá trị trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo
trong sự nghiệp đổi mới và phát triển giáo dục ở Việt Nam hiện nay theo chúng tôi cần
phải được xét cả trên bình diện lý luận và thực tiễn.
Về mặt lý luận, tư tưởng giáo dục của Nho giáo tuy ra đời từ rất lâu , không tránh
khỏi những hạn chế, mâu thuẫn do hoàn cảnh lịch sử, kinh tế - xã hội của Trung Hoa
cổ đại chi phối nhưng lại chứa đựng rất nhiều yếu tố hợp lý, tích cực, tiến bộ. Tư
tưởng giáo dục của Nho giáo chính vì thế đã trở thành đường lối chính trị - xã hội của
Trung Quốc trong suốt thời kỳ lịch sử lâu dài. Ở Việt Nam, tư tưởng giáo dục của Nho
giáo có một ảnh hưởng sâu đậm suốt thời kỳ Bắc thuộc, đặc biệt khi đã có Nhà nước

độc lập, triều đình phong kiến Việt Nam vẫn lấy tư tưởng giáo dục của Nho giáo là
công cụ chính để cai trị đất nước. Các thời đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn… đều lấy tư
tưởng giáo dục của Nho giáo làm nền tảng để ban hành chính sách tuyển chọn nhân
tài, tổ chức thi cử, xây dựng Văn Miếu, thờ người sáng lập ra Nho giáo là Khổng Tử…
Có thể nói, tư tưởng giáo dục của Nho giáo vừa có tính lý tưởng ở nội dung, vừa có
tính thực tiễn ở mục đích, lại rất khn phép, chuẩn mực, có trật tự trên dưới rõ ràng
nên cần thiết với bất kỳ nền giáo dục nào muốn hướng tới sự chuẩn mực, nghiêm túc.

17


Về mặt thực tiễn, nền giáo dục Việt Nam sau hơn hai mươi năm đổi mới và phát
triển tuy đạt được nhiều thành tựu nổi bật nhưng đang phải đối diện với nhiều khó
khăn, thử thách rất lớn. Trong Tham luận trình bày tại Đại hội XI với nhan đề “Một số
giải pháp quan trọng nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nhân lực có trình độ cao
nhằm đáp ứng sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Bộ
trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận đã chỉ ra một số thành tựu của ngành
giáo dục và đào tạo sau 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng và
sau hơn 20 năm đổi mới đất nước. Đó là những thành tựu quan trọng như:
- Quy mô học sinh, sinh viên tăng; tỷ lệ học sinh bỏ học và trẻ em thất học giảm
rõ rệt.
- Cơ sở vật chất - kỹ thuật trường học của ngành giáo dục và đào tạo đã có những
bước phát đáng kể.
- Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục được tăng cường cả về số lượng
và chất lượng.
- Giáo dục vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số và giáo dục cho các đối tượng
chính sách lược cải thiện đáng kể.
- Chất lượng giáo dục và đào tạo được giữ vững, ở một số địa phương và cơ sở
đào tạo, chất lượng được tăng lên.
- Ngành giáo dục và đào tạo đã cung cấp nguồn nhân lực cho nền kinh tế quốc

dân, góp phần đảm bảo tốc độ tăng trưởng ổn định, bước đầu đáp ứng được nhu cầu
của thị trường lao động.
Bên cạnh đó, tham luận cũng chỉ ra một số bất cập, yếu kém như:
Một là, chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu phát triển của đất
nước và so với trình độ của các nước trong khu vực và trên thế giới, chưa đáp ứng
được mong muốn của Đảng và nhân dân. Ở điểm này, báo cáo đã chỉ ra một thực trạng
ai cũng dễ dàng nhận thấy là hàng năm, có rất nhiều học sinh, sinh viên sau khi đã tốt
nghiệp ra trường nhưng “kiến thức, kỹ năng của người học chưa đáp ứng được đầy đủ
yêu cầu của công việc, đặc biệt trong các ngành kỹ thuật, công nghệ và sản xuất mũi
nhọn có hàm lượng chất xám cao và hội nhập quốc tế sâu”. Đây là một nhận định rất
quan trọng đã lý giải tại sao ở nước ta hàng năm, số sinh viên ra trường rất nhiều
nhưng phần lớn đều chưa tìm được việc làm ngay hoặc phải làm những việc trái với
ngành nghề được đào tạo, gây lãng phí nguồn lao động đã qua đào tạo.
18


Hai là, chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục và đào tạo còn nặng về lý
thuyết, chưa gắn với phát triển kinh tế - xã hội. Báo cáo cũng đã chỉ ra một thực trạng
là hiện nay, trong các trường học ở nước ta vẫn áp dụng những phương pháp dạy học
còn nặng về truyền thụ kiến thức nên chưa phát huy được tinh thần chủ động, sáng tạo,
tích cực của người học; chưa tạo được mối quan hệ chặt chẽ giữa hoạt động dạy và
học, mới chỉ chú trọng đến hoạt động dạy chữ mà chưa thật sự chú ý đến hoạt động
dạy người, dạy nghề. Vì vậy, nhìn chung, cả nội dung và phương pháp giáo dục của
nước ta trong những năm qua chưa thật sự hợp lý, cần phải có những bước điều chỉnh
cho phù hợp hơn với thực tiễn phát triển đất nước.
Ba là, một số hiện tượng tiêu cực như gian lận trong học tập và thi cử, giáo viên
vi phạm đạo đức nhà giáo, nhiều học sinh, sinh viên có lối sống lệch lạc... Có thể nói,
một trong những nguyên nhân của những hiện tượng trên là do “bệnh thành tích” trong
thi cử. Có nhiều trường do mải mê chạy theo thành tích nên đã tạo điều kiện để cả thầy
và trò cùng gian lận trong hoạt động dạy và học. Hơn nữa, cũng do ảnh hưởng của lối

sống thực dụng, thị trường mà nhiều nhà giáo đã đánh mất nhân phẩm của người thầy,
biến trường học thành nơi trục lợi. Những điều đó đã đánh mất đi tính nhân văn trong
hoạt động giáo dục, gây nên sự bức xúc trong nhân dân, ảnh hưởng tới uy tín của
ngành giáo dục trước Đảng và nhân dân.
Bốn là, công tác quản lý giáo dục còn nhiều bất bập. Ở điểm này, báo cáo đã
nhấn mạnh: “Cơ chế quản lý giáo dục chậm được đổi mới và chưa theo kịp sự phát
triển của đất nước, hiệu lực và hiệu quả của quản lý chưa cao. Hoạt động quản lý chưa
thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng quản lý phát triển đúng đắn, lành mạnh
và răn đe, ngăn chặn, xử lý một cách có hiệu quả các tổ chức và các cá nhân có hành
động sai trái, lệch lạc trong hoạt động giáo dục và đào tạo”. Có thể nói, những bất cập
trong quản lý giáo dục mà báo cáo đề cập đến là một trong những nguyên nhân quan
trọng của những hạn chế, yếu kém của nền giáo dục ở nước ta trong thời gian gần đây.
Có thể nhận thấy, những hạn chế trên có thể từng bước được khắc phục nếu biết
kế thừa những ưu điểm trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo về nội dung giáo dục,
phương pháp giáo dục; đồng thời rút kinh nghiệm từ những hạn chế trong tư tưởng
giáo dục của trường phái này. Do đó, sự cần thiết phải kế thừa những giá trị trong tư
tưởng giáo dục của Nho giáo theo chúng tôi cần được hiểu từ hai góc độ: kế thừa
những giá trị tích cực và rút kinh nghiệm từ những tiêu cực, hạn chế.
19


2.2.

Những bài học kinh nghiệm từ giáo dục ở Trung

Quốc và những giải pháp phát huy mặt tích cực, hạn chế
mặt tiêu cực trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo vào
sự nghiệp đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay
2.2.1.


Bài học từ giáo dục Trung Quốc và kinh

nghiệm cho Việt Nam trong việc kế thừa các giá trị tư
tưởng tích cực về giáo dục của Nho giáo
Trung Quốc vốn là quê hương của Nho giáo - nơi đã ươm mầm ra những tư
tưởng giáo dục của một số nhà triết học tiêu biểu, nhất là Khổng Tử. Ở khu vực châu
Á, Trung Quốc là một trong những quốc gia có vị thế đáng kể trong phát triển kinh tế xã hội, trong đó có phát triển giáo dục.
Trung Quốc là một đất nước có bề dày truyền thống phong kiến qua hàng trăm
thế kỷ nên nền giáo dục của Trung Quốc chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng giáo dục
Nho gia - một hệ tư tưởng được coi là công cụ hữu dụng trong việc cai trị đất nước của
các vua chúa phong kiến. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh
tế - xã hội, nền giáo dục của Trung Quốc cũng đã có nhiều thay đổi khiến cho ảnh
hưởng của tư tưởng giáo dục Nho giáo dần trở nên mờ nhạt hơn.
Nền giáo dục của Trung Quốc cũng thực hiện cuộc cải cách. Quá trình cải cách
giáo dục cũng gắn liền với quá trình cải cách nền kinh tế - xã hội nói chung, được khởi
xướng từ hội nghị lần thứ 3 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung
Quốc khóa XI (tháng 12/1978). Trong bài phát biểu tại Hội nghị này, ơng Đặng Tiểu
Bình - người được ví là tổng cơng trình sư của cơng cuộc cải cách, mở cửa ở Trung
Quốc đã nhấn mạnh: “Sự nghiệp giáo dục phải thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế
quốc dân, đội ngũ chuyên gia, lực lượng hậu bị cũng phải thích ứng với nền kinh tế
quốc dân theo một tỷ lệ có kế hoạch, khơng những phải căn cứ vào nhu cầu trước mắt
mà còn phải thấy được nhu cầu lâu dài; không những phải căn cứ vào nhu cầu xây
dựng và phát triển sản xuất mà còn phải đánh giá đầy đủ xu thế phát triển của khoa
học kỹ thuật hiện đại”. Nhận định trên đã vạch ra đường lối và những yêu cầu của việc
cải cách giáo dục ở Trung Quốc.
Trung Quốc đã tiến hành cải cách giáo dục một cách toàn diện, kể cả giáo dục
phổ thông, giáo dục đại học, tiến hành phổ cập giáo dục nghĩa vụ 9 năm, cải cách chế
20



độ quản lý giáo dục, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước với giáo dục, tiến
hành xã hội hóa giáo dục… Cùng với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc, hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa mang bản sắc Trung Quốc cũng được thiết
lập với các đặc trưng cơ bản như:
- Giáo dục là nền tảng của việc xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa, vì vậy,
phải đặt giáo dục vào vị trí chiến lược ưu tiên phát triển.
- Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục và phương hướng xã
hội chủ nghĩa của giáo dục, đào tạo lớp người tiếp bước xây dựng phát triển toàn diện
về đạo đức, trí tuệ, thể chất.
- Giáo dục phục vụ xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa, kết hợp với lao động
sản xuất, tự giác phục tùng và phục vụ nhiệm vụ trung tâm là xây dựng kinh tế và thúc
đẩy tiến bộ toàn diện của xã hội.
- Kiên trì cải cách mở cửa, nỗ lực cải cách thể chế giáo dục, cơ cấu giáo dục, nội
dung, phương pháp dạy học, mạnh dạn tiếp thu những thành quả văn minh của xã hội
loài người, dũng cảm, sáng tạo, thực nghiệm, không ngừng phát triển và hoàn thiện
chế độ giáo dục xã hội chủ nghĩa.
- Quán triệt toàn diện phương châm giáo dục của Đảng, tuân theo quy luật giáo
dục, nâng cao toàn diện chất lượng giáo dục và hiệu quả dạy học.
- Dựa vào đội ngũ giáo viên đông đảo, không ngừng nâng cao tố chất chính trị và
nghiệp vụ của giáo viên, nỗ lực cải thiện điều kiện làm việc, học tập và sinh hoạt của
giáo viên.
- Phát huy tính tích cực làm giáo dục của chính quyền các cấp, các lực lượng xã
hội và của quần chúng nhân dân, thực hiện đa dạng hóa nguồn kinh phí giáo dục trên
cơ sở giữ vững vai trò chủ chốt của ngân sách nhà nước.
- Xuất phát từ tình hình của đất nước, căn cứ nguyên tắc kết hợp giữa tính thống
nhất và tính đa dạng, thực hiện tổ chức giáo dục bằng nhiều hình thức, bồi dưỡng
nhiều loại nhân tài, phát triển giáo dục theo con đường phù hợp với thực tế của các
vùng miền của đất nước.
Có thể nói, những đặc trưng trên đã cho thấy tính toàn diện trong cuộc cải cách
giáo dục ở Trung Quốc. Nhờ đó, nền giáo dục của Trung Quốc khơng chỉ từng bước

tháo gỡ được những khó khăn, vướng mắc mà còn tiếp tục phát triển và khẳng định

21


được vị thế của mình về phát triển giáo dục nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói
chung so với các nước trong khu vực vè trên thế giới.
2.2.2.

Những giải pháp phát huy mặt tích cực, hạn

chế mặt tiêu cực trong tư tưởng giáo dục của Nho
giáo vào sự nghiệp đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện
nay
Những giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực trong tư
tưởng giáo dục của Nho giáo vào sự nghiệp đổi mới và phát triển giáo dục ở Việt Nam.
Có thể coi đây là ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu tư tưởng giáo dục của
Nho giáo.
Một là, cần phải kết hợp giáo dục đạo đức với giáo dục tri thức và giáo dục lý
tưởng. Nho giáo rất chú trọng đến việc giáo dục đạo đức như nhân, nghĩa, lễ, trí,
dũng… Ngoài ra, Nho giáo còn giáo dục cả lý tưởng cho người học: việc học phải
hướng đến làm chính sự, mang những điều mình học được để giúp nước, giúp dân.
Học sinh, sinh viên có vai trị rất quan trọng đối với sự phát triển đất nước. Họ có
những phẩm chất quý báu như trẻ, khỏe, có học thức, ham học, năng động, dám nghĩ
và dám làm theo cái mới… Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, để những tiềm năng đó
trở thành hiện thực, trở thành động lực trong công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước, họ cần phải được định hướng một cách toàn diện, đặc biệt là lý tưởng đạo đức
trong sáng. Những việc chúng ta cần phải làm là:
+ Phải củng cố niềm tin của học sinh, sinh viên vào sự lãnh đạo của Đảng, vào
chế độ và hiện thực ngày càng tốt đẹp của công cuộc đổi mới đất nước

+ Bên cạnh củng cố niềm tin của học sinh, sinh viên vào Đảng, vào chế độ xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta đang hướng tới, cần phải tăng cường giáo dục cho họ tình
cảm yêu nước.
+ Phải quan tâm giáo dục ý thức cộng đồng để mỗi cá nhân hăng say phấn đấu
trong lao động và học tập khẳng định mình, gắn mình với cộng đồng, với xã hội. Đồng
thời, cộng đồng phải tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển, trưởng thành của mỗi cá
nhân.

22


+ Ngày nay vấn đề mà học sinh, sinh viên rất quan tâm và bức xúc là nghề
nghiệp, việc làm sau khi ra trường. Do đó, giáo dục đạo đức nghề nghiệp phải coi là
nội dung cơ bản trong giáo dục lý tưởng đạo đức cho họ.
+ Trong việc giáo dục đạo đức, lý tưởng cho sinh viên, cần kết hợp giữa giáo dục
những phẩm chất truyền thống như yêu nước, lòng nhân ái, vị tha, trung hiếu, cần,
kiệm,... với các giá trị đạo đức mới như chủ động, sáng tạo, tự lập, tự chủ, vượt khó,…
Hai là, phải coi trọng tự giáo dục, phát huy sự tu dưỡng, học tập và rèn luyện cá
nhân
+ Trước hết, phải xác định lý tưởng, lẽ sống cao đẹp nhất của thế hệ trẻ Việt Nam
hiện nay là phấn đấu suốt đời vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Lối sống xã hội chủ
nghĩa của thế hệ trẻ trước hết biểu hiện ở sự nhận thức sâu sắc và trung thành với lý
tưởng của Đảng, đó là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên trì phấn đấu mục tiêu
cao đẹp: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
+ Phải tích cực học tập, tìm hiểu và tự giác tuân theo những giá trị, chuẩn mực
đạo đức xã hội chủ nghĩa. Đòi hỏi mỗi người trong quá trình hoạt động phải tuân thủ
nghiêm Hiến pháp, pháp luật. Đồng thời, phải luôn luôn tích cực học hỏi và có ý thức
bảo vệ, phát huy những giá trị tinh thần trùn thống của dân tộc.
+ Phải ln ln có tinh thần tự giác, chủ động, tích cực, sáng tạo và kiên quyết
trong mọi hoạt động, không ngừng trau dồi phẩm chất đạo đức, nâng cao năng lực

công tác. Cần phải thấy rõ rằng, say mê sáng tạo là một phẩm chất cao quý của con
người mới xã hội chủ nghĩa.
+ Phải rèn luyện tinh thần dũng cảm, đức hy sinh, luôn quán triệt và thực hiện
tinh thần tôn trọng, tin cậy, giúp đỡ lẫn nhau. Đây là một phẩm chất quan trọng cần có
đối với mỗi người học.
+ Ln luôn đề cao trách nhiệm công dân, tư cách người học sinh, sinh viên
trong mọi hoạt động, mọi lúc, mọi nơi, trong mọi quan hệ xã hội. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nêu phương châm của lối sống mới: “Phải ham làm những việc ích quốc, lợi
dân” và “việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm việc, việc gì có hại cho dân ta phải
hết sức tránh”.
Ba là, phải kết hợp giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội

23


Giáo dục không phải là việc của một cá nhân hay của một cấp, một ngành nào
mà là công việc của toàn xã hội. Vì vậy, để hoạt động giáo dục thật sự có hiệu quả rất
cần thiết phải kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường
Cha mẹ hoặc người giám hộ của học sinh có những quyền sau đây:
+ Yêu cầu nhà trường thông báo về kết quả học tập, rèn luyện của con em hoặc
người được giám hộ;
+ Tham gia các hoạt động giáo dục theo kế hoạch của nhà trường; tham gia các
hoạt động của cha mẹ học sinh trong nhà trường;
+ Yêu cầu nhà trường, cơ quan quản lý giáo dục giải quyết theo pháp luật những
vấn đề có liên quan đến việc giáo dục con em hoặc người được giám hộ.
+ Mỗi trường đều có ban đại diện cha mẹ học sinh. Ban này có vai trị quan trọng
trong việc phối hợp với nhà trường thực hiện các hoạt động giáo dục.
Muốn hoạt động giáo dục đạt kết quả tốt khơng thể khơng có sự tham gia của các
tổ chức đoàn thể xã hội. Cụ thể là các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã

hội - nghề nghiệp, tổ chức nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và
cơng dân các tổ chức này có vai trò sau:
+ Giúp nhà trường tổ chức các hoạt động giáo dục và nghiên cứu khoa học; tạo
điều kiện cho nhà giáo và người học tham quan, thực tập, nghiên cứu khoa học;
+ Góp phần xây dựng phong trào học tập và môi trường giáo dục lành mạnh, an
toàn, ngăn chặn những hoạt động có ảnh hưởng xấu đến thanh niên, thiếu niên và nhi
đồng;
+ Tạo điều kiện để người học được vui chơi, hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao
lành mạnh;
+ Hỗ trợ về tài lực, vật lực cho sự nghiệp phát triển giáo dục theo khả năng của
mình.
+ Trong các tổ chức xã hội đó, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh có vai
trị to lớn trong việc phối hợp với nhà trường giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi
đồng; vận động đoàn viên, thanh niên gương mẫu trong học tập, rèn luyện và tham gia
phát triển sự nghiệp giáo dục.
Sự kết hợp giữa gia đình - nhà trường và xã hội là rất cần thiết, tạo thành sức
mạnh tổng lực tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động giáo dục phát triển.
24


×