Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

tiểu luận Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA COVID19 ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.92 KB, 54 trang )

UBND TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GỊN

ĐỀ TÀI
NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA COVID-19 ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT
NAM VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP
Môn học: Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh

Năm học 2020-2021

1


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

4

Chương 1: Giới thiệu đại dịch Covid-19 và nền kinh tế thế giới và VN

5

1.1 Sơ lược đại dịch Covid -19

5

1.2 Sơ lược ảnh hưởng của Covid-19 đến nền kinh tế toàn cầu

6

1.3 Sơ lược ảnh hưởng của Covid-19 đến nền kinh tế Việt Nam



8

Chương 2: Tổng quan lý thuyết

9

2.1 GDP và các công cụ đo lường kinh tế

9

2.2 Các khái niệm khác

10

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu đề tài

13

3.1 Phương pháp nghiên cứu định tính

12

3.2 Phương pháp nghiên cứu định lượng

13

3.3 Phương pháp nghiên cứu tài liệu

13


3.4 Thu thập dữ liệu

14

3.5 Dữ liệu sơ cấp

14

3.6 Nguồn dữ liệu thứ cấp

14

3.7 Phân tích số liệu

14

Chương 4: Thảo luận và kết quả

15

4.1 Tình hình kinh tế

15

4.1.1 Trên thế giới

15

4.1.2 Ở Việt Nam


30

4.2 Dự báo nền kinh tế Việt Nam

40

4.3 Các biện pháp ứng phó và các chính sách kinh tế

46

4.3.1 Tăng cường tiêm vắc xin

46

4.3.2 Thực hiện các biện pháp y tế

47

4.3.3 Chính sách tiền tệ

50

4.3.4 Chính sách tài khóa

55

Chương 5: Kết luận

54

2


Nguồn tham khảo

55

3


LỜI MỞ ĐẦU: COVID-19 khơng chỉ là đại dịch tồn cầu và khủng hoảng sức khỏe
cộng đồng; nó cũng đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế toàn cầu và thị trường
tài chính. Thu nhập giảm đáng kể, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng và gián đoạn các ngành
vận tải, dịch vụ và sản xuất là một trong những hậu quả của các biện pháp giảm thiểu
dịch bệnh đã được thực hiện ở nhiều quốc gia. Rõ ràng là hầu hết các chính phủ trên
thế giới đều đánh giá thấp nguy cơ lây lan nhanh chóng của COVID-19 và hầu hết đã
phản ứng trong ứng phó khủng hoảng của họ. Do các đợt bùng phát dịch bệnh khơng
có khả năng biến mất trong tương lai gần, nên các hành động quốc tế chủ động được
yêu cầu không chỉ để cứu sống người dân mà còn bảo vệ sự thịnh vượng kinh tế.
Lý do chọn đề tài: Để hiểu rõ những hậu quả mà đại dịch covid-19 gây ra cho nên
kinh tế chúng em xin chọn đề tài: “Những tác động của đại dịch Covid-19 đến nền
kinh tế Việt Nam và đề xuất kiến nghị khắc phục”
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá những tác động của covid-19 từ đó nêu ra giải pháp
khắc phục.
Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu tác động của Covid-19 ở Việt Nam từ 2020 đến
tháng 3/2021
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp định tính và định lượng.
Việc thu thập dữ liệu từ tổng cục thống kê và các kênh thơng tin chính thống.
Nội dung bài luận:
Chương 1: Giới thiệu vấn đề: Đại dịch covid-19 và nền kinh tế thế giới và Việt Nam

Chương 2: Tổng quan lý thuyết nghiên cứu
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Thảo luận và kết quả
Chương 5: Kết luận

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐẠI DỊCH COVID-19 VÀ NỀN KINH TẾ THẾ
GIỚI VÀ VIỆT NAM
4


1.1 Sơ lược về Covid-19 và nền kinh tế
Đại dịch COVID-19 là một đại dịch bệnh truyền nhiễm với tác nhân là virus SARSCoV-2, đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Khởi nguồn vào cuối tháng 12 năm 2019
với tâm dịch đầu tiên được ghi nhận tại thành phố Vũ Hán thuộc miền Trung Trung
Quốc, bắt nguồn từ một nhóm người mắc viêm phổi khơng rõ ngun nhân. Giới chức
y tế địa phương xác nhận rằng trước đó họ đã từng tiếp xúc, chủ yếu với những thương
nhân buôn bán và làm việc tại chợ bán buôn hải sản Hoa Nam. Các nhà khoa học
Trung Quốc đã tiến hành nghiên cứu và phân lập được một chủng coronavirus mới,
được Tổ chức Y tế Thế giới lúc đó tạm thời gọi là 2019-nCoV, có trình tự gen giống
với SARS-CoV trước đây với mức tương đồng lên tới 79,5%.
Các ca nghi nhiễm đầu tiên ở Vũ Hán được báo cáo vào ngày 31 tháng 12 năm 2019.
Trường hợp tử vong do SARS-CoV-2 đầu tiên xảy ra ở Vũ Hán vào ngày 9 tháng 1
năm 2020 Các ca nhiễm virus đầu tiên được xác nhận bên ngoài Trung Quốc bao gồm
hai người phụ nữ ở Thái Lan và một người đàn ông ở Nhật Bản. Sự lây nhiễm virus từ
người sang người đã được xác nhận cùng với tỷ lệ bùng phát dịch tăng nhanh vào giữa
tháng 1 năm 2020. Ngày 23 tháng 1 năm 2020, chính phủ Trung Quốc quyết định
phong tỏa Vũ Hán, tồn bộ hệ thống giao thơng cơng cộng và hoạt động xuất - nhập
khẩu đều bị tạm ngưng.
Ngày 11 tháng 3 năm 2020, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ra tuyên bố gọi "COVID19" là "Đại dịch tồn cầu”.
Chính phủ các quốc gia trên thế giới đã tiến hành phản ứng đáp trả nhằm bảo vệ sức
khỏe người dân cũng như các nhóm cộng đồng trên toàn cầu, bao gồm: hạn chế đi lại,

phong tỏa kiểm dịch, ban bố tình trạng khẩn cấp, sử dụng lệnh giới nghiêm, tiến hành
cách ly xã hội, hủy bỏ các sự kiện đơng người, đóng cửa trường học và những cơ sở
dịch vụ, kinh doanh ít quan trọng, khuyến khích người dân tự nâng cao ý thức phòng
bệnh, đeo khẩu trang, hạn chế ra ngồi khi khơng cần thiết, đồng thời chuyển đổi mô
5


hình hoạt động kinh doanh, học tập, làm việc từ truyền thống sang trực tuyến. Một số
ví dụ tiêu biểu có thể kể đến như: phong tỏa để kiểm dịch toàn bộ tại Ý và tỉnh Hồ Bắc
của Trung Quốc; các biện pháp giới nghiêm khác nhau ở Trung Quốc và Hàn Quốc;
phương pháp sàng lọc tại các sân bay và nhà ga; hạn chế hoặc hủy bỏ các hoạt động du
lịch tới những khu vực, vùng, quốc gia có nguy cơ nhiễm dịch bệnh ở mức cao. Ngoài
ra, các trường học cũng đã phải đóng cửa trên tồn quốc hoặc ở một số vùng tại hơn
160 quốc gia, ảnh hưởng đến 87% học sinh, sinh viên trên toàn thế giới, tính đến ngày
28 tháng 3 năm 2020.
Những ảnh hưởng trên toàn thế giới của đại dịch COVID-19 hiện nay bao gồm: thiệt
hại sinh mạng con người, sự bất ổn về kinh tế và xã hội, tình trạng bài ngoại và phân
biệt chủng tộc đối với người gốc Trung Quốc và Đông Á, việc truyền bá thông tin sai
lệch trực tuyến và thuyết âm mưu về virus.
1.2 Sơ lược ảnh hưởng của Covid-19 đến nền kinh tế toàn cầu
Mặc dù khơng có cách nào để nói chính xác thiệt hại kinh tế từ đại dịch coronavirus
COVID-19 toàn cầu sẽ như thế nào, nhưng có sự đồng tình rộng rãi giữa các nhà kinh
tế rằng nó sẽ có những tác động tiêu cực nghiêm trọng đến nền kinh tế toàn cầu. Các
ước tính ban đầu dự đốn rằng, nếu vi rút trở thành đại dịch toàn cầu, hầu hết các nền
kinh tế lớn sẽ mất ít nhất 2,9% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của họ vào năm 2020.
Dự báo này đã được điều chỉnh lại thành tổn thất GDP là 4,5%. Để đưa con số này vào
viễn cảnh, GDP toàn cầu được ước tính vào khoảng 87,55 nghìn tỷ đơ la Mỹ vào năm
2019 - có nghĩa là mức tăng trưởng kinh tế giảm 4,5% dẫn đến sản lượng kinh tế bị
mất gần 3,94 nghìn tỷ đơ la Mỹ.
Thị trường chứng khốn tồn cầu cũng đã bị sụt giảm nghiêm trọng do sự bùng phát

của coronavirus, mặc dù chúng đã có thể phục hồi sau những tổn thất khá nhanh
chóng. Chỉ số Dow Jones đã báo cáo mức giảm trong một ngày lớn nhất từ trước đến

6


nay là gần 3.000 điểm vào ngày 16 tháng 3 năm 2020 - đánh bại kỷ lục trước đó là
2.300 điểm được thiết lập chỉ bốn ngày trước đó.
Thiệt hại kinh tế do đại dịch COVID-19 gây ra phần lớn là do nhu cầu giảm, có nghĩa
là có ít người tiêu dùng sẵn sàng mua hàng hóa và dịch vụ có sẵn trong nền kinh tế
tồn cầu. Có thể thấy rõ sự năng động này trong các ngành bị ảnh hưởng nặng nề như
du lịch và lữ hành. Để làm chậm sự lây lan của virus, các quốc gia đã đặt ra các hạn
chế về việc đi lại và nhiều người không thể mua các chuyến bay cho các kỳ nghỉ hoặc
các chuyến công tác. Sự sụt giảm nhu cầu của người tiêu dùng là nguyên nhân khiến
các hãng hàng khơng mất doanh thu theo kế hoạch và do đó họ phải cắt giảm chi phí
bằng cách giảm số lượng chuyến bay mà họ khai thác. Nếu khơng có sự hỗ trợ của
chính phủ, các hãng hàng khơng cuối cùng cũng sẽ cần phải cắt giảm nhiều thứ để cắt
giảm chi phí hơn. Động lực tương tự cũng áp dụng cho các ngành công nghiệp khác,
chẳng hạn với nhu cầu giảm đối với dầu và ô tô mới do việc đi lại hàng ngày, các sự
kiện xã hội và ngày lễ khơng cịn khả thi. Khi các cơng ty bắt đầu giảm việc làm để bù
đắp cho doanh thu bị mất, điều đáng lo ngại là điều này sẽ tạo ra một vịng xốy kinh
tế đi xuống khi những cơng nhân mới thất nghiệp này khơng cịn đủ khả năng mua
nhiều hàng hóa và dịch vụ như trước. Động lực này khiến các nhà kinh tế suy nghĩ
xem liệu đại dịch COVID-19 có thể dẫn đến suy thối tồn cầu trên quy mơ của cuộc
Đại suy thối hay khơng.
Mặc dù nền kinh tế toàn cầu đang gặp nguy hiểm rõ ràng, nhưng cũng có những lý do
để hy vọng rằng có thể tránh được trường hợp xấu nhất này. Các chính phủ đã học
được từ các cuộc khủng hoảng trước đó rằng tác động của suy thối do nhu cầu thúc
đẩy có thể được đối phó với chi tiêu của chính phủ. Do đó, nhiều chính phủ đang tăng
cường cung cấp phúc lợi tiền tệ cho người dân và đảm bảo các doanh nghiệp có quyền

truy cập vào các quỹ cần thiết để duy trì việc làm cho nhân viên của họ trong suốt đại
dịch. Ngoài ra, bản chất cụ thể của cuộc khủng hoảng này có nghĩa là một số ngành có
thể được hưởng lợi từ nó. Thương mại điện tử, bán lẻ thực phẩm và ngành công
nghiệp chăm sóc sức khỏe mang lại ít nhất một số tăng trưởng kinh tế để bù đắp thiệt
7


hại. Ngồi ra, có thể quan sát thấy sự dịch chuyển gây ra khủng hoảng đối với các hoạt
động trực tuyến (làm việc tại nhà, mua hàng trực tuyến, liên hệ với gia đình, v.v.). Nó
tạo cơ hội cho các nhà cung cấp giải pháp CNTT tăng thị phần của họ.
Cuối cùng, có một thực tế là cuộc khủng hoảng có thể có một ngày kết thúc rõ ràng
khi tất cả các hạn chế có thể được dỡ bỏ - điều này dường như có thể thực hiện được
khi phần lớn dân số toàn cầu được tiêm vắc xin COVID-19. Sau đó, nó có thể cho
phép nền kinh tế tồn cầu phục hồi mạnh sau khi đại dịch kết thúc. Vẫn cịn nhiều biến
số có thể ảnh hưởng đến sự phục hồi kinh tế như vậy - ví dụ, nguồn cung hàng hóa và
dịch vụ giảm để đáp ứng nhu cầu thấp hơn có thể tạo ra sự thiếu hụt trung hạn và tăng
giá - nhưng có một số lý do để nghĩ rằng, với sự kết hợp phù hợp phản ứng thích hợp
của chính phủ và may mắn, một số dự đốn về ngày tận thế hơn có thể không xảy ra.
1.3 Sơ lược ảnh hưởng của Covid-19 đến nền kinh tế Việt Nam
Khác với 2 cú sốc trước là về tài chính - tiền tệ, cú sốc COVID-19 lần này chưa từng
có tiền lệ, tác động mạnh mẽ lên nhiều nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng.
Mặc dù đại dịch COVID-19 tác động lên nhiều lĩnh vực của nền kinh tế nước ta,
nhưng thể hiện tập trung ở hai yếu tố chính là cung và cầu. Đối với yếu tố cầu, dịch
bệnh COVID-19 cùng với việc thực hiện biện pháp giãn cách xã hội làm tiêu dùng
trong nước sụt giảm mạnh. Trong khi đó, các nền kinh tế lớn (Mỹ, Trung Quốc, EU,
Nhật Bản, Hàn Quốc) cũng chịu ảnh hưởng lớn bởi dịch bệnh và thực hiện các biện
pháp giãn cách xã hội dẫn đến tăng trưởng kinh tế suy giảm, kéo theo sự sụt giảm về
cầu nhập khẩu, trong đó có hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam.
COVID-19 tác động lên mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến

tăng trưởng kinh tế, hoạt động thương mại, lao động, việc làm và thu nhập của người
lao động. Tuy nhiên, đứng trước cú sốc này, Nhà nước nhanh chóng thực hiện các giải
pháp mạnh, trước hết là để hạn chế sự lây lan của dịch bệnh, sau đó là để phát triển
kinh tế. Các giải pháp đã chứng tỏ thành công bước đầu khi khống chế được dịch
bệnh, không để lây lan trong cộng đồng trong thời gian dài (trên 3 tháng) và các hoạt
8


động phát triển kinh tế - xã hội, nhất là hoạt động du lịch cũng đang bắt đầu trên con
đường khởi sắc trở lại trước khi dịch bệnh bùng phát lần nữa vào cuối tháng 7-2020.

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
2.1GDP và các công cụ đo lường kinh tế:
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là thước đo tiêu chuẩn của giá trị gia tăng được
tạo ra thông qua sản xuất hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia trong một thời kỳ
nhất định. Như vậy, nó cũng đo lường thu nhập kiếm được từ hoạt động sản xuất
đó, hoặc tổng số tiền chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ cuối cùng (nhập khẩu ít
hơn). Trong khi GDP là chỉ số quan trọng nhất để đánh giá hoạt động kinh tế, nó
khơng cung cấp một thước đo phù hợp về phúc lợi vật chất của người dân mà các
chỉ số thay thế có thể phù hợp hơn. Chỉ số này dựa trên GDP danh nghĩa (còn được
gọi là GDP theo giá hiện hành hoặc GDP theo giá trị) và có sẵn trong các thước đo
khác nhau: đơ la Mỹ và đô la Mỹ trên đầu người (PPP hiện tại). Tất cả các nước
OECD tổng hợp dữ liệu của họ theo Hệ thống Tài khoản Quốc gia (SNA) năm
2008. Chỉ số này ít phù hợp hơn để so sánh theo thời gian, vì sự phát triển khơng
chỉ do tăng trưởng thực tế gây ra mà còn do những thay đổi về giá cả và PPP.
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là ước tính tổng giá trị của tất cả các sản phẩm
và dịch vụ cuối cùng được tạo ra trong một thời kỳ nhất định theo tư liệu sản xuất
thuộc sở hữu của cư dân của một quốc gia. GNP thường được tính bằng cách lấy
tổng chi tiêu tiêu dùng cá nhân, đầu tư tư nhân trong nước, chi tiêu chính phủ, xuất
khẩu rịng và bất kỳ thu nhập nào mà người cư trú kiếm được từ các khoản đầu tư ở

nước ngoài, trừ đi thu nhập kiếm được trong nền kinh tế trong nước của người cư
trú nước ngoài. Xuất khẩu ròng thể hiện sự chênh lệch giữa những gì một quốc gia
xuất khẩu trừ đi bất kỳ nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ nào.

9


GNP liên quan đến một thước đo kinh tế quan trọng khác được gọi là tổng sản
phẩm quốc nội (GDP), tính đến tất cả sản lượng được sản xuất trong biên giới của
một quốc gia bất kể ai sở hữu tư liệu sản xuất. GNP bắt đầu bằng GDP, cộng thu
nhập đầu tư của cư dân từ các khoản đầu tư ra nước ngoài và trừ thu nhập đầu tư
của cư dân nước ngoài kiếm được trong một quốc gia.
2.2Một số khái niệm:
Thất nghiệp xảy ra khi một người đang tích cực tìm kiếm việc làm khơng thể tìm
được việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp thường được sử dụng như một thước đo sức khỏe
của nền kinh tế. Thước đo thất nghiệp phổ biến nhất là tỷ lệ thất nghiệp, là số người
thất nghiệp chia cho số người trong lực lượng lao động.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng
sản lượng quốc dân (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình qn trên
đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định.
Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ
tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một giai
đoạn.
Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần so
sánh.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô kinh tế
kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước. Tốc
độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.
Biểu diễn bằng toán học, sẽ có cơng thức:
y = dY/Y × 100(%),

Trong đó Y là quy mô của nền kinh tế, và y là tốc độ tăng trưởng. Nếu quy mô kinh
tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP
(hoặc GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP)
thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế. Thông thường, tăng
trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu danh nghĩa.
10


Xuất khẩu ròng là thước đo tổng thương mại của một quốc gia. Cơng thức cho
xuất khẩu rịng là một cơng thức đơn giản: Giá trị của tổng hàng hóa và dịch vụ
xuất khẩu của một quốc gia trừ đi giá trị của tất cả hàng hóa và dịch vụ mà quốc gia
đó nhập khẩu bằng với xuất khẩu rịng của quốc gia đó.
Một quốc gia có xuất khẩu rịng dương được hưởng thặng dư thương mại, trong khi
xuất khẩu rịng âm có nghĩa là quốc gia đó có thâm hụt thương mại. Do đó, xuất
khẩu rịng của một quốc gia là một thành phần của cán cân thương mại tổng thể của
quốc gia đó.
Nhà nhập khẩu rịng là một quốc gia mua từ các quốc gia khác về mặt thương mại
toàn cầu nhiều hơn là bán cho họ trong một khoảng thời gian nhất định. Các quốc
gia sản xuất hàng hóa dựa trên các nguồn tài nguyên sẵn có trong khu vực của họ.
Bất cứ khi nào một quốc gia khơng thể sản xuất một hàng hóa cụ thể nhưng vẫn
muốn có nó, quốc gia đó có thể mua nó như một hàng nhập khẩu từ các nước khác
sản xuất và bán hàng hóa đó.
Một nhà nhập khẩu rịng có thể được đối chiếu với một nhà xuất khẩu rịng, là một
quốc gia bán ra nước ngồi nhiều hơn lượng họ mua.
Cán cân thương mại (BOT) là sự chênh lệch giữa giá trị hàng hóa xuất khẩu của
một quốc gia và giá trị hàng hóa nhập khẩu của một quốc gia trong một thời kỳ
nhất định. Cán cân thương mại là thành phần lớn nhất của cán cân thanh tốn
(BOP) của một quốc gia. Đơi khi cán cân thương mại giữa hàng hóa của một quốc
gia và cán cân thương mại giữa các dịch vụ của quốc gia đó được phân biệt như hai
con số riêng biệt.

Cán cân thương mại còn được gọi là cán cân thương mại, cán cân thương mại quốc
tế, cán cân thương mại hoặc xuất khẩu ròng.
Lạm phát là sự suy giảm sức mua của một loại tiền nhất định theo thời gian. Một
ước tính định lượng về tốc độ suy giảm sức mua có thể được phản ánh trong sự gia
11


tăng của mức giá trung bình của một rổ hàng hóa và dịch vụ được lựa chọn trong
nền kinh tế trong một khoảng thời gian nào đó. Sự gia tăng của mức giá chung,
thường được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm, có nghĩa là một đơn vị tiền tệ có hiệu
quả mua ít hơn so với thời kỳ trước.
Lạm phát có thể đối lập với giảm phát, xảy ra khi sức mua của tiền tệ tăng lên và
giá cả giảm xuống.
Chính sách tiền tệ, mặt cầu của chính sách kinh tế, đề cập đến các hành động do
ngân hàng trung ương của một quốc gia thực hiện nhằm kiểm soát cung tiền và đạt
được các mục tiêu kinh tế vĩ mô nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Chính sách tài khóa đề cập đến việc sử dụng chính sách chi tiêu và thuế của chính
phủ để tác động đến các điều kiện kinh tế, đặc biệt là các điều kiện kinh tế vĩ mô,
bao gồm tổng cầu về hàng hóa và dịch vụ, việc làm, lạm phát và tăng trưởng kinh
tế.

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Phương pháp định tính
Phương pháp nghiên cứu định tính là được sử dụng để khám phá, tìm ra các ý tưởng,
quan điểm nhằm tìm ra cái nhìn sâu sắc về vấn đề. Ngồi ra, phương pháp này có thể
được sử dụng để phát hiện tác động của Covid-19 đến nền kinh tế trong tương lai.
Các phương thức thu thập dữ liệu cho nghiên cứu định tính khá đa dạng và thường
khơng có cấu trúc cụ thể như nghiên cứu định lượng. Có thể kể đến một số phương
pháp như nhóm tập trung, phỏng vấn cá nhân và quan sát.
Nghiên cứu định tính tiếp cận đối tượng nghiên cứu một cách tự nhiên nhất, để đảm

bảo rằng các hành vi, quan điểm và ý kiến mà đối tượng nghiên cứu đưa ra sẽ khách
quan và chính xác nhất.
3.2 Phương pháp định lượng
12


Phương pháp nghiên cứu định lượng là việc thu thập và phân tích thơng tin trên cơ sở
dữ liệu thu thập được từ thị trường. Mục đích của nghiên cứu định lượng là rút ra kết
luận thị trường thông qua việc sử dụng các phương pháp thống kê để xử lý số liệu và
dữ liệu.
Nghiên cứu định lượng thích hợp trong nghiên cứu về thái độ, quan điểm và hành vi
của người được khảo sát. Kết quả định lượng từ một nhóm mẫu sẽ được tổng quát hóa
trên một quần thể mẫu lớn hơn.
Phương pháp thu thập dữ liệu định lượng thường có cấu trúc hơn so với thu thập dữ
liệu định tính, bao gồm nhiều hình thức khảo sát khác nhau như khảo sát trực tuyến,
khảo sát giấy, khảo sát di động, khảo sát di động. thư hoặc email, v.v.
Nghiên cứu định lượng thường gắn với việc dựa trên các lý thuyết, suy luận để định
lượng, đo lường các yếu tố nghiên cứu, kiểm tra mối tương quan giữa các biến dưới
dạng đo lường và thống kê.
3.3 Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Mục đích của phương pháp là để thu thập các thông tin liên quan đến cơ sở lý thuyết
của đề tài, kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài đã được cơng bố, chủ trương chính
sách liên quan đến đề tài và các số liệu thống kê. Các bước nghiên cứu tài liệu thường
trải qua ba bước: thu thập tài liệu, phân tích tài liệu và trình bày tóm tắt nội dung các
nghiên cứu trước đó.
3.4 Thu thập dữ liệu
Cơng cụ nghiên cứu đóng một vai trò thiết yếu trong nghiên cứu và ảnh hưởng đến dữ
liệu thu thập được. Có nhiều loại cơng cụ khác nhau có thể được sử dụng để có được
dữ liệu đầy đủ cho nghiên cứu, chẳng hạn như bảng câu hỏi, bài kiểm tra, phỏng vấn,
v.v. Mỗi phương pháp đều có ưu và nhược điểm riêng; trong khi đó, một trong những

điều quan trọng nhất góp phần vào sự thành công của một nghiên cứu là cách các công
cụ được sử dụng để thu thập thông tin để trả lời các câu hỏi nghiên cứu, chứ không
phải sử dụng bao nhiêu công cụ thu thập dữ liệu.
3.5

Dữ liệu sơ cấp
13


Dữ liệu sơ cấp sẽ được tác thập cho mục đích nghiên cứu cụ thể, phù hợp với vấn đề
nghiên cứu. Tác giả lập kế hoạch thu thập thông tin của các ngành kinh tế.
3.6

Nguồn dữ liệu thứ cấp

Tác giả tìm hiểu những cơng trình liên quan trước đó, các bài báo, các tạp chí và tham
khảo số liệu từ tổng cục thống kê, nhằm tìm hiểu nội dung để tham khảo phục vụ cho
công tác nghiên cứu của tác giả.
3.7

Phân tích số liệu

Sau khi đã xác định được lượng mẫu, nhóm nghiên cứu sẽ sử dụng phần mềm SPSS
22.0 để phân tích để phân tích và tổng hợp dữ liệu thu thập được và đưa ra những nhận
định khách quan các tác động của dịch Covid-19 đến nền kinh tế. Phần mềm SPSS là
một trong những phần mềm phổ biến nhất hiện nay sử dụng để phân tích những dữ
liệu phức tạp với các hướng dẫn đơn giản. Phần mềm này có thể lấy dữ liệu từ mọi
loại tệp và sử dụng chúng để lập các bảng, biểu đồ và biểu thị về xu hướng, cũng như
các thống kê mơ tả và thực hiện phân tích các thống kê phức tạp, các phương trình hồi
quy một biến hoặc đa biến.

CHƯƠNG 4: THẢO LUẬN
4.1 Tình hình kinh tế
4.1.1 Trên thế giới:
Năm 2020, Đại dịch COVID-19 bùng phát và lan rộng khắp toàn cầu đã khiến kinh tế
thế giới rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Tuy nhiên, trong đầu năm 2021, sau khi triển
khai vắc xin hiệu quả và các nền kinh tế đối phó tốt hơn với dịch COVID-19, triển
vọng kinh tế toàn cầu đã được cải thiện rõ rệt trong những tháng gần đây. Theo Ngân
hàng Thế giới, tăng trưởng kinh tế toàn cầu dự kiến tăng 4% trong năm 2021 sau khi
giảm 4,3% trong năm 2020 do ảnh hưởng của dịch COVID-19. Quỹ Tiền tệ Quốc tế
nhận định, nền kinh tế toàn cầu sau khi tăng trưởng âm 3,5% vào năm 2020, dự kiến
sẽ tăng 5,5% vào năm 2021. Các tổ chức kinh tế tài chính tư nhân như Conference
Board và Fitch Ratings dự báo tăng trưởng thế giới năm 2021 tăng lần lượt là 5,0% và
6,1%. Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu đạt 5,6%
14


trong năm 2021. Trong số các quốc gia phát triển, Hoa Kỳ được dự báo tăng trưởng
6,5%, khu vực đồng Euro tăng trưởng 3,9% trong năm 2021. Dự báo tăng trưởng của
Nhật Bản và Trung Quốc lần lượt là 2,7% và 7,8% trong năm 2021. Đối với khu vực
Đông Nam Á, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế dự báo Việt Nam và Ma-lai-xi-a
là động lực tăng trưởng của khu vực khi cùng đạt mức 7,0% trong năm 2021. Phi-lipin, Thái Lan và In-đô-nê-xi-a được dự báo tăng trưởng tương ứng là 5,9%, 4,5% và
4,9% trong năm 2021. Trong ngắn hạn, Fitch Ratings dự báo tăng trưởng GDP của thế
giới trong Quý I/2021 tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước. Tăng trưởng GDP Quý
I/2021 so với cùng kỳ năm trước của Hoa Kỳ giảm 0,2; khu vực đồng Euro giảm
2,2%; Nhật Bản giảm -0,8% trong khi Trung Quốc tăng 19,3%. Dự báo tăng trưởng
GDP Quý I/2021 của Trading Economics đối với một số nền kinh tế trong khu vực
Đông Nam Á gồm In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-lipin, Thái Lan và Xin-ga-po lần
lượt là 1,9%, -0,7%, -3,5%, -1,5% ,1,5% so với cùng kỳ năm trước.
Xu hướng kinh tế vĩ mô tồn cầu:
• Kinh tế tồn cầu tiếp tục đà phục hồi

Theo Ngân hàng Thế giới (WB) , sau khi suy thoái trong năm 2020 do ảnh hưởng của
dịch COVID-19, tăng trưởng kinh tế toàn cầu dự kiến tăng 4% trong năm 2021. Dự
báo tăng trưởng toàn cầu năm 2022 chỉ đạt 3,8% do tác động lâu dài của đại dịch đối
với tăng trưởng tiềm năng. Kinh tế toàn cầu dự kiến sẽ phục hồi mạnh khi niềm tin,
tiêu dùng và thương mại dần được cải thiện nhờ nỗ lực tiêm chủng trên toàn thế giới.
Các nền kinh tế phát triển được dự báo sẽ phục hồi, với mức tăng trưởng lần lượt đạt
3,3% và 3,5% vào năm 2021 và 2022. Tăng trưởng của các nền kinh tế đang phát triển
và thị trường mới nổi dự báo đạt 5% vào năm 2021 nhờ kinh tế của Trung Quốc được
phục hồi và giảm xuống 4,2% vào năm 2022.
Cũng theo WB , chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) tổng hợp toàn cầu tăng trong
tháng 2/2021, đạt 53,2 điểm từ mức 52,3 điểm của tháng 1/2021. Những diễn biến tích
cực trong đối phó với đại dịch giúp cải thiện tâm lý nhà đầu tư. Chỉ số niềm tin kinh tế

15


toàn cầu (Sentix) tăng 11 tháng liên tiếp, đạt 20,5 điểm trong tháng 3/2021, mức cao
nhất kể từ tháng 3/2018.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho rằng việc thực hiện các chính sách hỗ trợ và triển khai
vắc xin sẽ thúc đẩy các hoạt động kinh tế toàn cầu. Sau khi tăng trưởng - 3,5% vào
năm 2020, nền kinh tế toàn cầu dự kiến sẽ tăng 5,5% vào năm 2021 và 4,2% vào năm
2022. Dự báo tăng trưởng của năm 2021 được điều chỉnh tăng 0,3 điểm phần trăm so
với dự báo đưa ra vào tháng 10/2020, phản ánh kỳ vọng tăng cường hoạt động kinh tế
thông qua nỗ lực tiêm vắc-xin và hỗ trợ chính sách bổ sung ở một số nền kinh tế lớn.
Sự phục hồi được dự báo sẽ khác nhau đáng kể giữa các quốc gia. Trong số các nền
kinh tế phát triển, Hoa Kỳ và Nhật Bản dự kiến sẽ đạt mức tăng trưởng trước đại dịch
(2019) vào nửa cuối năm 2021, trong khi khu vực đồng Euro và Vương quốc Anh sẽ
đạt mức tăng trưởng trước đại địch vào năm 2022. Các nền kinh tế đang phát triển và
thị trường mới nổi dự báo cũng có mức phục hồi khác nhau. Đối với Trung Quốc, quá
trình phục hồi kinh tế sẽ nhanh hơn nhờ áp dụng các biện pháp ngăn chặn dịch hiệu

quả, đầu tư công mạnh mẽ và hỗ trợ thanh khoản của ngân hàng trung ương cao. Các
nền kinh tế dựa vào du lịch đối mặt với nhiều khó khăn do du lịch xuyên biên giới bị
tác động nặng nề bởi đại dịch.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) nhận định triển vọng kinh tế toàn cầu
đã được cải thiện rõ rệt trong những tháng gần đây, nhờ triển khai vắc xin hiệu quả, hỗ
trợ tài chính bổ sung ở một số quốc gia và nhiều dấu hiệu cho thấy các nền kinh tế
đang đối phó tốt hơn với dịch COVID-19. Tăng trưởng GDP toàn cầu được dự báo đạt
5,6% trong năm 2021 và 4% trong năm 2022, nhờ giá trị sản xuất toàn cầu tăng cao
hơn mức trước đại dịch vào thời điểm giữa năm 2021. Tuy nhiên, tăng trưởng có dấu
hiệu phân hóa giữa các quốc gia và các lĩnh vực. Các biện pháp ngăn chặn dịch
COVID-19 nghiêm ngặt sẽ kìm hãm tăng trưởng ở một số quốc gia và ngành dịch vụ

16


trong thời gian tới, trong khi những quốc gia khác sẽ được hưởng lợi từ các chính sách
y tế cơng cộng hiệu quả, triển khai vắc xin nhanh hơn và hỗ trợ chính sách mạnh mẽ.
Theo Báo cáo triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 3/2021 của Conference Board sau khi
giảm 3,7% trong năm 2020, tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2021 được dự báo tăng
5,0% (cao hơn mức 4,4% trong báo cáo đưa ra vào tháng 2/2021). Conference Board
điều chỉnh tăng dự báo trong tháng 3/2021 do dữ liệu GDP Quý IV/2020 của một số
quốc gia tăng mạnh hơn dự kiến (Ấn Độ, Nhật Bản và Thổ Nhĩ Kỳ), cũng như điều
chỉnh tăng dự báo tăng trưởng của Hoa Kỳ sau khi quốc gia này cơng bố gói tài khóa
1,9 nghìn tỷ đơ la Mỹ. Việc triển khai vắc-xin sẽ tạo điều kiện thúc đẩy tốc độ phục
hồi toàn cầu từ Quý II hoặc Quý III/2021, tuy nhiên hoạt động của các ngành bị ảnh
hưởng nặng nề bởi dịch COVID-19 như dịch vụ sẽ chỉ phục hồi vào giữa năm 2022 tại
các nền kinh tế phát triển. Trong phần lớn các quốc gia đang phát triển và các thị
trường mới nổi, q trình phục hồi có thể lâu hơn khiến cho triển vọng tăng trưởng
trong những năm tới vẫn chưa thực sự khả quan, đặc biệt là đối với châu Phi cận Saha-ra và châu Mỹ La-tinh.
Trong Báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 3/2021, Fitch Ratings nhận định

triển vọng tăng trưởng toàn cầu đang được cải thiện khi hỗ trợ tài chính được tăng
cường mạnh mẽ, các nền kinh tế thích ứng tốt hơn với các điều kiện giãn cách xã hội
và động lực từ triển khai tiêm chủng trên thế giới. Theo đó, GDP tồn cầu sau khi
giảm 3,4% trong năm 2020 sẽ tăng lên 6,1% trong năm 2021 do tăng trưởng Quý
IV/2020 mạnh hơn dự kiến tại châu Âu và các thị trường mới nổi. Trong ngắn hạn,
Fitch Rating dự báo tăng trưởng GDP của thế giới trong Quý I/2021 tăng 3,2% so với
cùng kỳ năm trước và 0,2% so với quý trước.

17


Tổng quan biến động thị trường thế giới:
• Thương mại hàng hóa phục hồi mạnh mẽ nhưng triển vọng tăng trưởng
thương mại dịch vụ còn khá mong manh
Theo Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) , thương mại phục hồi mạnh mẽ nhưng
động lực có thể khơng kéo dài. Tăng trưởng thương mại hàng hóa tồn cầu phục hồi
trong Q III/2020 và tăng tương đối mạnh trong Quý IV/2020, tuy nhiên, tốc độ tăng
này khó có thể duy trì trong nửa đầu năm 2021 vì các chỉ số quan trọng hàng đầu
dường như đã đạt mức cao nhất. Chỉ số thước đo thương mại hàng hóa trong tháng
2/2021 đạt 103,9 cao hơn mức 100,7 trong tháng 11/2020, thể hiện sự cải thiện rõ rệt
của thương mại hàng hóa kể từ khi chỉ số này giảm mạnh trong nửa đầu năm 2020. Tất
cả các chỉ số thành phần đều nằm trên xu hướng, nhưng một số chỉ số đã có dấu hiệu
giảm đà tăng hoặc sụt giảm trong thời gian tới. Các chỉ số về đơn hàng xuất khẩu
(103,4) và sản phẩm ô tô (99,8), những chỉ số quan trọng phản ánh thương mại thế
giới, vừa đạt đỉnh gần đây và bắt đầu mất đà. Ngược lại, hai chỉ số vận chuyển côngten-nơ (107,3) và hàng không (99,4) vẫn đang tăng. Bên cạnh đó, mặc dù các chỉ số về
linh kiện điện tử (105,1) và nguyên liệu thô (106,9) cao hơn chỉ số chung nhưng có thể
18


là do dự trữ hàng tồn kho tạm thời đang cao. Tổng hợp lại, những xu hướng này cho

thấy đà đi lên của thương mại có thể sắp đạt đỉnh.
Ngược lại, thương mại dịch vụ vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi rõ nét. Thương mại dịch
vụ toàn cầu trong Quý II/2020 giảm 24% so với cùng kỳ năm trước, theo số liệu thống
kê WTO công bố ngày 26/1/2021. Dữ liệu sơ bộ cho thấy, trong tháng 11/2020,
thương mại dịch vụ vẫn thấp hơn 16% so với mức của năm 2019. Triển vọng phục hồi
vẫn kém vì đợt lây nhiễm COVID-19 thứ hai đòi hỏi các biện pháp ngăn chặn mới,
chặt chẽ hơn ở nhiều quốc gia, với các hạn chế thắt chặt đối với du lịch và các dịch vụ
liên quan kéo dài đến Quý I/2021. Du lịch vẫn là lĩnh vực dịch vụ bị ảnh hưởng nhiều
nhất, giảm 68% trên toàn cầu so với cùng kỳ năm 2019. Trong Quý III/2020, chi tiêu
của khách quốc tế giảm 88% ở châu Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê, 80% ở cả châu Á và châu
Phi, 78% ở Bắc Mỹ và 55% ở châu Âu.
• Giá cả trên thị trường hàng hóa có xu hướng phục hồi
WB nhận định giá hàng hóa tiếp tục phục hồi, với giá năng lượng tăng 10% và giá các
mặt hàng phi năng lượng tăng 4% trong tháng 01/2021. Giá dầu tiếp tục tăng trong
tháng 02/2021 bất chấp việc Cơ quan Năng lượng Quốc tế hạ thấp triển vọng nhu cầu
dầu trong nửa đầu năm 2021 do các đợt ngừng hoạt động mới. Giá dầu thô Brent đạt
65 USD/thùng lần đầu tiên trong năm, được hỗ trợ bởi quyết định hạn chế sản xuất của
Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ và các đối tác. Giá kim loại cũng đang tăng, phần
lớn là do nhu cầu mạnh mẽ từ Trung Quốc. Giá nông sản tiếp tục tăng, tăng 5% trong
tháng 01/2021, đạt mức cao nhất kể từ năm 2014. Mức tăng lớn nhất là giá ngũ cốc và
hạt có dầu do nhu cầu tăng cao từ Trung Quốc và sự thiếu hụt sản lượng ở một số khu
vực, chẳng hạn như sụt giảm sản lượng đậu tương ở Nam Mỹ và dầu cọ ở Nam Á do
thời tiết khô hạn.

19


• Điều kiện tài chính tồn cầu giúp tăng niềm tin của nhà đầu tư
Theo WB, chi phí đi vay vẫn ở mức thấp. Trong tháng 02/2021, thị trường chứng
khoán toàn cầu đạt mức cao trong nhiều năm khi giá tài sản tiếp tục tăng do kỳ vọng

vào các biện pháp kích thích kinh tế mới tại Hoa Kỳ và triển vọng đối phó với đại dịch
có dấu hiệu cải thiện. Các điều kiện tài chính tương đối thuận lợi khi các ngân hàng
trung ương lớn tái khẳng định việc tiếp tục mua tài sản. Chi phí đi vay của doanh
nghiệp đang ở mức thấp. Việc định giá vốn cổ phần cao và lãi suất thấp cũng đang
thúc đẩy hoạt động huy động vốn cổ phần trên toàn cầu. Các tập đoàn đã huy động
được gần 150 tỷ USD vốn chủ sở hữu đến thời điểm tháng 02/2021, gấp hơn hai lần so
với một năm trước.
IMF dự báo các ngân hàng trung ương lớn sẽ duy trì lãi suất chính sách ở mức hiện tại
đến cuối năm 2022. Do đó, các điều kiện tài chính được kỳ vọng sẽ duy trì ở mức hiện
tại đối với các nền kinh tế phát triển trong khi dần dần được cải thiện đối với các nền
kinh tế đang phát triển và mới nổi. Các chính sách như vậy sẽ tác động lan tỏa tích cực
đối với các nền kinh tế và giảm khả năng thay đổi danh mục đầu tư.
• Đã xuất hiện một số dấu hiệu của lạm phát nhưng chưa thực sự rõ ràng
OECD cho biết triển vọng phục hồi bền vững toàn cầu được phản ánh trong kỳ vọng
gia tăng về lạm phát trong tương lai, đặc biệt là trên các thị trường tài chính. Lạm phát
gần đây đã có dấu hiệu tăng lên ở nhiều nền kinh tế phát triển và duy trì tương đối cao
tại một số nền kinh tế đang phát triển và mới nổi, một phần do giá hàng hóa tăng vọt
và giảm giá tiền tệ. Nhu cầu phục hồi nhanh hơn dự kiến, đặc biệt của Trung Quốc,
cùng với thiếu hụt nguồn cung, đã làm giá lương thực và kim loại tăng đáng kể, và giá
dầu đã phục hồi trở lại mức trung bình của năm 2019. Tình trạng thiếu hụt nguồn cung
tạm thời trong các lĩnh vực như chất bán dẫn và vận chuyển, cũng góp phần làm tăng
chi phí đầu vào. Tuy nhiên, áp lực giá ở các nền kinh tế phát triển nhìn chung vẫn ở

20


mức nhẹ, phản ánh năng lực dự phòng khá lớn và thị trường lao động vẫn còn yếu. Tại
các nền kinh tế mới nổi lớn, lạm phát có thể cao hơn dự kiến nếu đồng nội tệ giảm giá
so với đồng đơ la Mỹ. Giá hàng hóa cao hơn cũng sẽ làm tăng lạm phát ở các nước
nhập khẩu hàng hóa rịng như Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ.

• Dịng vốn vào các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi mất dần động lực
Báo cáo của WB cho thấy sau khi phục hồi nhanh chóng vào cuối năm ngối, dịng
vốn đầu tư vào các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi đã mất dần động
lực vào cuối tháng 01/2021 do tâm lý ngại rủi ro tồn cầu tăng đột biến đã kích hoạt
rút vốn cổ phần, đặc biệt từ các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi ở
Đông Á và Thái Bình Dương. Đầu tư vào các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi,
trừ Trung Quốc, giảm mạnh trong năm 2020. Suy giảm mạnh nhất ở châu Mỹ La-tinh,
Ca-ri-bê và Nam Á, nơi tăng trưởng GDP giảm nhiều nhất. Khu vực Đông Á, bao gồm
Trung Quốc và Việt Nam, có mức giảm đầu tư nhỏ nhất trong năm 2020 do được hỗ
trợ bởi các chương trình kích thích tài khóa lớn. Ngay cả khi đại dịch dự kiến sẽ dần
kết thúc vào năm 2021, mức phục hồi ngắn hạn trong đầu tư vào các nền kinh tế đang
phát triển được dự đoán đạt 5,7%, thấp hơn nhiều so với con số 10,8% của năm 2010
sau cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu. Đối với hầu hết các nền kinh tế đang phát
triển, tăng trưởng đầu tư trong vài năm tới sẽ duy trì bằng hoặc thấp hơn tốc độ trung
bình của những năm 2010.
• Thất nghiệp có xu hướng tăng
Các điều kiện thị trường lao động đang phục hồi chậm. Các biện pháp duy trì việc làm
như chương trình việc làm ngắn hạn và trợ cấp lương tiếp tục giúp duy trì việc làm ở
châu Âu và Nhật Bản. Tuy nhiên, tại các nền kinh tế OECD, gần 10 triệu người thất
nghiệp so với trước khủng hoảng, tỷ lệ lao động không tham gia hoạt động kinh tế gia
tăng và tỷ lệ lao động có việc làm giảm. Ở các nước đang phát triển, tình trạng mất
việc cao đáng kể đã làm gia tăng tình trạng nghèo đói và bần cùng hóa hàng triệu
người lao động. Sự suy giảm việc làm chủ yếu tập trung vào các hoạt động dịch vụ,

21


như giải trí, khách sạn, vận tải và thương mại bán buôn, bán lẻ, chiếm từ 20-30% việc
làm ở hầu hết các nền kinh tế, cho thấy tính chất bấp bênh của nhiều công việc trừ khi
vắc-xin được triển khai nhanh chóng và nới lỏng các biện pháp phong tỏa.

Theo Liên hợp quốc , đến tháng 4/2020, các biện pháp đóng cửa tồn bộ hoặc một
phần đã ảnh hưởng đến gần 2,7 tỷ người lao động, chiếm khoảng 81% lực lượng lao
động trên thế giới. Tổng số giờ làm việc bị mất trung bình trong ba quý đầu năm 2020
là 10,7%, tương ứng với 3,5 nghìn tỷ đơ la thu nhập lao động bị mất, tương đương với
khoảng 5,5% sản lượng toàn cầu năm 2019. Tỷ lệ thất nghiệp của các quốc gia thành
viên OECD tăng lên đến 8,8% vào tháng 4/2020, trước khi giảm xuống còn 6,9% vào
tháng 11/2020. Tỷ lệ thất nghiệp có thể vẫn tăng trở lại ở mức khoảng 8% hoặc cao
hơn trong đầu năm 2021, khi Pháp, Đức và Vương quốc Anh tái áp dụng các biện pháp
phong tỏa.
• Một số rủi ro đối với tăng trưởng toàn cầu
Theo WB, phục hồi kinh tế toàn cầu có thể bị ảnh hưởng bởi một số rủi ro sau:
Thứ nhất, đại dịch có thể tiếp tục lây lan khi triển khai vắc xin chậm trễ hoặc không
đầy đủ. Ngay cả khi thực hiện giãn cách xã hội và áp dụng các biện pháp kiểm soát đại
dịch, làn sóng lây lan bổ sung vẫn sẽ là nguy cơ cho đến khi đạt được tiêm chủng hiệu
quả trên diện rộng. Tất cả các quốc gia, bao gồm cả những quốc gia đã hứng chịu đợt
bùng phát dịch COVID-19 lớn nhất, vẫn chưa thể đạt mức miễn dịch cộng đồng. Các
đợt bùng phát có thể phát sinh do sự xuất hiện của các chủng COVID-19 mới, độc hại
hơn. Bên cạnh đó, nỗ lực sớm nới lỏng các biện pháp ngăn chặn, chẳng hạn như mở
cửa lại hoàn toàn các trường học hoặc cơ sở kinh doanh khi tỷ lệ lây nhiễm vẫn còn
cao, hoặc thiếu tuân thủ các hướng dẫn về sức khỏe cũng là nguy cơ làm tái bùng phát
dịch COVID-19.

22


Thứ hai, rủi ro của các cuộc khủng hoảng tài chính đang gia tăng do gia tăng nợ, hoạt
động của hệ thống ngân hàng bị ảnh hưởng. Hỗ trợ tài chính và vay nợ của khu vực tư
nhân để chống chọi với cú sốc từ dịch COVID-19 đã làm nợ tăng cao. Mặc dù lãi suất
thấp giúp giảm thiểu rủi ro cho một số quốc gia, nhưng mức nợ tăng cao vẫn làm tăng
tính dễ bị tổn thương trước sự thay đổi của điều kiện thị trường và làm cho các cuộc

khủng hoảng dễ xảy ra hơn.
Thứ ba, suy thoái và dịch bệnh đều có thể có những tác động tiêu cực lâu dài đến sự
phát triển của các nước bị ảnh hưởng thông qua nhiều kênh khác nhau. Do đó, dẫn đến
nguy cơ phá sản các cơng ty, khiến người lao động khơng có việc làm, ảnh hưởng tiêu
cực đến hệ thống tài chính và tăng gánh nặng nợ nần. Dịch bệnh cũng dẫn đến tình
trạng thất học và tình trạng sức khỏe tồi tệ hơn. Dịch COVID-19 dự kiến sẽ làm giảm
đáng kể mức tăng trưởng sản lượng tiềm năng so với trước đại dịch.
Thứ tư, hợp tác tồn cầu xói mịn hơn nữa sẽ làm giảm khả năng ứng phó của thế giới
với các vấn đề xuyên quốc gia ngày càng cấp bách, gồm các cuộc khủng hoảng y tế
trong tương lai cũng như biến đổi khí hậu và đói nghèo tồn cầu. Điều này sẽ gây tổn
hại đặc biệt cho các quốc gia áp dụng chiến lược phát triển dựa vào xuất khẩu.
• Tăng trưởng của một số nền kinh tế:
Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 vẫn còn diễn biến phức tạp nhưng đã xuất hiện
những dấu hiệu phục hồi và niềm tin vào sự phát triển của vắc-xin tăng lên, IMF, WB
và các tổ chức quốc tế khác đã đưa ra dự báo khả quan về triển vọng kinh tế của một
số nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, khu vực đồng Euro, Nhật Bản, Trung Quốc và các
quốc gia Đông Nam Á. Cụ thể:
Hoa Kỳ: Theo báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu của Ngân hàng Thế giới, tăng
trưởng kinh tế Hoa Kỳ dự báo đạt 3,5% trong năm 2021, do nhu cầu yếu trong bối
cảnh hạn chế mới và bùng phát dịch COVID-19 trên diện rộng trong những tháng đầu
năm. Hoạt động kinh tế của Hoa Kỳ dự kiến sẽ tăng trong 6 tháng cuối năm 2021 khi

23


dịch COVID-19 được ngăn chặn nhờ phát triển được vắc-xin và nới lỏng biện pháp
kiểm soát đại dịch.
Chỉ số nhà quản trị mua hàng tổng hợp (PMI) trong tháng 2 được điều chỉnh cao hơn,
đạt 59,5 điểm, tăng so với ước tính sơ bộ (58,8 điểm), chủ yếu nhờ hoạt động của khu
vực tư nhân diễn biến tích cực. Giá trị sản xuất của khu vực dịch vụ tăng cao nhất

trong hơn 6 năm qua. Tăng trưởng đơn hàng mới của khu vực tư nhân đạt mức nhanh
nhất kể từ tháng 4/2018 trong khi việc làm tăng không đáng kể.
IMF điều chỉnh dự báo tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ năm 2021 lên thêm 2 điểm
phần trăm so với dự báo đưa ra hồi tháng 10 năm 2020. OECD cũng nhận định nhờ
các gói kích cầu tài chính lớn của Hoa Kỳ cùng với tốc độ phát triển vắc-xin nhanh
chóng và nhu cầu tăng của các đối tác thương mại lớn nên OECD điều chỉnh dự báo
tăng trưởng GDP của nước này tăng lên thêm trên 3 điểm phần trăm cho năm 2021,
đạt 6,5%.
Theo Conference Board nền kinh tế Hoa Kỳ được kỳ vọng sẽ tăng trưởng trở lại từ
Quý II/2021. Tăng trưởng GDP năm 2021 dự báo đạt 5,5%, sau khi giảm 3,5% trong
năm 2020 với giả định các ca mắc mới COVID-19 đạt đỉnh trong những tháng đầu
năm nay và khơng dẫn đến tình trạng phong tỏa trên diện rộng. Sản xuất vắc-xin sẽ
tăng trong những tháng tiếp theo, dự kiến tiêm chủng mở rộng sẽ thực hiện được trong
Quý II và nhân rộng trong Quý III/2021. Gói cứu trợ bổ sung 1,9 nghìn tỷ sẽ được
triển khai trong Quý II và Quý III giúp tiêu dùng và thị trường lao động Hoa Kỳ phục
hồi nhanh chóng.
Fitch Ratings dự báo tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ đạt 6,2% trong năm 2021. Động
lực chính cho tăng trưởng là gói kích cầu tài chính lớn hơn dự kiến, trị giá 1,9 nghìn tỷ
đơ la chiếm hơn 2,5% GDP tồn cầu, vừa mới được chính phủ Hoa Kỳ thơng qua.
Đối với tăng trưởng Quý I/2021 của Hoa Kỳ, Fitch Ratings dự báo tăng trưởng GDP
của Hoa Kỳ giảm 0,2% trong Quý I/2021 so với cùng kỳ năm trước nhưng tăng 1% so

24


với quý trước. Trong khi đó, Trading Economics cho rằng GDP Quý I/2021 của Hoa
Kỳ tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước và tăng 2,5% so với quý trước.
Khu vực đồng Euro: Sau khi kinh tế suy thoái mạnh do đại dịch lịch sử gây ra, phục
hồi hoạt động kinh tế trong Quý III/2020 của khu vực đồng Euro một lần nữa lại bị
gián đoạn do bùng phát làn sóng COVID-19 lần thứ hai. Điều này đã buộc nhiều quốc

gia thành viên phải thực hiện các biện pháp phong tỏa nghiêm ngặt để hạn chế lây lan
dịch bệnh. Một số ngành dịch vụ quan trọng của nền kinh tế khu vực, đặc biệt là ngành
du lịch vẫn chưa có khả năng phục hồi.
Mặc dù đại dịch diễn biến xấu, ngành công nghiệp chế biến chế tạo tiếp tục phục hồi
nhờ nhu cầu ngoài nước tăng cao. Trong bối cảnh suy thối lịch sử tồn cầu, các ứng
phó chính sách được triển khai một cách sâu rộng và chắc chắn. Các gói hỗ trợ tài
chính do Liên minh châu Âu cung cấp thông qua khoản tài trợ cho các quốc gia thành
viên bị ảnh hưởng nặng nề dự kiến sẽ hỗ trợ hoạt động và phát huy tác dụng từ năm
2021.
Sau khi giảm mạnh 7,4% trong năm 2020, tăng trưởng kinh tế của khu vực đồng Euro
dự báo sẽ phục hồi, tăng 3,6% trong năm 2021, và đạt 4% vào năm 2022 khi tiêm
chủng mở rộng được triển khai rộng rãi, góp phần thúc đẩy tiêu dùng và đầu tư.
Chỉ số PMI tổng hợp trong tháng 2/2021 của khu vực đồng Euro được điều chỉnh tăng,
đạt 48,1 điểm (cao hơn so với con số ước tính sơ bộ 48,0 đưa ra trước đây). Chỉ số
PMI bị tác động mạnh do khu vực tư nhân sụt giảm liên tiếp trong 4 tháng. Giá trị sản
xuất ngành dịch vụ vẫn giảm mạnh nhưng ngành chế biến chế tạo đã tăng trở lại, tiệm
cận mức cao của 3 năm gần đây. Tổng đơn hàng mới giảm 5 tháng liên tiếp mặc dù
xuất khẩu tăng mạnh nhất trong gần 3 năm và việc làm tăng lần đầu tiên trong một
năm qua.
Theo Fitch Ratings, khu vực đồng Euro triển khai tiêm chủng vắc-xin chậm hơn Anh
và Hoa Kỳ nhưng chương trình sẽ tăng tốc trong Quý II/2021. Khủng hoảng y tế sẽ
bớt căng thẳng vào giữa năm nay. Tuy nhiên, khởi động chương trình vắc-xin chậm và
25


×