Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Thương mại điện tử: Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.19 KB, 6 trang )

Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018

THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI
CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
E-COMMERCE: OPPORTUNITIES AND CHALLENGES FOR VIETNAMESE
ENTERPRISES
TS. Nguyễn Thị Hoàn
Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Email:
Tóm tắt
Thương mại điện tử (TMĐT) ra đời và đang trở thành xu thế mới thay thế dần phương thức kinh doanh
cũ với rất nhiều ưu thế nổi bật như nhanh hơn, rẻ hơn, tiện dụng hơn, hiệu quả hơn và không bị giới hạn bởi
không gian và thời gian…. TMĐT đem lại cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp, là cầu nối giúp doanh nghiệp
mở rộng thị trường, tham gia hội nhập kinh tế.
Đối với Việt Nam, TMĐT đã xuất hiện từ khá lâu, đang trong quá trình phát triển nhưng chưa thực sự
phát triển mạnh mẽ như ở các quốc gia khác và còn nhiều hạn chế. Những hạn chế của TMĐT ở Việt Nam đang
khiến người tiêu dùng hoang mang, cản bước phát triển của nền kinh tế. Đề cập đến cơ hội và thách thức của
các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia thương mại điện tử là chủ đề chính của bài viết này.
Từ khóa: cơ hội, hạn chế, doanh nghiệp, thương mại điện tử, Việt Nam
Abstract
E-commerce is becoming a new trend replacing the old business model with many outstanding
advantages such as faster, cheaper, more convenient, more efficient and unrestricted by space and time... Ecommerce provides business opportunities for businesses, is a bridge to help businesses expand markets,
participate in economic integration.
For Vietnam, e-commerce has been around for a long time, is in the process of development but has not
really developed strongly as in other countries and still has many limitations. The limitations of e-commerce in
Vietnam are causing consumer panic, preventing the development of the economy. Addressing the opportunities
and challenges of Vietnamese businesses when participating in e-commerce is the main theme of this article.
Keywords: opportunities, constraints, enterprises, e-commerce, Vietnam

1. Giới thiệu
Thế kỷ XXI đã và đang chứng kiến sự phát triển tột bậc trong ngành công Nghệ Thông tin.


Công nghệ thông tin (CNTT) đã và đang thay đổi thế giới cũng như tạo nên một cuộc cách mạng thực
sự trong mọi lĩnh vực của khoa học và đời sống. Việc ứng dụng CNTT trong hoạt động thương mại
hay còn gọi là thương mại điện tử - Electronic Commerce ra đời và đang trở thành xu thế mới thay thế
dần phương thức kinh doanh cũ. Theo tổ chức Thương mại thế giới WTO thì Thương mại điện tử
(TMĐT) là việc sản xuất-> tiếp thị -> bán -> phân phối sản phẩm hàng hóa và dịch vụ thông qua các
phương tiện điện tử.
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD đưa ra 2 cách định nghĩa về giao dịch TMĐT.
Theo nghĩa rộng, giao dịch TMĐT là việc mua hoặc bán hàng/dịch vụ giữa doanh nghiệp, người tiêu
dùng, chính phủ và các tổ chức nhà nước hoặc tư nhân được tính hàng thơng qua các mạng kết nối qua
trung gian máy tính. Hàng hóa hoặc dịch vụ được đặt mua qua mạng nhưng việc thanh tốn và giao
hàng hóa có thể được thực hiện theo phương pháp truyền thống. Theo cách định nghĩa này, giao dịch
TMĐT bao gồm các đơn hàng được nhận hoặc đặt qua bất cứ ứng dụng trực tuyến nào trong các giao
dịch tự động như ứng dụng internet hoặc các hệ thống điện thoại tương tác.

120


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018

Theo nghĩa hẹp, giao dịch TMĐT là việc mua hoặc bán hàng hóa dịch vụ được tiến hành thông
qua internet, giao dịch TMĐT theo định nghĩa này bao gồm: các đơn hàng được nhận hoặc đặt qua bất
kì ứng dụng nào qua nền internet trong các giao dịch tự động bất kì hình thức truy cập internet thông
qua di động hay tivi loại trừ các đơn hàng qua điện thoại, fax hay email.
Theo Hiệp hội các quốc qua Đông Nam Á (ASEAN), TMĐT là các giao dịch điện tử trên mạng
Internet hoặc những mạng mở khác, những giao dịch này có thể chia làm 2 loại: Giao dịch bán dịch vụ
và hàng hóa hữu hình; Giao dịch liên quan đến việc chuyển trực tiếp, trực tuyến các thơng tin và dịch
vụ hàng hóa số.
Tại Việt Nam, ngày 16/05/2013 Chính phủ ban hành Nghị định số 52/2013/NĐ-CP về TMĐT.
Trong Nghị định này TMĐT được hiểu là việc tiến hành một phần hoặc tồn bộ quy trình của hoạt
động thương mại bằng phương tiện điện tử có kết nối với mạng internet, mạng viễn thông di động hoặc

các mạng mở khác.
Với rất nhiều ưu thế, lợi ích lớn nhất mà TMĐT đem lại đối với doanh nghiệp là tiết kiệm chi
phí và tạo thuận lợi cho các bên giao dịch. Doanh nghiệp không phải tốn kém nhiều cho việc thuê cửa
hàng với đông đảo nhân viên phục vụ, không cần đầu tư nhiều cho kho chứa, thay vào đó chỉ cần một
khoản tiền nhỏ để xây dựng một website bán hàng qua mạng sau đó chỉ tốn 10% phí để duy trì và vận
hành website mỗi tháng. Doanh nghiệp có thể marketing tồn cầu với chi phí cực kì thấp, có thể đưa
thơng tin quảng cáo đến với hàng trăm triệu người xem từ khắp nơi trên thế giới. Đây là điều mà chỉ có
TMĐT làm được cho doanh nghiệp.
Đối với người tiêu dùng, TMĐT mở rộng khả năng lựa chọn hàng hóa, dịch vụ người cung cấp.
Khách hàng khơng cịn giới hạn về địa lý hay thời gian làm việc, họ có thể mua hàng mọi lúc, mọi nơi,
lựa chọn giữa hàng trăm thậm chí hàng nghìn nhà cung cấp ở các vùng miền khác nhau.
Đối với xã hội, TMĐT tạo ra một phương thức kinh doanh và làm việc mới phù hợp với cuộc
sống công nghiệp hiện đại. TMĐT tạo ra một sân chơi mới cho các doanh nghiệp buộc họ phải đổi
mới, sáng tạo để đưa ra chiến lược kinh doanh và dịch vụ riêng cho sản phẩm dịch vụ, từ đó góp phần
phát triển cho các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế tổng thể nói chung.
2. Nội dung
Là một quốc gia có 53% dân số sử dụng internet và gần 50 triệu thuê bao sử dụng smartphone
(1), thị trường TMĐT Việt Nam mặc dù phát triển khá muộn so với các nước trong khu vực nhưng
được các chuyên gia đánh giá là quốc gia có tốc động tăng trưởng TMĐT khá nhanh, đầy tiềm năng và
chắc chắn sẽ tiếp tục bùng nổ mạnh mẽ trong thời gian tới.
TMĐT Việt Nam được đánh giá là thị trường có mức độ tăng trưởng nhanh, đặc biệt trong 5
năm trở lại đây. Thống kê cho thấy, quy mơ thị trường bán lẻ trực tuyến có tốc độ tăng trưởng ổn định,
xu hướng tăng dần đều trên 20%/năm. TMĐT đã trở thành một hình thái kinh doanh phổ cập của
doanh nghiệp và có sức lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng. Số lượng doanh nghiệp (DN) TMĐT tăng
lên nhanh chóng. Số DN và cá nhân thực hiện thủ tục thông báo/đăng ký tăng nhanh trong giai đoạn
2013 – 2017, cụ thể: từ 1.923 tài khoản DN năm 2013 lên 26.622 tài khoản năm 2017 (tăng 13,8 lần);
từ 305 tài khoản cá nhân năm 2013 lên đến 9.193 năm 2017 (tăng 30,1 lần); từ 344 hồ sơ đăng ký
website cung cấp dịch vụ TMĐT năm 2013 lên 3.449 hồ sơ năm 2017 (tăng 10 lần); từ 518 hồ sơ
thông báo website TMĐT bán hàng lên đến 35199 hồ sơ năm 2017 (tăng 67,9 lần) (2).
Số liệu thống kê từ Cổng thông tin quản lý hoạt động TMĐT cho thấy, đến năm 2017, số lượng

website TMĐT bán hàng được xác nhận thông báo là 18.783 website, tăng 29 lần so với năm 2013;
trong khi đó, số lượng website cung cấp dịch vụ TMĐT được xác nhận đăng ký năm 2017 là 914
website, tăng 5,8 lần so với năm 2013 (3). Theo Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin (Bộ
Công Thương), năm 2017, ngành TMĐT Việt Nam đạt mức tăng trưởng 25%, doanh thu TMĐT bán lẻ
của Việt Nam đạt hơn 2 tỷ USD và sẽ tiếp đà duy trì như vậy trong giai đoạn 2018 – 2020 (4). Việc
các doanh nghiệp, quỹ đầu tư và tập đồn nước ngồi tích cực mua cổ phần, bỏ tiền đầu tư cho các
121


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018

trang web TMĐT trong nước khiến cho thị trường này ngày càng sôi động. Nhiều lĩnh vực có tốc độ
tăng trưởng ấn tượng như: Bán lẻ trực tuyến tăng 35%; thanh toán online và giao dịch trực tuyến thẻ
tín dụng nội địa tăng 50%; tiếp thị trực tuyến tăng trưởng từ 100 - 200%; đặt phòng khách sạn du lịch
trực tuyến tăng 30%… các chuyên gia nhận định, đến năm 2020, dự kiến tại Việt Nam có khoảng 30%
dân số tham gia mua sắm online, đạt 350 USD/người và quy mô thị trường thương mại điện tử Việt
Nam có thể đạt tới 10 tỷ USD (5). Năm 2018 chính là thời điểm vàng của thương mại điện tử khi mà
người dân hầu như đã rất quen thuộc với hình thức mua sắm trực tuyến. Trong đó, nền tảng di động sẽ
tiếp tục là xu thế chủ đạo; giá cả, chất lượng sản phẩm, dịch vụ… là yếu tố quan trọng thu hút người
dùng mua hàng trực tuyến.
Bên cạnh những tín hiệu tích cực,TMĐT Việt Nam cũng đang phải đối mặt với khơng ít những
thách thức, khó khăn. Dù đã ghi nhận những tăng trưởng vượt bậc trong vài năm gần đây nhưng thanh
toán trực tuyến tại Việt Nam chỉ chiếm khoảng 3-4%, còn lại đến 92% thanh toán theo phương thức
COD -trả tiền khi nhận hàng (6). Các chuyên gia cũng chỉ ra rằng, nguyên nhân của tình trạng này là
niềm tin giữa người tiêu dùng với người bán hàng thấp. Lòng tin vào mua sắm trực tuyến còn thấp bởi
nhiều lý do về giá bán, các chương trình khuyến mãi chưa thực sự chính xác cũng như có giá trị cao
với người tiêu dung. Người tiêu dùng cịn nhiều nghi ngại ở sản phẩm, thơng tin còn đơn điệu, thiếu
chi tiết, thiếu sức hấp dẫn cũng như một số công cụ hỗ trợ khách hàng. Về mặt tâm lý vẫn chưa có sự
tin cậy đáng kể giữa người tiêu dùng với người cung cấp hàng hóa lẫn dịch vụ chuyển phát.
Khi mua hàng trực tuyến khách hàng ln địi hỏi sự phục vụ nhanh chóng, chuyên nghiệp mức

giá cạnh tranh và thấp nhất trên thị trường. Với kênh bán hàng truyền thống, giá cả phụ thuộc chi phí
vận chuyển từ nơi sản xuất đến các điểm bán lẻ thì chi phí bán hàng trực tuyến hiện nay phụ thuộc
phần lớn vào khâu chuyển phát. Nếu như thời gian ra – vào của một sản phẩm hàng hóa khơng đảm
bảo, khách hàng phải trả thêm một khoản cước thì chắc chắn giá bán trên kênh trực tuyến sẽ cao hơn
rất nhiều với kênh truyền thống. Nói cách khác chất lượng của dịch vụ chuyển phát chưa cao khiến giá
mua sắm trực tuyến không rẻ hơn mua sắm truyền thống. Đa số các nhân viên giao hàng đều chưa qua
đào tạo cơ bản, tác phong thiếu chuyên nghiệp nên chưa thể thay mặt cho các nhà sản xuất hoặc các
nhà cung cấp hàng hóa trên mạng. Khi chất lượng sản phẩm, giá cả, giao hàng đều không như kỳ vọng
sẽ khiến khách hàng chán nản.
Nghiên cứu do iPrice Group phối hợp cùng Trusted Company - nền tảng đánh giá các doanh
nghiệp thương mại điện tử tại những thị trường mới phát triển như Đông Nam Á - Ấn Độ dựa trên cơ
sở phân tích hơn 30.000 đánh giá của người tiêu dùng tại hơn 5.000 website TMĐT cho thấy, người
Việt Nam phàn nàn nhiều hơn 15% so với người Thái (7). Trong đó, người tiêu dùng Việt bày tỏ sự
thất vọng sau khi nhận hàng và có tới 30% đơn hàng bị trả lại. Họ phản hồi rằng hàng hóa khơng giống
như những gì mình kỳ vọng (hình thức hoặc chất lượng thấp hơn) khi đặt mua sản phẩm. Tình trạng
này xuất phát từ một thực tế là người tiêu dùng Việt đang bị rơi vào "ma trận" giữa trang web bán hàng
được cấp phép và chưa được cấp phép; giữa loại hàng có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng và hàng giả - hàng
nhái; giữa món hàng ảo chỉ có trên hình ảnh nhưng sản phẩm bán ra khơng đúng như cam kết, quảng
cáo…Bên cạnh đó, vấn nạn giá bán thực tế không đúng với giá niêm yết, thông tin về sản phẩm mập
mờ như "hàng xách tay từ nước ngoài", "hàng nhập khẩu độc quyền"... nên một món hàng có thể có
nhiều mức giá khác nhau. Hậu quả là người mua bị mất tiền oan và ngày càng mất niềm tin vào mua
sắm trực tuyến.
Theo nghiên cứu, hơn một nửa người Việt Nam thích mua hàng ở nước ngoài do sự tin tưởng
vào chất lượng sản phẩm, bên cạnh dịch vụ, thanh toán, hậu mãi. Với thói quen mua sắm đặc trưng là
“thấy, sờ và… thử” nên thường họ dạo chơi trên mạng để khảo giá là chính. Nhiều chuyên gia chỉ ra
rằng, người tiêu dùng Việt Nam và đặc biệt là thế hệ người tiêu dùng trẻ đang rất ưa chuộng mua hàng
qua các website TMĐT của nước ngoài như Amazon, eBay… Lý do là hàng hóa của nước ngồi
phong phú, đa dạng cũng như phù hợp với người tiêu dùng, đặc biệt là giới trẻ thành thị. Bên cạnh đó,
chi phí hồn tất đơn hàng đối với các hợp đồng mua bán trực tuyến từ nước ngoài thấp hơn… Xét về
mức độ uy tín, các nhà bán hàng trực tuyến trong nước cũng vẫn “đuối” hơn so với nhiều nhà bán hàng

122


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018

trực tuyến toàn cầu. Quan trọng là chất lượng, mẫu mã của nhiều sản phẩm quốc nội vẫn lép vế so với
sản phẩm tương tự của nhiều nước khác.
Ngồi ra, những khó khăn cịn tồn đọng tại Việt Nam cũng đến từ nhiều nguyên nhân. Nhiều
thương hiệu có tên tuổi quy định khơng có chính sách bán hàng qua trang TMĐT dẫn đến sự thiếu tính
đa dạng chủng loại và các thương hiệu còn lại chủ yếu vẫn là những sản phẩm nội địa. Thông thường,
lợi nhuận của nhãn hiệu nội địa khoảng 40-45%, trong khi đó, chi phí phải trả cho đơn vị TMĐT khá
cao, trung bình 30%. Để hạn chế rủi ro từ việc trả hàng, tồn hàng, hàng qua mùa, hay các chương trình
khuyến mãi của trang TMĐT các nhà bán lẻ phải đưa giá thành cao hơn. Vơ hình chung, trang TMĐT
mang tính quảng cáo nhiều hơn và thậm chí đây cũng là kênh tốt để các nhà bán lẻ cho các mục tiêu
marketing hay branding - làm thương hiệu.
Một vấn đề khác cũng đang là thách thức với các nhà bán hàng trực tuyến Việt Nam là cơ sở hạ
tầng công nghệ. Theo chia sẻ của ông Phạm Thông - Giám đốc tiếp thị Lazada cho thấy, vào những dịp
cáp quang Việt Nam AAG bị đứt, Lazada đã giảm tới 30% doanh thu trung bình trong một ngày (8).
Bên cạnh đó, vấn đề an ninh, an tồn, bảo mật thơng tin… trên các giao dịch điện tử vẫn chưa thể
khiến người tiêu dùng an tâm nên người tiêu dùng vẫn chịu nhiều thiệt thịi và cảm thấy khơng n tâm
khi mua sắm online.
Cùng với các vấn đề về công nghệ và phần mềm, nhiều doanh nghiệp phải đối mặt với những
trở ngại về văn hoá và luật pháp trong TMĐT.
Thị trường đang có sự cạnh tranh khập khiễng giữa các sàn TMĐT và các loại hình mua sắm
qua mạng xã hội như Facebook, Zalo... Những Lazada, Thegioididong, Sendo, Shopee, Tiki… được
đầu tư bài bản với chi phí lớn đang chịu sức ép khơng nhỏ từ mơ hình "nhà nhà bán hàng, người người
bán hàng" trên mạng xã hội. Mơ hình này quy mô nhỏ lẻ nhưng số lượng lại vô cùng lớn. Quan trọng
hơn, chi phí của hoạt động này khơng đáng kể, trong đó có việc họ chưa bị tác động bởi các chính sách
thuế. Từ đây, sự cạnh tranh cũng trở nên khập khiễng, khi chi phí ít dẫn đến giá thành sản phẩm thấp,
nhờ vậy mơ hình bán hàng qua mạng xã hội được đón nhận bởi số đơng. Trong khi đó, các trang mạng

tên tuổi, đầu tư bài bản từ con người đến hệ thống vận hành, lại chịu nhiều gánh nặng chi phí liên quan
(chi phí marketing - tiếp thị quảng cáo giữ vai trò then chốt cho lĩnh vực này khơng hề ít như nhiều
người vẫn nghĩ. Theo như ghi nhận, ngân sách chạy marketing cho kế hoạch trong hai năm đầu của
TMĐT dao động xấp xỉ 2 triệu USD và tính sống cịn sẽ được định đoạt sau thời gian này). Khơng ít
thương hiệu rời bỏ cuộc chơi như Beyeu, Deca, Foodpanda… và nhiều doanh nghiệp rút lui lặng lẽ.
Nhiều người tiêu dùng ở một mức độ nào đó vẫn e ngại việc gửi số thẻ tín dụng trên Internet, có một
số người tiêu dùng khác đơn giản thường khơng thể thích hợp được với sự thay đổi và cảm thấy không
thoải mái trong việc xem các hàng hố trên màn hình máy tính hơn là xem trực tiếp. Môi trường pháp
lý mà TMĐT được quản lý là các bộ luật hồn tồn khơng rõ ràng và mâu thuẫn với nhau. Luật kiểm
soát TMĐT được viết ra khi các tài liệu được ký dự tính hợp lý trong bất kỳ giao dịch kinh doanh nào.
Rõ ràng dù được đánh giá là màu mỡ, mảnh đất TMĐT không dễ đãi ngộ bất cứ ai.
3. Kết luận
Việt Nam đang trong q trình tích cực hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới. Doanh nghiệp
Việt Nam đa số là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên TMĐT sẽ là cầu nối giúp mở rộng thị trường, đem lại
cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp. Dù muốn hay không các doanh nghiệp cũng phải đối mặt với sự
cạnh tranh khốc liệt không chỉ trong nước mà cả thị trường quốc tế. Các doanh nghiệp nước ngoài,
mạnh về vốn, công nghệ và kinh nghiệm sẽ thông qua TMĐT để đi vào thị trường Việt Nam, cạnh
tranh với các doanh nghiệp Việt Nam. Quá trình tham gia TMĐT là quá trình doanh nghiệp từng bước
chuẩn bị nguồn lực và kinh nghiệm. Vì vậy doanh nghiệp Việt Nam phải chấp nhận và tham gia
TMĐT ở nhiều cấp độ khác nhau để hướng tới sự phát triển bền vững. Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong
nước cần đầu tư đúng mức cho hoạt động nghiên cứu tìm hiểu thị hiếu khách hàng để bán hàng trực
tuyến. Cần thử nghiệm trước khi tiếp cận, trước khi có kế hoạch thâm nhập thị trường, nghiên cứu
thêm hành vi tiêu dùng, đồng hóa tư duy giúp dễ dàng tiếp cận cả người mua lẫn các đơn vị cung cấp
123


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018

hàng hóa. Việc chú trọng hơn về văn hóa tiêu dùng của người Việt - vốn hay thay đổi và thích cái mới
cũng quan trọng bởi khơng ít nhà bán lẻ gặp phải nhiều khó khăn khi đối mặt với vấn đề thích ứng văn

hóa tiêu dùng. Một ví dụ điển hình về doanh nghiệp nắm bắt được yêu cầu của lĩnh vực TMĐT và gặt
hái nhiều thành công thời gian qua là Tổng công ty Bưu chính Viettel (Viettel Post). Nếu như trước
đây cơng việc của một bưu tá chỉ đơn thuần phát hàng đúng thời gian đúng địa chỉ là hồn thành nhiệm
vụ, thì nay Công ty đã tập trung đào tạo đội ngũ nhân lực chuyển phát phải là những nhân viên giao
hàng chun nghiệp. Chính họ cũng là người chăm sóc tư vấn bán hàng cho người nhận… Ngoài vấn
đề nhân lực, doanh nghiệp đã đầu tư về cơ sở hạ tầng, công nghệ để rút ngắn thời gian chuyển hàng,
tiết kiệm chi phí cho khách hàng lẫn bản thân doanh nghiệp. Việc chuyển hàng từ công ty cung cấp sản
phẩm đến đơn vị chuyển phát có sự kết nối theo quy trình cơng nghệ đã giảm thiểu tối đa thời gian
giao hàng. Một số doanh nghiệp có chiến lược riêng với chi phí hàng hóa phù hợp với điều kiện vốn
có. Chẳng hạn như tại Lingo, với những đơn hàng từ 5 triệu đồng trở lên, đơn vị này sẽ trả chi phí
chuyển phát. Tuy phần miễn phí này đang chiếm từ 8-10% doanh thu của doanh nghiệp nhưng đó cũng
là cách để tạo niềm tin cho khách hàng vào doanh nghiệp TMĐT. Theo quan điểm của tác giả bài viết,
để chủ động hơn các doanh nghiệpTMĐT nên có đội chuyển phát riêng. Khi đó nhân viên giao hàng
thực sự là một nhân viên tư vấn sản phẩm mà khách hàng cần.
Để TMĐT Việt Nam có thể phát triển lành mạnh, bền vững trong thời gian tới, bên cạnh sự nỗ
lực của bản thân DN, Nhà nước cần phải hoàn thiện mơi trường pháp lý.
Thứ nhất, cần tiếp tục rà sốt, sửa đổi, bổ sung, ban hành chính sách mới, khn khổ pháp lý và
cơ chế chính sách cho phát triển thanh tốn điện tử nhằm nâng cao lịng tin của người sử dụng và giới
doanh nghiệp vào hệ thống thanh tốn điện tử; tăng cường điều phối, hợp tác chính sách phát triển dịch
vụ thanh toán điện tử trong nước và quốc tế, liên quốc gia, liên ngành.
Thứ hai, Nhà nước cần đầu tư trực tiếp cũng như khuyến khích doanh nghiệp, cá nhân khởi
nghiệp bằng các mơ hình kinh doanh TMĐT mới, ứng dụng công nghệ tiên tiến để phát triển hạ tầng
kỹ thuật cho thanh toán điện tử.
Thứ ba, đẩy mạnh phát triển các dịch vụ công phục vụ cho thương mại điện tử. Theo đó, các cơ
quan nhà nước phải ứng dụng thương mại điện tử trong mua sắm cơng, đấu thầu gắn với cải cách hành
chính, minh bạch hóa, nâng cao hiệu lực nền hành chính quốc gia và xây dựng chính phủ điện tử; ngân
hàng Nhà nước cần tích cực triển khai đề án thanh tốn khơng dùng tiền mặt và tiếp tục hồn thiện cơ
sở pháp lý liên quan đến thanh toán điện tử; đẩy mạnh cung cấp các dịch vụ công như hải quan điện tử;
kê khai thuế và nộp thuế, làm các thủ tục xuất, nhập khẩu điện tử…;
Thứ tư, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về thương mại điện tử, nghiên cứu, đề xuất phương án gia

nhập các điều ước quốc tế, các thể chế hợp tác đa phương về TMĐT.
Thứ năm, các cơ quan quản lý Nhà nước cần yêu cầu các sàn giao dịch thương mại điện tử phải
tăng cường an ninh mạng, bảo mật, an tồn thơng tin thanh toán điện tử và kiểm soát chặt chẽ chất
lượng sản phẩm.
Thứ sáu, có biện pháp ngăn chặn, xử phạt mạnh tay với các doanh nghiệp bán hàng giả, hàng
nhái, hàng kém chất lượng…
Thứ bảy, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, xây dựng các chương trình, chuyên đề để phổ biến
nâng cao nhận thức về TMĐT cho các tổ chức, doanh nghiệp và người dân trên các phương tiện truyền
thông đại chúng để đưa hình thức mua sắm trực tuyến trở thành một trong những hình thức mua hàng
phổ biến của người tiêu dùng.
Tóm lại, TMĐT đã trở thành một nhân tố kinh tế có ý nghĩa tồn cầu. TMĐT có vai trị quan
trọng trong chiến lược kinh doanh omni-channel của các doanh nghiệp. Để thật sự thành công trong thị
trường, mỗi doanh nghiệp Việt Nam phải có những chiến lược riêng, phối hợp tốt giữa các kênh bán
hàng khác nhau nhằm tiếp cận tối đa người tiêu dùng. Áp dụng TMĐT chính là q trình đổi mới
124


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 1 năm 2018

doanh nghiệp để tiếp nhận, thích nghi và phát triển công nghệ kinh doanh trong thời đại công nghệ
4.0,...
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anh Tuấn, Thị trường thương mại điện tử Việt Nam - cơ hội và thách thức dẫn theo
2609-2018
2. Báo Công thương, Nghị định số 52/2013/NĐ-CP: Định hướng, tạo môi trường cho thương mại điện tử phát
triển dẫn theo -moi-truongcho-thuong-mai-dien-tu-phat-trien-dt12574, 17-09-2018
3. Huệ Chi, Chủ tịch Websosanh.vn: 'Niềm tin của người dùng vào thương mại điện tử thấp' dẫn theo
/>4_click_kinhdoanh

125




×