Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Ý nghĩa mối quan hệ giữa vật chất và ý thức của triết học Mác trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.38 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC....................................................................................................................................................2
Phần 1: MỞ ĐẦU........................................................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................................................4
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................................................2
5. Ý nghĩa của tiểu luận.........................................................................................................................2
6. Kết cấu của tiểu luận.........................................................................................................................3
Phần 2: NỘI DUNG.....................................................................................................................................3
CHƯƠNG 1:................................................................................................................................................3
LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN..........................................................................................3
VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC.............................................................................3
1.1. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất........................................................3
1.1.1. Khái niệm vật chất.....................................................................................................................3
1.1.2. Các đặc tính của vật chất..........................................................................................................5
1.2. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức...........................................................6
1.2.1. Khái niệm ý thức........................................................................................................................6
1.2.2. Kết cấu của ý thức.....................................................................................................................6
1.2.3. Nguồn gốc của ý thức................................................................................................................7
1.2.4. Bản chất của ý thức...................................................................................................................8
1.3. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức.......................................................................................................................................................8
1.3.1. Vật chất quyết định ý thức.........................................................................................................8
1.3.2. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất..................................................9
CHƯƠNG 2:..............................................................................................................................................10
Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA MỐI QUAN HỆ....................................................................10
GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC TRONG TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN..............................................10
ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY..........................................................10
2.1. Ý nghĩa phương pháp luận..............................................................................................................10
2.2. Sự vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức


trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay.......................................................................................12
2.2.1. Xuất phát từ hiện thực khách quan của đất nước, của thời đại để hoạch định các
đường lối, chiến lược, sách lược nhằm xây dựng và phát triển đất nước............................................13


2.2.2. Biết tìm kiếm, khai thác và sử dụng những lực lượng vật chất để hiện thực hóa
đường lối, chiến lược, sách lược nhằm xây dựng và phát triển đất nước............................................15
2.2.3. Phát huy tính năng động, sáng tạo của nhân tố con người trở thành động lực
mạnh mẽ thúc đẩy công cuộc đổi mới...................................................................................................16
2.3. Một số giải pháp thúc đẩy quá trình đổi mới ở Việt Nam trên cơ sở vận dụng ý nghĩa
phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.....................................................................18
Phần 3: KẾT LUẬN...................................................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................................................19


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được hiện nay đã chứng minh sự
đúng đắn của Đảng và tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân trong việc
hiện thực hóa đường lối đó. Kinh tế tăng trưởng từng bước vững chắc và ngày
càng được cải thiện. Mặc dù năm 2020 kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của đại
dịch Covid-19, thiên tai, bão lụt nghiêm trọng ở miền Trung nhưng tốc độ tăng
trưởng bình quân 5 năm 2016 - 2020 đạt khoảng 6%/năm và thuộc nhóm các
nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới [4, tr. 8]. Nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa với nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân được khẳng định rõ nét.
Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, sự thống nhất trong đa dạng đã
hình thành. Khối đại đồn kết toàn dân tộc mà nền tảng là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức ngày càng được củng
cố, thực sự trở thành một động lực quan trọng của đổi mới đất nước… Tuy
nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì cũng có những sai lầm trong

việc đề ra chủ trương, đường lối phát triển đất nước và đã dẫn đến những hậu
quả đáng nói. Một trong những nguyên nhân bắt nguồn từ việc vi phạm nguyên
tắc khách quan. Với tình hình như vậy việc nắm vững ý nghĩa phương pháp luận
của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức đóng vai trị hết sức quan trọng trong
nhận thức và trong hoạt động thực tiễn để vận dụng nó trong sự nghiệp đổi mới
của Việt Nam hiện nay.
Với ý nghĩa đó, sau một thời gian nghiên cứu và học tập, tác giả đã lựa
chọn đề tài “Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ của vật chất và ý
thức trong triết học Mác – Lênin đối với quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện
nay” làm đề tài tiểu luận kết thúc mơn của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức trong triết học Mác – Lênin đối với quá trình đổi mới ở Việt
Nam hiện nay.


Phạm vi nghiên cứu: Tiểu luận nghiên cứu về ý nghĩa phương pháp luận
của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong quá trình đổi mới đất nước hiện
nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của tiểu luận nhằm tìm hiểu ý nghĩa phương pháp luận của mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện được mục đích trên, tiểu luận tập trung giải quyết các nhiệm
vụ sau:
- Trình bày khái quát về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
- Trình bày ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức vào quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
- Trên cơ sở đó, tiểu luận đề xuất một số biện pháp thúc đẩy quá trình đổi
mới trên cơ sở vận dụng ý nghĩa của mối quan hệ này.
4. Phương pháp nghiên cứu

Tiểu luận dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác – Lênin. Đồng thời, tiểu luận còn sử dụng các phương pháp nghiên
cứucụ thể như: phương pháp lịch sử và logic, phương pháp phân tích và tổng
hợp, phương pháp quy nạp và diễn dịch,… để nghiên cứu làm rõ vấn đề.
5. Ý nghĩa của tiểu luận
Ý nghĩa lý luận: làm sáng tỏ thêm nội dung và ý nghĩa phương pháp luận
của việc vận dụng ý nghĩa đó trong q trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Từ
đó góp phần làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước.
Ý nghĩa thực tiễn: sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm
đến vấn đề này.
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của tiểu luận
gồm 2 chương và 6 tiết.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ MỐI
QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1.1. Lý luận của triết học Mác – Lênin về vật chất
1.1.1. Khái niệm vật chất
Khắc phục được những thiếu sót của chủ nghĩa duy vật trước Mác, quy vật
chất về một hay một vài dạng cụ thể của nó; chủ nghĩa duy vật biện chứng đã
phân biệt tính khái quát của phạm trù vật chất và sự tồn tại của vật chất ở những
dạng cụ thể; chỉ ra sự tồn tại khách quan của vật chất; chỉ ra tính vơ tận, vơ hạn
của vật chất, tính khơng thể sáng tạo ra và khơng thể tiêu diệt được của nó, tính
thống nhất của thế giới là ở tính vật chất của nó; chỉ ra các hình thức tồn tại của
vật chất.
V.I.Lênin định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực
tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của

chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
[9, tr. 151].
Như vậy, theo V.I.Lênin, vật chất là một phạm trù triết học (khái niệm rộng
nhất) để phân biệt nó với vật chất trong các khoa học cụ thể, vật chất thông
thường hàng ngày, với những biểu hiện cụ thể của vật chất có giới hạn, có sinh
ra và có mất đi; cịn vật chất theo quan niệm triết học là không sinh ra và không
mất đi, vô tận, vô hạn. Vật cụ thể là vật chất, nhưng vật chất đâu chỉ là những
vật cụ thể; vật cụ thể là hữu hình nhưng vật chất đâu chỉ là những vật hữu hình;
khơng vì phát hiện ra một dạng mới của vật chất mà nó tăng lên; ngược lại,
khơng vì một hình thức cụ thể của vật chất mất đi mà nó giảm đi. Nó vơ tận, vô
hạn, không được sinh ra và không mất đi, ln vận động, biến đổi, chuyển hóa
khơng ngừng từ dạng này sang dạng khác. Ngay ý thức cũng chỉ là một thuộc
tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao, đó là bộ óc con người.


Mặt khác, vật chất là thực tại khách quan, tức tồn tại khách quan, ở bên
ngoài và độc lập với ý thức con người và loài người. Thế giới vật chất tồn tại
dưới dạng các sự vật, hiện tượng cụ thể vơ cùng phong phú, đa dạng, nhưng
chúng đều có một thuộc tính chung: tồn tại khách quan, ở bên ngoài và độc lập
với ý thức con người và loài người. Nhờ có thuộc tính này đã giúp chúng ta nhận
thức rõ hơn đâu là vật chất dưới dạng xã hội.
Vật chất là thực tại khách quan; nhưng thực tại khách quan này không tồn
tại một cách trừu tượng, mà bằng cách nào đó (trực tiếp hay gián tiếp) tác động
lên các giác quan của con người và được các giác quan nay nhận biết.
Như vậy, định nghĩa này đã giải quyết được vấn đề cơ bản của triết học trên
quan điểm duy vật; khắc phục được những thiếu sót của chủ nghĩa duy vật trước
Mác về vật chất; xác nhận, chứng minh thêm cho tính triệt để của chủ nghĩa duy
vật; và có ý nghĩa định hướng đối với các khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm
những dạng hoặc các hình thức mới của vật chất.


1.1.2. Các đặc tính của vật chất
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu của
vật chất
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là mọi sự biến
đổi nói chung, chứ khơng phải chỉ là sự dịch chuyển vị trí trong khơng gian.
Ăngghen định nghĩa “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất (...) bao gồm tất cả
mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn
giản cho đến tư duy”[7, tr. 751].
Vận động có nhiều hình thức, trong đó có năm hình thức vận động cơ bản:
vận động cơ học (sự di chuyển của các vật trong không gian); vận động vật lý


(vận động của các phần tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các quá trình nhiệt,
điện…); vận động hoá học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hồ hợp
và phân giải các chất) vận động sinh vật (trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi
trường); vận động xã hội (sự biến đổi, thay thế của các hình thái kinh tế xã hội).
Vận động là thuộc tính cố hữu của sự vật. Khơng thể có vận động bên ngồi vật
chất. Vận động khơng do ai sáng tạo ra và khơng thể tiêu diệt được, do đó vận
động được bảo toàn cả về số lượng lẫn chất lượng. Các hình thức vận động
chuyển hố kín nhau, cịn vận động của vật chất nói chung thì vĩnh viễn tồn tại
cùng với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất. Mặc dù vật chất vận động không
ngừng, nhưng điều đó khơng loại trừ mà bao hàm cả sự đứng im tương đối.
Khơng có hiện tượng đứng im tương đối thì khơng có sự phân hố thế giới vật
chất thành các sự vật, hiện tượng phong phú và đa dạng. Đứng im là tương đối,
tạm thời, nó biểu hiện một trạng thái vận động trong thăng bằng.
Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
Khơng gian biểu hiện sự cùng tồn tại và tách biệt của các sự vật với nhau,
biểu hiện quảng tính của chúng, trật tự phân bổ chúng. Còn thời gian phản ánh
thuộc tính của các q trình vật chất diễn ra nhanh hay chậm, kế tiếp nhau theo
một trật tự nhất định. Lênin đã chỉ ra trong thế giới, khơng có gì ngồi vật chất

đang vận động và vật chất đang vận động khơng thể vận động ở đâu ngồi
khơng gian và thời gian.
1.2. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức
1.2.1. Khái niệm ý thức
Đứng vững trên lập trường duy vật với phương pháp biện chứng triết học
Mác - Lênin khẳng định rằng ý thức là đặc tính của một dạng vật chất có tổ chức
cao nhất là bộ óc người, ý thức là sự phản ánh của thế giới khách quan của con
người thông qua lao động và ngôn ngữ. Mác nhấn mạnh rằng tinh thần ý thức
chẳng qua chỉ là vật chất được di chuyển vào bộ óc của con người và được cải


biến đi trong nó. Ĩc người là khí quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức năng
của bộ óc người. Mối quan hệ giữa bộ óc người hoạt động bình thường và ý thức
là khơng thể tách rời. Tất cả mọi quan điểm tách rời hoặc đồng nhất ý thức với
óc người đều dẫn đến quan điểm duy tâm thần bí hoặc duy vật tầm thường. Ý
thức là chức năng của bộ óc người hoạt động bình thường.
1.2.2. Kết cấu của ý thức
Ý thức là một hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp bao gồm:
Theo chiều ngang: tri thức ,tình cảm, lý chí, niềm tin. Trong đó tri thức là
quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức. Tri thức là phương thức tồn
tại của ý thức vì sự hình thành và phát triển của ý thức có liên quan mật thiết với
quá trình con người nhận thức và cải biến giới tự nhiên.
Theo chiều dọc: tự ý thức, tiềm thức, vô thức. Trong đó tự ý thức cũng là
một thành tố quan trọng của ý thức. Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản
thân mình thơng qua quan hệ với thế giới bên ngoài. Khi phản ánh thế giới
khách quan, con người tự phân biệt mình, đối lập mình với thế giới đó và tự
nhận thức mình là một thực thể hoạt động, có cảm giác, có tư duy, có các hành
vi đạo đức và có vị trí trong xã hội.
1.2.3. Nguồn gốc của ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng ý thức có 2 nguồn gốc: tự nhiên

và xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên
Bao gồm 2 yếu tố: bộ óc của con người và sự tác động của hoàn cảnh
xung quanh, của thế giới bên ngoài lên bộ óc con người để bộ óc con người phản
ánh.


Bộ óc người có cấu tạo vơ cùng phức tạp, bao gồm hàng tỷ tế bào thần
kinh liên hệ chằng chịt, mật thiết với nhau. Bộ óc con người chính là cơ sở, nền
tảng vật chất của ý thức. Hoạt động của ý thức diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh
lý thần kinh của bộ óc, phụ thuộc vào hoạt động của bộ óc. Như vậy, muốn có ý
thức phải có bộ óc người – nguồn gốc đầu tiên của ý thức.
Nhưng nếu chỉ có bộ óc người thơi thì chưa đủ mà cần phải có q trình
tác động của hồn cảnh xung quanh lên bộ óc để bộ óc phản ánh. Phản ánh là sự
lưu giữ và tái tạo những đặc điểm của một sự vật này ở một sự vật khác trong
quá trình tác động qua lại giữa chúng. Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất của
sự phản ánh, chỉ nảy sinh và xuất hiện ở bộ óc người. Bộ óc người là cái phản
ánh, nhưng nếu khơng có thế giới bên ngồi tác động lên các cơ quan cảm giác
và qua đó đến bộ óc, tức khơng có cái được phản ánh thì hoạt động ý thức cũng
khơng xảy ra, tức khơng thể có ý thức.
Nguồn gốc xã hội
Sự ra đời của ý thức gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của bộ
óc con người dưới ảnh hưởng của lao động, của giao tiếp và các quan hệ xã hội.
Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại, qua lao động con
người bắt thế giới tự nhiên phục vụ mục đích của mình và con người có thể phản
ánh được thế giới khác quan, mới có ý thức về thế giới đó. Lao động là quá trình
tác động qua lại giữa con người với thế giới khách quanvà kết quả đã hình thành
những tri thức về tự nhiên và xã hội. Như vậy ý thức được hình thành chủ yếu
do hoạt động cải tạo thế giới khách quan của con người, làm biến đổi thế giới
đó.

Ngơn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành. Ngơn
ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Khơng có ngơn ngữ thì
ý thức khơng thể tồn tại và thể hiện được.


Vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển
của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một
hiện tượng xã hội.
1.2.4. Bản chất của ý thức
Bản chất của ý thức, được thể hiện ở một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, ý thức suy cho cùng là sự phản ánh hiện thực khách quan vào
trong đầu óc con người, là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”, là hình
ảnh tinh thần của vật chất bên ngồi, nó “khơng bao giờ có thể là cái gì khác hơn
là sự tồn tại được ý thức” [6, tr. 37].
Thứ hai, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con
người một cách năng động, sáng tạo, chủ động, tích cực (tức không phải là bản
sao chép giản đơn, thụ động, máy móc). Nó “chẳng qua chỉ là vật chất được đem
chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó” [8, tr. 35].
Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ra vô cùng phong phú. Trên cơ sở cái đã có, ý
thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra những cái khơng
có trong thực tế. Nó có thể tiên đoán, dự báo tương lai (phản ánh vượt trước), có
thể tạo ra những ảo tưởng, những huyền thoại, những giả thuyết,…những cái đó
càng nói lên tính chất phức tạp và phong phú của ý thức bên trong đầu óc con
người.
Lưu ý rằng, tính sáng tạo của ý thức khơng có ý nghĩa ý thức sinh ra vật
chất, mà sáng tạo trên cơ sở của quy luật phản ánh. Do đó, sáng tạo và phản ánh
là hai mặt thuộc bản chất của ý thức.
Thứ ba, sự phản ánh của ý thức là mang tính chất xã hội, bởi lẽ, ý thức
không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần túy, mà theo C.Mác, “ngay từ đầu,
ý thức đã là một sản phẩm của xã hội, bắt nguồn từ thực tiễn xã hội, phản ánh



những quan hệ xã hội, và vẫn là như vậy, chừng nào con người còn tồn tại” [6,
tr. 43].
1.3. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức
1.3.1. Vật chất quyết định ý thức
Thứ nhất, vật chất sinh ra ý thức vì ý thức là thuộc tính của một dạng vật
chất có tổ chức cao là bộ óc người. Bản thân con người là kết quả tiến hóa lâu
dài của giới tự nhiên.
Thứ hai, vật chất quy định nội dung của ý thức bởi lẽ ý thức dưới bất kỳ
hình thức nào, suy cho cùng, là phản ánh hiện thực khách quan.
Thứ ba, mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến
đổi của vật chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi
theo.
Thứ tư, vai trò của vật chất đối với ý thức trong đời sống xã hội được biểu
hiện ở vai trò của kinh tế đối với chính trị, đời sống vật chất đối với đời sống
tinh thần, tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội.
1.3.2. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức nghĩa là ý thức không thể chi
phối hồn tồn cái sản sinh ra nó (vật chất), nó vừa là sản phẩm, phụ thuộc vật
chất; vừa có quy luật riêng. Tính độc lập tương đối của ý thức được thể hiện ở
chỗ ý thức có thể thay đổi nhanh, chậm, đi song hành cùng với vật chất, nhưng
nhìn chung nó thường thay đổi chậm so với sự thay đổi của thế giới vật chất.
Thứ hai, thông qua hoạt động thực tiễn của con người, ý thức có thể làm
biến đổi những điều kiện, hồn cảnh vật chất, thậm chí cịn tạo ra “thiên nhiên
thứ hai” phục vụ cho cuộc sống của con người. Bởi vậy, theo Văn kiện Đại hội


XIII, chúng ta phải tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy

truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt
Nam; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy.
Thứ ba, ý thức chỉ đạo hoạt động, hành động của con người bằng cách hình
thành nên những ý định, tư tưởng, mục tiêu, kế hoạch, biện pháp; nó có thể
quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất
bại, bởi lẽ hành động do tư tưởng chỉ đạo. Cụ thể, khi phản ánh đúng hiện thực,
ý thức có thể dự báo, tiên đốn một cách chính xác hiện thực, có thể hình thành
nên những lý luận định hướng đúng đắn và những lý luận này được đưa vào
quần chúng sẽ góp phần động viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo, từ
đó sức mạnh vật chất được nhân lên gấp bội.
Thứ tư, xã hội ngày càng phát triển thì vai trị của ý thức ngày càng to lớn,
nhất là trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của
công nghiệp 4.0. Trong bối cảnh tồn cầu hóa, vai trị của tri thức khoa học, của
tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA MỐI
QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC TRONG TRIẾT HỌC MÁC –
LÊNIN ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức trong triết học Mác – Lênin
Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn muốn thành cơng, con
người phải có quan điểm khách quan. Điều này xuất phát từ lý luận của triết học
Mác – Lênin về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Yêu cầu của quan điểm khách quan là:
Một là, phải luôn tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.


Quy luật khách quan là mối liên hệ bản chất, ổn định, được lặp đi lặp lại
giữa các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, những quy luật này tồn tại bên
ngồi khơng phụ thuộc vào ý thức, ý chỉ của con người.

Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người luôn phải xuất
phát từ điều kiện thực tế khách quan. Chúng ta không thể nhận thức được hiện
tượng ý thức nào nếu chúng ta không gắn chúng với những điều kiện khách quan
đã sản sinh ra chúng.
Mọi mục tiêu, mục đích mà con người đặt ra đều phải xuất phát từ những
tiền đề khách quan thực tế. Nếu con người đặt ra mục tiêu, mục đích quá cao so
với điều kiện khách quan thực tế thì sẽ rơi vào khơng tưởng, khơng thể thực hiện
được. Ngược lại, nếu đặt mục tiêu, mục đích quá thấp so với điều kiện khách
quan thực tế thì sẽ không khai thác được khả năng của con người, thậm chí triệt
tiêu khả năng của con người.
Phải ln tơn trọng quy luật khách quan và hành động theo quy luật khách
quan. Thực tế đã cho thấy, nếu không tôn trọng quy luật khách quan, hành động
không theo quy luật khách quan, con người sẽ phải trả giá, thậm chí trả giá rất
đắt.
Muốn cải tạo sự vật phải xuất phát từ bản thân sự vật. Con người không thể
tùy tiện gắn cho sự vật những cái mà nó khơng có, hoặc nó chưa có. Vì vậy, phải
nhận thức sự vật vốn như nó có, khơng tơ hồng, khơng bơi đen. Nếu làm trái nhất
định sẽ phải trả giá.
Phải chống chủ nghĩa chủ quan dưới mọi hình thức. Đồng thời với việc tôn
trọng quan điểm khách quan cũng lưu ý chống cả chủ nghĩa khách quan, tức là
thái độ thụ động, ỷ lại, trông chờ vào điều kiện vật chất khách quan mà khơng cố
gắng tích cực phát huy sức mạnh vật chất hiện có.


Hai là, phát huy tính năng động, sáng tạo, sức mạnh to lớn của yếu tố con
người.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải luôn chủ động,
phát huy hết sức thông minh, khả năng suy nghĩ của mình. Phải ln tìm tịi,
sáng tạo ra cái mới trên cơ sở tích lũy, kế thừa cái cũ phù hợp. Có như vậy con
người mới ngày càng tài năng, xã hội ngày càng phát triển.

Con người phải không ngừng rèn luyện, tu dưỡng, nâng cao năng lực
nhận thức và lao động của mình. Phải kiên trì, nỗ lực vượt qua khó khăn, khơng
bỏ cuộc giữa chừng.
Tuyệt đối khơng được thụ động, trơng chờ, ỷ lại trong mọi tình huống.
Điều này cũng đồng nghĩa với việc tránh sa vào lười suy nghĩ, lười lao động.
Tóm lại, giữa vật chất và ý thức ln có mối quan hệ biện chứng, tác động
qua lại lẫn nhau. Vì vậy, khơng được tuyệt đối hóa bất cứ mặt nào, tuyệt đối hóa
mặt nào cũng dẫn tới sai lầm. Nếu tuyệt đối hóa vật chất sẽ rơi vào chủ nghĩa
duy vật tầm thường, chủ nghĩa khách quan tức là khơng thấy được vai trị của ý
thức trong hoạt động của mình. Mác nói: “Cố nhiên vũ khí phê phán khơng thể
thay thế sự phê phán bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi
lực lượng vật chất, nhưng lý luận một khi thâm nhập được vào quần chúng thì sẽ
trở thành lực lượng vật chất” [5, tr. 580]. Và ngược lại, nếu tuyệt đối hóa ý thức
sẽ rơi vào bệnh chủ quan duy ý chí. V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh khơng
được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, khơng được lấy tình cảm
làm điểm xuất phát cho chiến lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ
quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc
phải bệnh duy ý chí. Bệnh chủ quan duy ý chí là do sự yếu kém về trình độ nhận
thức nói chung và sự hạn chế trong q trình áp dụng lý luận vào thực tiễn nói
riêng. Do đó, Lênin đã gọi căn bệnh này "là sự mù quáng chủ quan", là sai lầm


tự phát dẫn đến rơi vào chủ nghĩa duy tâm một cách không tự giác. Về lý luận,
bệnh chủ quan duy ý chí có nhiều biến thể phức tạp và trở thành mầm mống cho
nhiều căn bệnh mới trong nhận thức. Song vẫn có khả năng được ngăn ngừa và
loại bỏ.
2.2. Sự vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội “Đảng ta đã phạm sai lầm chủ
quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan” trong việc xác định mục tiêu, bước

đi về xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh
tế… Căn bệnh đó biểu hiện ở chỗ, chúng ta đã chủ quan trong việc đánh giá
những khả năng hiện có khi đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội xuất phát từ một
nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, từ một xã hội tiền tư bản, với nền sản xuất
nhỏ là phổ biến, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm xuất phát này quy
định cả nội dung và hình thức, bước đi và thời gian của con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Xuất phát điểm rất thấp nhưng chúng ta lại ảo tưởng về
tốc độ cải tạo, phát triển kinh tế, và do đó, dẫn đến việc đề ra những chỉ tiêu quá
cao trong xây dựng cơ bản và phát triền sản xuất. Trong cải tạo và xây dựng chủ
nghĩa xã hội trước đổi mới, chúng ta đã khơng có được một đường lối, chính sách
phát triển kinh tế thận trọng và khoa học dẫn đường. Sai lầm chủ quan duy ý chí
đó là sự vi phạm nguyên tắc khách quan của sự xem xét, trái với tinh thần của
phép biện chứng duy vật.
Khắc phục những sai lầm ấy và nhìn nhận lại tình hình hiện tại của đất
nước, tháng 12/1986 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng và Nhà nước
ta quyết định đổi mới đất nước nhằm xây dựng một đất nước Việt Nam thốt khỏi
khó khăn và phát triển bền vững.
2.2.1. Xuất phát từ hiện thực khách quan của đất nước, của thời đại để
hoạch định các đường lối, chiến lược, sách lược nhằm xây dựng và phát triển
đất nước.


Xây dựng nền kinh tế phát triển tạo cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho đất
nước.
Đại hội VI đã thực hiện cuộc cách mạng – đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy
kinh tế mà cốt lõi là chuyển nền kinh tế vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp sang cơ chế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế.
Đại hội VII chủ trương điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh ba
chương trình kinh tế với nội dung cao hơn trước và từng bước xây dựng cơ cấu
kinh tế mới theo u cầu cơng nghiệp hố.

Đại hội VIII của Đảng nêu rõ tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hoá.
Đại hội Đảng lần thứ IX, X, XI tiếp tục khẳng định đường lối cơng nghiệp
hố đã nêu trên. Từ nửa cuối thập kỉ 90, cơ cấu kinh tế nước ta được điều chỉnh
theo hướng đẩy mạnh cơng nghiệp, hố hiện đại hoá.
Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam; bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng,
văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước” [4, tr. 128].
Đổi mới cơ chế quản lý: Đại hội VI đã chủ trương đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế và chỉ ra thực chất của cơ chế mới đó là cơ chế kế hoạch hố theo phương
thức hạch toán kinh tế xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Đảng
ta tiếp tục làm rõ nội dung và phương thức đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo


hướng xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về đổi mới các cơng cụ và chính sách quản lý kinh tế: cải tiến cơng tác kế
hoạch hố; xố bỏ bao cấp, tự do hố giá cả, khơi phục các quan hệ hàng hố tiền
tệ; đổi mới hệ thống chính sách tài chính, tiền tệ; tạo lập và từng bước hình thành
đồng bộ các yếu tố của thị trường; kiện toàn và nâng cao năng lực, hiệu quả quản
lý kinh tế của Nhà nước.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại: Đại hội VI chỉ rõ cùng với
việc mở rộng xuất nhập khẩu, tranh thủ vốn viện trợ và vay dài hạn cần vận dụng
nhiều hình thức đa dạng để phát triển kinh tế đối ngoại. Thực hiện chủ trương đó
Nhà nước đã ban hành chính sách “mở cửa” để thu hút vốn và kỹ thuật của nước

ngồi. Đa dạng hố và đa phương hố kinh tế đối ngoại, từng bước gắn nền kinh
tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, thị trường trong nước với thị trường quốc tế
trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, bảo đảm độc lập, chủ quyền dân tộc, an
ninh quốc gia.
2.2.2. Biết tìm kiếm, khai thác và sử dụng những lực lượng vật chất để hiện
thực hóa đường lối, chiến lược, sách lược nhằm xây dựng và phát triển đất
nước.
Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại.
Quy hoạch phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội hiện đại, đồng
bộ trên phạm vi cả nước, từng ngành, từng vùng và từng địa phương, đáp ứng u
cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; có phân kỳ đầu tư, ưu tiên những dự
án quan trọng tạo sự đột phá và có sự lan toả lớn. Tăng cường cơng tác quản lý
trong khai thác sử dụng cơng trình.
Đa dạng hố các nguồn đầu tư: huy động mạnh mẽ mọi nguồn lực của xã
hội, đảm bảo lợi ích hợp lý để thu hút các nhà dầu tư kể cả các nhà đầu tư nước
ngoài vào phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; đồng thời tiếp tục dành vốn


nhà nước tập trung đầu tư vào các cơng trình thiết yếu, quan trọng, khó huy động
các nguồn lực xã hội.
Đảm bảo kết hợp chặt chẽ với việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội
khác: phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng phải kết hợp chặt chẽ với bảo đảm quốc
phòng, an ninh thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền; gắn với tiết kiệm đất
canh tác, bảo vệ môi trường, tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Tập trung huy động mọi nguồn lực đầu tư để giải quyết cơ bản những tắc
nghẽn, quá tải bức xúc và từng bước hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế,
xã hội tương đối đồng bộ với một số cơng trình hiện đại, bảo đảm cho phát triển
nhanh và bền vững, tăng cường hội nhập quốc tế, bảo vệ mơi trường, ứng phó với
biến đổi khí hậu, xây dựng nơng thơn mới, thu hẹp khoảng cách vùng, miền và
nâng cao đời sống nhân dân,bảo đảm quốc phòng, an ninh và giữ vững độc lập

chủ quyền quốc gia, đáp ứng yêu cầu nước ta cơ bản đạt được quy mơ và trình độ
của nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Tạo được sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục được những hạn chế, yếu kém
trong công tác xây dựng Đảng, nhằm xây dựng Đảng ta thực sự là Đảng cách
mạng chân chính, ngày càng trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin trong Đảng và nhân dân,
động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi chủ trương, nghị
quyết của Đảng.
Xây dựng một Nhà nước Việt Nam Dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hồ bình ổn định chính
trị và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi
âm mưu và hành động chống phá của thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta.


Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển
toàn diện, thống nhất đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ,
tiến bộ; làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ, và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã
hội trở thành sức mạnh nội sinh của sự phát triển. Trong tổng thể đổi mới tồn
diện đó, Đảng ta khẳng định đổi mới kinh tế, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung
tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, phát triển văn hóa, làm cho văn hóa
thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội.
2.2.3. Phát huy tính năng động, sáng tạo của nhân tố con người trở thành
động lực mạnh mẽ thúc đẩy công cuộc đổi mới.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), đại hội khởi xướng sự nghiệp
đổi mới, đã khẳng định vai trò quan trọng của nhân tố con người và bắt đầu bằng
mệnh đề “Đổi mới tư duy” [1]. Trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội

đến năm 2000”, Đảng ta đã đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển.
Đại hội VII tiếp tục khẳng định quan điểm “coi mục tiêu và động lực của sự phát
triển là vì con người, do con người, trước hết là người lao động. Đó cũng là quan
điểm về sự thống nhất giữa mục tiêu của chính sách xã hội - tất cả vì con người”,
“mục tiêu giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có trí thức, có tay nghề, có năng lực thực
hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước,
yêu chủ nghĩa xã hội” [2, tr. 8]. Tại Đại hội VIII (1996), Đảng xác định: Cùng với
khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm: “Nâng
cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của người Việt Nam là nhân
tố quyết định thắng lợi của cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa” [3, tr. 21].
Đại hội IX là Đại hội Đảng ta tiếp cận vấn đề phát triển con người theo cách tiếp
cận của UNDP thông qua việc xác định chỉ số HDI (chỉ số phát triển con người
được xác định theo 3 tiêu chí: tuổi thọ, giáo dục và thu nhập bình qn đầu người
nhằm đo đạc những khía cạnh cơ bản của năng lực con người). Tiếp nối tinh thần


của các Đại hội trước, Đại hội X, XI, XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh, bổ sung,
phát triển quan điểm về phát triển con người. Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng
tiếp tục khẳng định phải: “Tăng cường xây dựng con người và nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội
sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc” [4, tr. 115-116].
Như vậy, có thể khẳng định rằng suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng của
Đảng, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới tồn diện đất nước, Đảng Cộng sản Việt
Nam ln quan tâm đến vấn đề con người và phát huy nhân tố con người. Nhờ
vậy, sau 35 năm đổi mới toàn diện đất nước ta đã đạt được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.
2.3. Một số giải pháp thúc đẩy quá trình đổi mới ở Việt Nam trên cơ sở
vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý

thức
Có thể nói rằng sau 35 năm đổi mới, Việt Nam đã có những thay đổi đáng
kể nhưng bên cạnh đó cũng có những hạn chế, bất cập mà Đảng và Nhà nước sẽ
vừa làm vừa tổng kết thực tiễn để hướng tới mục tiêu mà Văn kiện Đại hội XIII
đã đề ra: “Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hồn tồn miền Nam,
thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có cơng nghiệp theo hướng hiện
đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm
thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có cơng nghiệp hiện đại, thu nhập
trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành
nước phát triển, thu nhập cao” [4, tr. 112]. Với những giải pháp cụ thể sau:
Một là, không ngừng học tập và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa duy vật
mácxít phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Phải bám sát thực
tiễn, bám sát cơ sở, thâm nhập vào dân chúng, đánh giá đúng tiềm năng, thực
trạng của vấn đề.


Hai là, trong quá trình đổi mới phải nắm vững nguyên tắc lấy đổi mới kinh
tế làm trọng tâm. Không ngừng xây dựng cơ sở vật chất hiện đại, vững chắc tạo
tiền đề để đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ba là, phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức mạnh toàn dân
tộc, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm
gắn kết hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội.
Bốn là, đảm bảo lợi ích chính đáng của người lao động chính là động lực
phát huy tính tích cực trong mỗi cá nhân. Cần quan tâm đến những lợi ích vật
chất, lợi ích kinh tế bên cạnh những lợi ích tinh thần, những điều kiện sinh hoạt
cơ bản như ăn, mặc, ở cần được đáp ứng để họ an tâm lao động, cống hiến cho
xã hội.
Bốn là, tăng cường giao lưu, hợp tác với các nước và khu vực trên thế giới
để huy động mọi nguồn lực đầu tư vật chất phát triển đất nước.

Phần 3: KẾT LUẬN
Có thể nói, vật chất đóng một vai trị vơ cùng lớn và quyết định đối với ý
thức, nó là cái có trước ý thức, nhưng ý thức lại phản ánh lại vật chất . Mối quan
hệ qua lại này chỉ được thơng qua thực tiễn. Chính vì vậy, chúng ta nâng cao vai
trò của ý thức với vật chất cũng là nâng cao năng lực nhận thức các quy luật
khách quan và vận dụng nó vào trong đời sống thực tiễn của con người .
Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay, chúng ta đã thành công
khi chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị
trường định hưóng xã hội chủ nghĩa . Đảng ta ln ln xác định phải xuất phát
từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Thực tế
đã chứng minh việc vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công
cuộc đổi mới của đất nước là vô cùng đúng đắn và cần thiết . Ngày hôm nay, sau


35 năm đổi mới đất nước đã có những chuyển mình tích cực. Xong trong q
trình thực hiện vẫn cịn khơng ít những sai sót, khuyết điểm. Vì vậy, để thực sự
cuộc đổi mới đi đến thành công cần sự đồn kết, nỗ lực hết sức mình của tồn
Đảng, tồn dân, toàn quân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1987.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1991.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, t.1.
5. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995, t.1.
6. C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà

Nội, 1995, t.3.
7. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1994, t.20.
8. C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995, t.23.
9. V.I.Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, M.1980, t.18.



×