Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Đảm bảo quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.41 KB, 45 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm vừa qua, cùng với sự phát triển kinh tế, đòi sống của nhân dân
ngày càng được cải thiện, các quyền của công dân về dân sự cũng được Đảng và
Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự (TTHS), xu thế dân
chủ hóa các hoạt động tố tụng ngày càng được củng cố. Nghị quyết số 08/NQ-TW
(sau đây gọi tắt là Nghị quyết 08) của Bộ Chính trị ngày 2/1/2002 "về một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" đã tạo ra bước ngoặt mới cho sự
nghiệp cải cách tư pháp. Tư tưởng chủ đạo của Nghị quyết số 08 về cải cách tư pháp
là cải cách nhằm đảm bảo tính dân chủ của hoạt động tư pháp, đảm bảo quyền tự do
dân chủ của cơng dân. Thể chế hóa tư tưởng của Nghị quyết số 08, một loạt các văn
bản pháp luật của Nhà nước ra đời, trong đó có những văn bản có giá trị hết sức
quan trọng, ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống tư pháp như Bộ luật tố tụng hình sự
(BLTTHS) ngày 26/11/2003, Bộ luật tố tụng dân sự ngày 15/6/2004. Đặc biệt, trước
khi hai Bộ luật trên được ban hành, Nghị quyết 388/NQ/2003/UBTVQH của ủy ban
Thường vụ Quốc hội ngày 17/3/2003 đã thực sự tạo ra những tiền đề cơ bản cho sự
thay đổi quan điểm của các cơ quan tư pháp về vấn đề quyền công dân được bồi
thường thiệt hại (BTTH) do hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng. Thực tiễn
triển khai Nghị quyết số 08, BLTTHS và các văn bản liên quan đã đem lại những
bước tiến đáng kể trong tiến trình dân chủ hóa hoạt động TTHS, giảm thiểu các
trường hợp oan sai, và lần đầu tiên, những người bị oan sai đã được các cơ quan tiến
hành tố tụng xin lỗi, bồi thường.
Tuy nhiên, cơ chế để công dân được thực hiện quyền BTTH do hành vi trái
pháp luật trong TTHS ở nước ta hiện nay vẫn cịn trong giai đoạn vừa xây dựng, vừa
hồn thiện. Các quy định của pháp luật được ban hành chưa đầy đủ, chưa toàn diện
để điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến loại
BTTH đặc biệt này. Do đó, trên thực tế, công dân vẫn phải phụ thuộc rất lớn vào ý
chí chủ quan của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giải quyết bồi thường.



2

Ngược lại, bản thân các cơ quan tiến hành tố tụng cũng gặp rất nhiều khó khăn từ cơ
chế BTTH cho cơng dân. Nhiều vụ việc địi bồi thường đến nay chưa có khả năng
giải quyết dứt điểm, thậm chí, cả sau khi đã có phán quyết của các cơ quan có thẩm
quyền.
Các vấn đề mà thực tiễn đặt ra địi hỏi phải có sự nghiên cứu sâu hơn về mặt
lý luận các nội dung đảm bảo BTTH do hành vi trái pháp luật trong TTHS, đặc biệt,
phải nghiên cứu vấn đề này với tư cách một nội dung pháp lý của quyền cơng dân, từ
đó, tạo ra những luận cứ khoa học cho q trình pháp điển hóa các quy định này, tiến
tới việc xây dựng một đạo luật thống nhất điều chỉnh.
Như vậy, đảm bảo quyền của công dân được BTTH do hành vi trái pháp
luật trong hoạt động TTHS là vấn đề mới, thể hiện những tư tưởng quan trọng của
cải cách tư pháp, đòi hỏi phải có sự phân tích, làm rõ sâu hơn về mặt lý luận. Đây
cũng là một vấn đề mang tính chất thời sự và cấp bách hiện nay khi thực tế thực hiện
các quy định của pháp luật về BTTH do hành vi trái pháp luật trong hoạt động TTHS
cịn có những vướng mắc nhất định, gây phương hại đến lợi ích chính đáng của công
dân và uy tín chính trị của hệ thống các cơ quan tư pháp.
Xuất phát từ những địi hỏi mang tính chất lý luận và thực tiễn trên, cùng sự
quan tâm nghiên cứu của bản thân, tác giả đã lựa chọn đề tài: ''Đảm, bảo quyền của
công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố
tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Như đã đề cập, BTTH do hành vi trái pháp luật trong hoạt động TTHS là
một vấn đề mới được đặt ra ở Việt Nam, đặc biệt là sau sự ra đòi của Nghị quyết số
388/NQ/2003/UBTVQH11 của ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 17/3/2003. Đây
cũng là một đề tài nhận được khá nhiều sự quan tâm của giới khoa học luật, theo
trình tự thịi gian, có thể nhắc tới các cơng trình nghiên cứu như: Luận văn Thạc sĩ
luật học "Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố



3

tụng gây ra" của Nguyễn Hữu Ước năm 2001; các bài nghiên cứu "Bồi thường thiệt
hại đổi vái oan sai trong tố tụng" của TS Dương Thanh Mai và Nguyễn Hồng Hạnh
trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 6, tháng 7/2001; Chuyên khảo "Bồi thường
thiệt hại do bị bắt giữ, xét xử oan sai ở Việt Nam và một số nước trên thế giỏi" của
Viện Nghiên cứu khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp, năm 2001. Đây là các sản phẩm
khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách bao quát và chi tiết về BTTH do hành vi trái
pháp luật trong hoạt động TTHS trong bối cảnh chưa có một văn bản pháp luật độc
lập điều chỉnh về vấn đề này. Năm 2003, sau sự ra đòi của Nghị quyết số 388, các
nghiên cứu về "Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành
tố tụng gây ra" của Lê Mai Anh được công bố dưới dạng Luận án Tiến sĩ luật học.
Đây là cơng trình nghiên cứu có giá trị khoa học về vấn đề cơ chế giải quyết trách
nhiệm BTTH do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra cho cơng
dân. Đặc biệt, tới thịi điểm năm 2005, sau 2 năm thực hiện Nghị quyết số 388, một
loạt các loạt bài viết mang tính chất nghiên cứu, tổng kết, đánh giá thực tiễn được
công bố như: "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự thuộc Công an nhân dân" của Nguyễn Viết
Sách; "về trách nhiệm của Tòa án đối vái việc bồi thường thiệt hại cho người bị
oan" của Hoàng Ngọc Thành; "Qua hai năm thực hiện Nghị quyết 388 trong ngành
Kiểm sát nhân dân" của Hoàng Thế Anh... các bài viết này đều được đăng trên Tạp
chí Kiểm sát, số 16, tháng 8/2005 (số chuyên đề về tổng kết 2 năm thực hiện Nghị
quyết số 388)...
Tuy nhiên, các cơng trình khoa học nêu trên mới chỉ đề cập đến vấn đề BTTH do
hành vi trái pháp luật giới hạn trong một giai đoạn TTHS hoặc
trong một loại cơ quan tư pháp... Mặt khác, tới thịi điểm hiện nay, cũng chưa có một
cơng trình nào nghiên cứu về BTTH do hành vi trái pháp luật trong hoạt động TTHS
với tư cách là một quyền của cơng dân. Do vậy, có thể coi đây là lần đầu tiên đề tài
"Đảm bảo quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật



4

trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay" được nghiên cứu và nghiên
cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-

Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực tiễn về quyền của công
dân được BTTH do hành vi trái pháp luật trong hoạt động TTHS, để từ đó, có
những đề xuất nhằm hồn thiện pháp luật đảm bảo quyền của công dân được
BTTH do hành vi trái pháp luật trong hoạt động TTHS nói riêng và hoạt động
tư pháp nói chung.

-

Trong khn khổ một luận văn thạc sĩ luật học, đề tài không thể bao quát hết
tất cả các giai đoạn, các chủ thể của TTHS. Để đảm bảo tính chuyên sâu của
luận văn, đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu chỉ dừng lại ở những vấn đề về
đảm bảo quyền của công dân được BTTH do hành vi trái pháp luật trong hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự - những vấn đề mà theo quan điểm
của tác giả, là cơ bản và quan trọng hơn cả. Những nội dung được lựa chọn
nghiên cứu trong luận văn là những vấn đề tiêu biểu, qua đó làm rõ được về
mặt lý luận và khái quát được thực tế việc đảm bảo quyền của công dân được
BTTH do hành vi trái pháp luật trong hoạt động TTHS hiện nay.

4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Luận văn được thực hiện nhằm góp phần đảm bảo quyền của cơng dân được
BTTH do hành vi trái pháp luật trong hoạt động TTHS hiện nay. Để đạt được mục

đích này, luận văn có các nhiệm vụ sau:
-

Nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, nội dung quyền của công dân được BTTH
do hành vi trái pháp luật trong hoạt động TTHS.

-

Khảo sát, đánh giá thực trạng pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật về
quyền của công dân được BTTH do hành vi trái pháp luật trong hoạt động
TTHS, đánh giá nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ xã hội liên
quan đến hoạt động BTTH do hành vi trái pháp luật trong hoạt động TTHS.


5

-

Phân tích các quan điểm và phương hướng hồn thiện pháp luật, phương
hướng giải quyết các vấn đề hữu quan khác trong tiến trình hồn thiện cơ chế
đảm bảo quyền của công dân được BTTH do hành vi trái pháp luật trong hoạt
động TTHS.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
-

Luận văn dựa trên các luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, về vấn đề quyền công dân và
quyền con người, các quan điểm, tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam về
cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN)

của dân, do dân, vì dân.

-

về phương pháp nghiên cứu, luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của
Triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các phương pháp phân tích,
tổng họp, so sánh, thống kê...

6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn là cơng trình nghiên cứu đầu tiên làm rõ cơ sở lý luận đảm bảo
quyền của công dân được BTTH do hành vi trái pháp luật trong hoạt động TTHS:
đưa ra khái niệm, đặc điểm quyền của công dân được BTTH do hành vi trái pháp
luật trong hoạt động TTHS...
Trên cơ sở đó, luận văn nghiên cứu thực trạng việc đảm bảo quyền của công
dân được BTTH do hành vi trái pháp luật trong hoạt động TTHS ở Việt Nam hiện
nay trên cơ sở các số liệu mới nhất, cập nhật nhất hiện nay.
Các quan điểm, phương hướng hồn thiện pháp luật đảm bảo quyền của
cơng dân được BTTH do hành vi trái pháp luật trong hoạt động TTHS được đề xuất.
Luận văn cũng góp phần luận chứng các quan điểm, các giải pháp trong tiến trình
xây dựng và hoàn thiện pháp luật, cải cách tư pháp được Bộ Chính trị đề ra tại các
Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 2/1/2002, Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 2/6/2005,
Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005. Đây cũng là những điểm mới của luận văn
này.


6
7. Ý nghĩa của luận văn
Như đã phân tích, về mặt lý luận, luận văn sẽ làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận về quyền của công dân được BTTH do hành vi trái pháp luật trong hoạt động
TTHS: đưa ra và phân tích các khái niệm, quan điểm, các thành tố cấu thành, các

điều kiện tác động tới...
về mặt thực tiễn, luận văn phân tích thực trạng pháp luật và đòi sống thực tế
của các quy định pháp luật về BTTH do hành vi trái pháp luật trong hoạt động
TTHS, đưa ra phương hướng nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật và giải quyết
các vấn đề hữu quan khác.
Như vậy, bên cạnh những ý nghĩa lý luận và thực tiễn mà luận văn đem lại,
về mặt học thuật, việc triển khai đề tài góp phần làm phong phú thêm các kiến thức
lý luận - pháp lý về quyền cơng dân nói chung và quyền của cơng dân được được
BTTH do hành vi trái pháp luật trong hoạt động TTHS nói riêng, tạo ra những tiền
đề cho việc nghiên cứu ở cấp độ cao hơn và phạm vi rộng hơn trong thòi gian tới, và
là một tài liệu tham khảo có giá trị đối với hoạt động học tập, nghiên cứu những vấn
đề liên quan.
8. Kết cấu của luân văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
Cơ SỞ LÝ LUẬN ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA CÔNG DÂN
ĐƯỢC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO HÀNH VI TRÁI PHÁP LUẬT
TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH sự

1.1. QUYỀN CƠNG DÂN VÀ QUYỀN CỦA CƠNG DÂN ĐƯỢC BỊI THƯỜNG THIẾT
HẠI DO HÀNH VI TRÁI PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH Sự


7

1.1.1.

Khái niệm quyền công dân và quyền của công dân được bồi


thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình
sự
"Quyền" theo định nghĩa của từ điển Tiếng Việt, là: "1. Điều mà pháp luật
hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được địi hỏi (quyền cơng dân,
quyền bầu cử và quyền ứng cử); 2. Những điều do địa vị hay chức vụ mà được làm
(nói tổng quát. Có chức có quyền, lạm dụng quyền. Cầm quyền" [40, tr. 815]. Tuy
nhiên, dù với cách giải thích thứ hai, "quyền" vẫn là những gì "mà pháp luật hoặc xã
hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi", là khả năng xử sự nhất
định của cá nhân, tổ chức - khả năng năng được hưởng, được làm, được đòi hỏi từ
cộng đồng xung quanh.
"Cơng dân" là khái niệm mang tính xã hội - lịch sử, dù đã manh nha trong
tư tưởng của Aritstốt nhưng phải đến thời điểm ra đời Nhà nước Cộng hịa Q tộc
chủ nơ trong xã hội cổ đại La Mã, khái niệm công dân mới xuất hiện rõ nét. Tiếp sau
sự xuất hiện khái niệm công dân, khái niệm quyền công dân được đặt ra và nội hàm
khái niệm này được từng bước bổ sung, hoàn thiện, đặc biệt là qua các cuộc Cách
mạng Tư sản và sự xuất hiện các Nhà nước Tư sản ở châu Âu thế kỷ XVII, XVIII,
sau các cuộc Cách mạng Vô sản và sự xuất hiện Nhà nước XHCN thế kỷ XX. Trên
bình diện thế giới, khái niệm quyền công dân được tiếp cận ở nhiều góc độ khác
nhau, với nhiều cách hiểu khác nhau, song về cơ bản, quyền công dân được hiểu là
những quyền của những con người - công dân, được hiến pháp và pháp luật của một
quốc gia nhất định ghi nhận và bảo vệ.
"Công dân" theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt, là "người dân, trong mối
quan hệ về mặt quyền lợi và nghĩa vụ với Nhà nước" [40, tr.207]. Khi con người
được coi là công dân, quyền cơng dân chính là quyền con người trong một xã hội cụ
thể, trong một chế độ xã hội - chính trị cụ thể. Điều này chỉ ra tính khác biệt của
quyền công dân so với quyền con người - một khái niệm thường bị hiểu đồng nhất
với khái niệm quyền công dân. Quyền con người không chỉ là quyền mang tính chất


8


xã hội của con người - thành viên trong xã hội, mà cịn bao gồm những quyền thể
hiện tính chất tự nhiên, cá nhân, gắn với thuộc tính tự nhiên của con người: quyền
ăn, quyền ở, quyền sống, quyền tự vệ..., những quyền này mang tính tự thân, vốn có
của con người mà không cần phải được pháp luật của một nhà nước nào ghi nhận,
điều chỉnh. Khái niệm quyền con người rộng hơn khái niệm quyền cơng dân. Nói tới
quyền con người là nói tới các quyền của cá nhân mỗi con người khơng phân biệt
các đặc tính tự nhiên: chủng tộc, màu da, lứa tuổi, giới tính... hay các đặc tính xã hội
của con người: trình độ văn hóa, tơn giáo, tín ngưỡng, chế độ chính trị... Quyền công
dân được hiểu là quyền con người giới hạn trong phạm vi các đặc tính xã hội của
con người và trong phạm vi một quốc gia, một chế độ chính trị trong đó con người
tồn tại.
Trải qua thời gian, các nội dung của quyền công dân luôn được thay đổi và
bổ sung cùng với sự phát triển của xã hội, của khoa học pháp lý. Ở các mức độ khác
nhau, những năm 50 của thế kỷ XX, quyền công dân được tiếp cận ở góc độ quyền
bình đẳng với tư cách là nền tảng của tự do, công lý và hịa bình trên thế giới - với sự
ra đời của Tun ngơn tồn thế giới về nhân quyền và sự thể hiện tuyên ngôn này
trong pháp luật quốc gia. Những năm 70, 80 của thế kỷ XX, quyền công dân được
ghi nhận trong pháp luật quốc gia với tư cách là sự thể hiện các nội dung vàa quyền
con người về quyền dân sự và chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa theo các Cơng
ước về quyền dân sự và chính trị, Cơng ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
năm 1966, 1976. Tới thịi điểm hiện nay, tùy theo mỗi quốc gia, mỗi chế độ chính trị
khác nhau mà hệ thống các quyền cơng dân được thể hiện ở những mức độ khác
nhau. Tuy nhiên, quyền công dân được hiểu thống nhất bao gồm các nhóm quyền
lớn: nhóm quyền tự do dân chủ về chính trị (tham gia quản lý nhà nước và xã hội,
quyền bầu ứng, ứng cử, quyền tự do báo chí, lập hội, biểu tình...), nhóm quyền dân
sự (quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền được bảo vệ, bồi thường khỏi những hành vi
trái pháp luật xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của bản



9

thân...), nhóm quyền về kinh tế - xã hội (quyền tự do kinh doanh, sở hữu tài sản,
quyền lao động, học tập, phát minh, sáng chế...). Dù vậy, sự phân định giữa các
nhóm quyền này chỉ mang tính chất tương đối. Có thể có quyền thuộc nhóm quyền
dân sự nhưng lại là tiền đề hoặc hệ quả của quyền thuộc nhóm quyền kinh tế - xã hội
và ngược lại.
Trong nhóm các quyền dân sự, có một loại quyền đặc biệt, tương ứng với
quyền này là nghĩa vụ bồi thường của một chủ thể đặc biệt - Nhà nước, đó là quyền
của công dân được Nhà nước BTTH do hành vi trái pháp luật của Nhà nước. Hành vi
trái pháp luật của Nhà nước có thể diễn ra trên các lĩnh vực hoạt động của bộ máy
nhà nước xâm phạm đến quyền và lợi ích họp pháp của cơng dân. Lĩnh vực tư pháp
mà đặc biệt là tư pháp hình sự có khả năng gây thiệt hại nghiêm trọng ở mức độ
đáng kể tới quyền và lợi ích họp pháp của công dân, đặc biệt là các quyền bất khả
xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm. Đây là lĩnh vực giải quyết
mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân khi công dân bị cho là thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội một cách có lỗi, trái pháp luật, với các hoạt động chứng minh,
xét xử và cưỡng chế công dân thực hiện loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất:
trách nhiệm hình sự.
Hoạt động TTHS được quan niệm là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố
tụng trong vụ án hình sự với hoạt động cụ thể của những người tiến hành tố tụng. Cơ
quan tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự là các cơ quan nhà nước chuyên trách
thực hiện việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, bao gồm: Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án. Đây là các cơ quan có vai trị chủ đạo trong việc giải quyết
các vụ án hình sự. Người tiến hành tố tụng là những công chức trong cơ quan tiến
hành tố tụng, được bổ nhiệm vào các chức danh tố tụng, có thẩm quyền thực hiện
những hoạt động tố tụng nhất định trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của cơ quan
đó nhằm góp phần giải quyết vụ án hình sự. Ngồi ra, cũng có ý kiến cho rằng, hoạt
động TTHS còn bao gồm hoạt động của các cơ quan, tổ chức, luật sư và những

người tham gia tố tụng khác trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, ý


1
0
kiến này khơng mang tính chất phổ biến và những hành vi trái pháp luật của các chủ
thể này trong q trình giải quyết vụ án hình sự cũng khơng thuộc phạm vi nghiên
cứu của luận văn.
Oan sai nếu xảy ra trong TTHS sẽ dẫn đến khả năng công dân phải chịu
trách nhiệm hình sự mà đáng lẽ, họ khơng phải chịu bất kỳ loại trách nhiệm pháp lý
nào hoặc chỉ phải chịu một loại trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn. Nói cách khác, hành vi
trái pháp luật của Nhà nước trong TTHS có nguy cơ xâm hại nghiêm trọng đến các
quyền dân sự của cơng dân. Thậm chí, có ý kiến cho rằng, lĩnh vực TTHS tiềm ẩn
những nguy cơ gây thiệt hại cho công dân cao nhất và khả năng Nhà nước phải bồi
thường cho công dân nhiều nhất.
Từ góc độ khoa học pháp lý, với cách đặt vấn đề như trên, có thể hiểu khái
quát về quyền của công dân được BTTH do hành vi trái pháp luật trong hoạt động
TTHS là một nội dung của quyền cơng dân, thuộc nhóm quyền dân sự, phát sinh
giữa Nhà nước và công dân, trên cơ sở thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong hoạt
động TTHS gây ra. Như vậy, Quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do
hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự là một loại quyền cơng dân
trong nhóm quyền dân sự, theo đó, cơng dân được Nhà nước bồi thường do đã thực
hiện hành vi trái pháp luật gây thiệt hại thiệt hại cho công dân trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự.
1.1.2.

Các đặc điểm của quyền công dân được bồi thường thiệt hại do

hành vi trái pháp luật của Nhà nước trong tố tụng hình sự
1.1.2.1.


Quyền được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong

tố tụng hình sự là một quyền thuộc nhóm quyền dân sự
Các quyền dân sự đáp ứng nhu cầu của mỗi cá nhân được tự do,
dân chủ, bình đẳng với mọi người, được thoát khỏi mọi ràng buộc, cấm
đoán vơ lý từ mọi phía để vươn lên làm chủ bản thân mình, cuộc đời
mình. Đó là chủ quyền thiêng liêng của mỗi người, khơng ai có thể xâm


11

phạm được [17, tr. 29].
Nhóm các quyền về dân sự là các quyền liên quan đến cuộc sống dân sự
hàng ngày của công dân, các quyền tự do cá nhân như quyền sống, quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, quyền ăn ở, đi lại, giao thông liên lạc, tham gia các giao dịch
dân sự, quyền được đền bù do các hành vi trái pháp luật trong họp đồng và ngồi
hợp đồng. Quyền cơng dân được BTTH do hành vi trái pháp luật trong TTHS là một
nội dung của mối quan hệ BTTH ngồi hợp đồng, vì cơ sở phát sinh nghĩa vụ của
Nhà nước và quyền của công dân trong trường hợp này là hành vi trái pháp luật của
Nhà nước trong TTHS mà không phải do vi phạm thỏa thuận, điều khoản của bất kỳ
một họp đồng nào được thiết lập trước đó giữa Nhà nước và cơng dân. Cơng ước
quyền con người về dân sự - chính trị tháng 12 năm 1966 khẳng định: cơng dân có
quyền được BTTH khi các quyền về con người và quyền tự do thân thể của họ bị
công chức nhà nước vi phạm một cách trái pháp luật trong khi thi hành nhiệm vụ.
Người bị thiệt hại có quyền yêu cầu Nhà nước BTTH và Nhà nước có trách nhiệm
bồi thường.
Mặt khác, khi phân loại quyền công dân được BTTH do hành vi trái pháp
luật trong hoạt động TTHS là một quyền thuộc nhóm quyền cơng dân về dân sự điều này khơng có nghĩa chỉ giới hạn trong phạm vi nhóm quyền dân sự một cách
tuyệt đối. Bởi vì, như đã từng đề cập, sự phân chia quyền công dân thành những

nhóm quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa... chỉ có tính chất tương đối, giữa
những quyền trong một nhóm quyền này có sự liên hệ và đan xen lẫn với những
quyền trong một nhóm quyền khác. Cụ thể, quyền công dân được BTTH do hành vi
trái pháp luật trong hoạt động TTHS bao gồm các quyền được công khai xin lỗi,
được bồi thường các thiệt hại về vật chất, được dỡ bỏ các hạn chế về đi lại, được
khôi phục một số quyền công dân trước đó đã bị tước bỏ, do đó, quyền được BTTH
ở đây trước hết là quyền được khôi phục một cách toàn diện các quyền về dân sự,
các quyền về dân sự sau khi được khôi phục sẽ tạo điều kiện cho việc thực hiện các
quyền và khôi phục các lợi ích khác về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...


1
2
1.1.2.2.

Quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái

pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự thể hiện sự ràng buộc trách
nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân
Quyền công dân được BTTH chỉ phát sinh khi giữa Nhà nước và công dân
tồn tại một quan hệ "bình đẳng" ở mức độ nhất định. Nói cách khác, xã hội phải đạt
tới một trình độ dân chủ nhất định, trong đó người dân được đặt vào vị trí bình đẳng
tương đối với Nhà nước. Đây vừa là điều kiện vừa là đặc điểm của quyền công dân
được BTTH.
Quyền công dân được BTTH do hành vi trái pháp luật trong hoạt động
TTHS khơng thể tách rịi khỏi chủ thể đảm bảo cho quyền này được thực hiện. Sẽ là
vơ nghĩa nếu nói tới quyền cơng dân nói chung và quyền của dân được BTTH do
hành vi trái pháp luật trong hoạt động TTHS nói riêng nếu khơng xác định được ai là
người có trách nhiệm thực hiện việc bồi thường cho cơng dân. Do đó, việc xác định
tư cách bồi thường và đảm bảo tư cách bồi thường có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Trước đây, rất nhiều quốc gia trên thế giới thực hiện nguyên tắc "miễn trừ
quốc gia". Nguyên tắc này cho rằng Nhà nước được hưởng quyền miễn trừ quốc gia
nên không thể bị coi là bị đơn trong những vụ kiện yêu cầu BTTH. Khi công chức
nhà nước xâm phạm quyền lợi hợp pháp của cơng dân thì đó chỉ là hành vi mang
tính cá nhân, Nhà nước khơng phải bồi thường. Công chức nhà nước nào gây thiệt
hại cho đương sự thì phải tự chịu trách nhiệm bồi thường. Trên thực tế, việc bồi
thường theo quan điểm này gặp phải khá nhiều khó khăn, vì cơng chức nhà nước có
nguồn sống chủ yếu dựa vào lương từ ngân sách nhà nước, thường không đủ để bồi
thường những tổn hại đã gây ra cho cơng dân. Ngồi ra, nếu cơng chức phải chịu
trách nhiệm bồi thường thì tính tích cực và chủ động sẽ giảm đi khi thi hành công
vụ, đặc biệt là khi tiến hành các hoạt động tố tụng, sẽ khơng quyết đốn đưa ra các
quyết định và hành vi tố tụng cần thiết. Tâm lý e ngại phải tự chịu trách nhiệm bồi
thường, sẽ không được tái bổ nhiệm, ... là không thể tránh khỏi.


1
3
Vì vậy, nhằm đạt tới một giải pháp mang tính tích cực hơn, cuối thế kỷ XIX
và đầu thế kỷ XX, một số quốc gia đã xác định tư cách chủ thể của trách nhiệm bồi
thường trên cơ sở nguyên tắc "chuyển giao lao động tạm thịi". Theo đó, một khi
cơng chức thực thi nhiệm vụ mà có hành vi vi phạm gây thiệt hại cho cơng dân thì
trước hết Nhà nước phải có trách nhiệm bồi thường cho người bị hại, cịn việc xử lý
cơng chức (người lao động) có hành vi vi phạm và trách nhiệm của người cơng chức
đó tới đâu là thuộc quyền của cơ quan nhà nước (người trực tiếp quản lý và sử dụng
lao động) đối với công chức đã gây thiệt hại do hành vi sai trái của họ gây ra trong
khi thi hành công vụ. Tuy nhiên, điểm hạn chế của nguyên tắc này ở chỗ: trong quá
trình lao động thì trách nhiệm của người chủ sử dụng lao động chỉ dừng lại trong
phạm vi những việc làm mà chính mình đã ủy quyền hoặc phê duyệt mà khơng có
nghĩa là với mọi hành vi sai phạm của người lao động. Nếu người lao động lợi dụng
danh nghĩa cơng tác của mình để thực hiện những hành vi trái pháp luật gây thiệt hại

cho cơng dân ngồi phạm vi được th, được ủy quyền thì người sử dụng lao động
khơng có trách nhiệm bồi thường và quyền của công dân được BTTH khơng được
bảo đảm.
Do đó, tư cách chủ thể bồi thường một lần nữa cần được xem xét lại. Đến
những thập kỷ gần đây, nguyên tắc "trách nhiệm đại diện" được đề cập đến và được
xem như chìa khóa giải quyết vấn đề chủ thể bồi thường, khẳng định tư cách bồi
thường của Nhà nước và trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, đảm bảo triệt để
nhất quyền của công dân được BTTH do hành vi trái pháp luật trong hoạt động
TTHS. Theo nguyên tắc này, một khi người công chức có vi phạm gây thiệt hại cho
cơng dân thì trước hết Nhà nước phải có trách nhiệm bồi thường cho người bị hại
cịn việc xử lý cơng chức có vi phạm và trách nhiệm của cơng chức đó tới đâu là
việc riêng của cơ quan nhà nước. Sau đó, Nhà nước thu lại khoản bồi hồn từ cơng
chức. Bất luận là hành vi vi phạm pháp luật đó của cơng chức do lỗi vô ý hay cố ý,
mọi tổn hại trước tiên đều do Nhà nước bồi thường, sau đó căn cứ vào lỗi của cá
nhân công chức mà đưa ra mức bồi hồn tương ứng và thích họp. Ngun tắc "trách


1
4
nhiệm đại diện" khắc phục được những hạn chế của nguyên tắc "miễn trừ quốc gia",
nguyên tắc "chuyển giao lao động tạm thịi", kinh phí BTTH từ nguồn ngân sách nhà
nước được thực hiện một cách nhanh chóng và thuận lợi hơn khi việc bồi thường lấy
từ tiền lương của công chức. Xác định rõ tư cách bồi thường, phân định rõ trách
nhiệm của Nhà nước và trách nhiệm của công chức nhà nước, quyền của công dân
được BTTH trong TTHS mới được đảm bảo.
1.1.2.3.

Quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái

pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự dựa trên cơ sở pháp lý về trách

nhiệm dân sự của cơ quan nhà nước
Quyền của công dân được BTTH do hành vi trái pháp luật trong hoạt động
TTHS dựa trên cơ sở pháp lý về trách nhiệm dân sự của cơ quan nhà nước, cụ thể
hơn là trách nhiệm BTTH ngoài họp đồng. Cơ sở pháp lý của trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng là sự kết hợp của các yếu tố: hành vi trái pháp luật trong TTHS được
thực hiện một cách có lỗi, thiệt hại gây ra đối với công dân và mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi trái pháp luật với thiệt hại gây ra cho công dân.
Hành vi trái pháp luật là các vi phạm quy định pháp luật. Như vậy, từ góc độ
pháp lý, việc đánh giá một hành vi là đúng pháp luật hay trái pháp luật phải dựa trên
tiêu chí quy định của pháp luật, dựa trên chuẩn mực pháp luật. Hành vi trái pháp luật
là xử sự của một chủ thể không đáp ứng được các yêu cầu của pháp luật, thể hiện
qua việc thực hiện hoặc không thực hiện các hành vi nhất định mà theo quy định của
pháp luật không được thực hiện hoặc phải được thực hiện. Theo Điều 604 Bộ luật
dân sự (BLDS) năm 2005 về căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH thì đây là những
hành vi "xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền,
lợi ích họp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân
hoặc chủ thể khác". Trong TTHS, hành vi trái pháp luật thể hiện là những hành vi
thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự (như khỏi tố bị can, truy tố, ra bản án,
tuyên hình phạt, áp dụng các biện pháp ngăn chặn) đối với những công dân mà bản
thân họ không phạm tội, hành vi của họ không cấu thành tội phạm, chưa đến tuổi


1
5
chịu trách nhiệm hình sự, khơng có năng lực trách nhiệm hình sự, đã hết thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự, bản thân hành vi phạm tội đã được xử lý bằng một bản
án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật trước đó...
Như vậy, trong lĩnh vực TTHS, hành vi trái pháp luật trước hết là vi phạm
các quy định về trình tự, thủ tục tố tụng trực tiếp liên quan đến quyền và lợi ích
chính đáng của cơng dân. Hành vi trái pháp luật có thể là một hành vi độc lập, mang

tính độc đốn cá nhân của người tiến hành tố tụng (ví dụ: bắt, giam người khơng có
căn cứ vì động cơ cá nhân của người có thẩm quyền) hoặc là sản phẩm của các hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử tắc trách, khơng thu thập đầy đủ chứng cứ, bỏ sót các
chứng cứ quan trọng để chứng minh cơng dân có tội hay khơng có tội, do vậy, dẫn
đến việc khởi tố bị can khơng có căn cứ, ra cáo trạng, bản án đối với người không
thực hiện hành vi phạm tội... Trên thực tế, biểu hiện ra bên ngoài của các hành vi trái
pháp luật gây thiệt hại cho công dân là những trường họp: công dân bị khởi tố, tạm
giam, tạm giữ nhưng sau đó cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định đình chỉ điều tra
vụ án, trả tự do vì đã hết thời hạn tạm giữ, tạm giam mà khơng chứng minh được
người đó đã thực hiện tội phạm hoặc người đó chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
hoặc chứng minh được hành vi của người đó khơng cấu thành tội phạm mà chỉ bị xử
lý hành chính hoặc dân sự; cơng dân bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn, khám xét,
thu giữ, tạm giữ, tạm giam, kê biên tài sản khơng có căn cứ dẫn đến thiệt hại về vật
chất và tinh thần; công dân đã bị truy tố ra trước Tòa để xét xử nhưng Tịa án tun
bị cáo khơng có tội hoặc bản án kết tội của Tòa án cấp dưới bị Tịa án cấp trên hủy,
tun bố bị cáo khơng có tội...
Khi nói tới các hành vi trái pháp luật trong TTHS và hậu quả của hành vi
trái pháp luật này, không thể không đề cập đến khái niệm "oan" và "sai" - đây là
những khái niệm có liên quan mật thiết. Các hành vi trái pháp luật bản chất là các
hành vi thực hiện "sai" quy định của pháp luật, và do thực hiện "sai", có thể dẫn tới
hậu quả "oan" cho công dân. Tuy nhiên, như thế nào là "oan", như thế nào là "sai"
hiện cịn có nhiều ý kiến chưa thống nhất. Theo Từ điển tiếng Việt thì "oan" có nghĩa


1
6
là "một người nào đó bị quy cho tội mà họ không phạm, phải chịu trừng phạt mà bản
thân họ khơng đáng phải chịu" [40, tr. 749] và "sai" có nghĩa là "một hành vi nào đó
khơng phù họp với phép tắc, với những điều qui định" [40, tr. 844]. Như vậy, khái
niệm "sai" có ý nghĩa rất rộng, bao trùm lên cả khái niệm oan. Khái niệm "oan" có ý

nghĩa hẹp hơn khái niệm "sai". Ví dụ: cơng dân A hồn tồn khơng liên quan đến vụ
án nhưng vẫn bị Viện kiểm sát truy tố bằng một bản cáo trạng và áp dụng biện pháp
ngăn chặn tạm giam. Công dân A đã bị truy tố "oan", hạn chế quyền tự do đi lại
"oan" do cơ quan tiến hành tố tụng đã làm sai.
Với ví dụ trên, có thể nhận thấy, "oan" có nghĩa là một cơng dân nào đó
hồn tồn khơng thực hiện bất kỳ hành vi phạm tội hoặc hành vi vi phạm pháp luật
nào có liên quan tới vụ án, nhưng đã bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án, áp dụng
các biện pháp ngăn chặn. Cịn khái niệm "sai" trong TTHS có nghĩa là một người
nào đó đã thực hiện hành vi phạm tội và hành vi phạm tội đó đúng ra phải bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội danh này, nhưng lại bị khởi tố, truy tố, xét xử về một
tội danh khác hoặc bị áp dụng hình phạt nặng hơn hình phạt lý ra họ phải gánh chịu,
hoặc trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án các cơ quan chức năng đã
có hành vi vi phạm pháp luật dẫn đến việc họ phải gánh chịu những thiệt hại về vật
chất hoặc tinh thần. Một đặc điểm cơ bản để phân biệt khái niệm "oan" với khái
niệm "sai" là khi nói tới một người bị oan, có nghĩa là họ hồn tồn khơng thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật.
Pháp luật Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quan niệm về oan, sai một cách rất
chung chung và được hiểu là do các cơ quan tiến hành tố tụng đã nhận định sai sự
thật; áp dụng sai pháp luật; vi phạm trình tự, thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định.
Điều 15 Luật về Nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa bồi thường thiệt hại quy
định: các cơ quan có chức năng điều tra, truy tố, xét xử, quản lý trại giam và cán bộ
của những cơ quan này khi thực thi nhiệm vụ mà xâm phạm quyền nhân thân, thuộc
một trong các trường hợp sau thì người bị thiệt hại có quyền u cầu bồi thường thiệt


1
7
hại:
1. Bắt, giữ sai đối với những người bị tình nghi phạm tội nhưng chưa có dấu
hiệu thực tế hoặc chưa có những chứng cứ thực tế chứng tỏ rằng họ đã thực

hiện hành vi phạm tội;
2. Tạm giam sai đối với những người chưa thực sự phạm tội;
3. Xét xử lại theo trình tự luật định là vơ tội (xét xử theo trình tự phúc thẩm,
giám đốc hoặc tái thẩm), nhưng đã chấp hành hình phạt đã tun;
4. Có các hành vi bức cung, nhục hình hoặc sai người khác dùng các hành vi
đánh đập dẫn đến công dân bị thương hoặc tử vong;
5. Sử dụng vũ khí, dụng cụ trái pháp luật dẫn đến công dân bị thương hoặc tử
vong [39, tr. 155].
Pháp luật Cộng hòa Liên bang Nga cũng chưa có quy định về khái niệm
oan, sai trong trong hoạt động TTHS. Tuy nhiên, qua các quy định của BLTTHS
Cộng hịa Liên bang Nga có thể hiểu những hành vi có thể dẫn đến oan, sai là: người
có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự một người mà rõ ràng là người đó
khơng có tội; kiểm sát viên hay người tiến hành điều tra sơ bộ đình chỉ việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người bị tình nghi phạm tội hoặc người đã bị khởi tố về
một tội nào đó; hành vi giữ người trái pháp luật; người tiến hành điều tra sơ bộ ép
buộc người bị tình nghi, bị can, người bị hại, người làm chứng đưa ra lời khai không
đúng sự thật hoặc người giám định đưa ra kết luận giám định sai; những hành vi vi
phạm pháp luật gây thiệt hại đối với tài sản bị kê biên, tạm giữ...
Pháp luật Cộng hịa Pháp cũng khơng phân biệt rõ ràng các trường họp oan,
sai trong hoạt động TTHS. Luật chỉ qui định rằng những người có quyền yêu cầu
BTTH là những người được tuyên vô tội.
Luật của Họp chủng quốc Hoa Kỳ - quốc gia theo nguyên tắc "miễn trừ
quốc gia" về việc BTTH do oan, sai trong hoạt động TTHS và theo truyền thống luật
án lệ, Hoa Kỳ cũng không có quy định pháp luật phân biệt giữa oan và sai mà Tòa án


1
8
chỉ căn cứ vào những tình tiết cụ thể để giải quyết vấn đề bồi thường.
Luật của Nhật Bản cũng không thể đưa ra khái niệm "oan" và "sai" mà chỉ

quy định những điều kiện để được BTTH.
Như vậy, pháp luật của các nước nêu trên đã không thể hiện khái niệm này
và cũng không qui định một cách rạch ròi trường họp nào là oan, trường họp nào là
sai trong hoạt động TTHS. Luật chỉ qui định một cách rất chung chung và chủ yếu
đề cập tới đối tượng nào và trong điều kiện nào thì được yêu cầu BTTH.
Hành vi trái pháp luật được thực hiện một cách có lỗi, bị coi là có lỗi nếu
lựa chọn và thực hiện một xử sự không phù họp với quy định của pháp luật khi có đủ
điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn và thực hiện xử sự khác phù họp với
quy định của pháp luật. Lỗi có thể là lỗi cố ý hoặc lỗi vơ ý. Lỗi với tính chất là trạng
thái tâm lý của cá nhân. Tuy nhiên, trong mối quan hệ bồi thường giữa Nhà nước với
cơng dân, thì lỗi phải coi là lỗi của Nhà nước chứ không phải là lỗi của cá nhân
người có thẩm quyền trong TTHS. Bởi vì, cá nhân này gây thiệt hại ở tư cách là
người có thẩm quyền trong hoạt động TTHS, được trao quyền lực nhà nước, là đại
diện của Nhà nước. Cách xác định này để đảm bảo sự triệt để trong việc thực thi
trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân. Nhà nước sẽ không bao giờ phải chịu
trách nhiệm về bất cứ điều gì với xã hội và cá nhân cơng dân, sẽ "bỏ roi" xã hội và
cá nhân công dân nếu lập luận người gây thiệt hại cho công dân là cá nhân Thủ
trưởng Cơ quan điều tra chứ không phải Nhà nước và cơng dân phải địi Thủ trưởng
Cơ quan điều tra bồi thường mà không phải Nhà nước bồi thường. Công dân sẽ
không thể được bảo vệ nếu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nại ra rằng hành
vi tố tụng trái pháp luật là việc thực hiện mệnh lệnh hành chính của cấp trên, là đồng
trách nhiệm do hỗn họp lỗi giữa thủ trưởng và nhân viên, giữa cơ quan tham mưu và
người trực tiếp thực hiện... Và do vậy, lỗi của cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
hành vi trái pháp luật trong TTHS phải được coi là lỗi suy đoán, nghĩa là khi xác
định hành vi trái pháp luật, tức là hành vi đó đã được thực hiện một cách có lỗi.
Những trường hợp Nhà nước không chịu trách nhiệm BTTH là khi không có


1
9

lỗi của Nhà nước, ví dụ: những người bị bắt giam do hành vi phạm tội nhưng sau đó
được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc miễn chấp hành hình phạt. Một trường
hợp khác, khơng phải bồi thường cho công dân khi tồn tại hỗn họp lỗi của cả Nhà
nước và công dân khi công dân cố ý khai sai sự thật hoặc tạo chứng cứ giả nhằm
mục đích gây khó khăn, đánh lạc hướng điều tra, truy tố, xét xử để bị truy cứu trách
nhiệm hình sự, giam giữ oan, sai.
Việc xác định chủ thể của lỗi trong hoạt động TTHS chỉ được đặt ra khi cần
giải quyết vấn đề bồi hoàn, làm rõ trách nhiệm bồi hoàn của cá nhân có thẩm quyền
với Nhà nước (trong quan hệ "đóng cửa bảo nhau" giữa cơ quan nhà nước và cơng
chức của cơ quan đó) mà khơng được phép đặt ra trong việc giải quyết bồi thường
giữa Nhà nước và công dân.
Hành vi trái pháp luật, được thực hiện một cách có lỗi phải gây ra những
hậu quả nhất định. Nói cách khác, phải gây ra những thiệt hại thực tế. Các thiệt hại
này bao gồm những tổn thất về tinh thần (danh dự, nhân phẩm, uy tín bị ảnh hưởng),
các tổn hại về tính mạng, sức khỏe (bị chết, bị suy giảm sức khỏe do bị giam, giữ,
chấp hành hình phạt...), các quyền tự do thân thể; các tổn hại về tài sản (tài sản bị
tịch thu, bị buộc phải trả cho người khác một cách khơng có căn cứ...).
Các hành vi trái pháp luật trong TTHS có thể gây ra một hoặc nhiều thiệt
hại khác nhau, giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả phải có mối quan hệ lơgíc,
hành vi là ngun nhân tất yếu gây ra hậu quả, phải xảy ra trước hậu quả. Tuy nhiên,
từ đặc thù của hoạt động TTHS, có thể nhận thấy hành vi trái pháp luật gây ra hậu
quả cho công dân lại là hậu quả của một hành vi trái pháp luật khác hoặc hậu quả
gây thiệt hại cho công dân là kết quả của nhiều hành vi trái pháp luật khác nhau.
Trong mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, hầu hết các vấn đề tố
tụng quan trọng đều do Cơ quan điều tra quyết định với sự phê chuẩn của Viện kiểm
sát. Vậy Cơ quan điều tra phải chịu trách nhiệm hay Viện kiểm sát phải chịu trách
nhiệm. Do đó, rất dễ dẫn đến tình trạng các cơ quan tiến hành tố tụng dễ đùn đẩy
nhau trong việc thừa nhận hành vi trái pháp luật của mình và thực hiện trách nhiệm



2
0
với công dân nếu pháp luật thực định không xác định rõ nguyên tắc, chủ thể bồi
thường.
1.2. NHỮNG YÉU TÓ ĐẢM BẢO QUYỀN CÔNG DÂN ĐƯỢC BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI DO HÀNH VI TRÁI PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH Sự

1.2.1.

Yếu tố chính trị, tư tưởng

Phạm trù chính trị, tư tưởng tiếp cận ở góc độ đảm bảo quyền công dân
được BTTH do hành vi trái pháp luật trong hoạt động TTHS thể hiện qua mối quan
hệ giữa Nhà nước với công dân và các tư tưởng, học thuyết chính trị về mối quan hệ
giữa Nhà nước với cơng dân. Quyền được BTTH do hành vi trái pháp luật trong hoạt
động TTHS là một loại quyền đặc biệt, thể hiện rất rõ sự tiến bộ xã hội trong mối
quan hệ giữa cơng dân với Nhà nước, nó phản ánh tính chất dân chủ và bình đẳng (ở
mức độ nhất định) giữa cơng dân với Nhà nước. Tính chất dân chủ và bình đẳng này
chỉ có được trong những kiểu Nhà nước đạt tới một trình độ tiến bộ xã hội mức độ
cao, ở đó, khi Nhà nước (thơng qua hoạt động của các cơ quan nhà nước và người có
thẩm quyền trong các cơ quan nhà nước) thực hiện các hành vi trái pháp luật, gây
tổn hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân thì phải bồi thường. Quyền
công dân được BTTH do hành vi trái pháp luật của Nhà nước phản ánh trách nhiệm
của Nhà nước đối với cơng dân, thể hiện tính chất dân chủ, dân sự của một xã hội,
một Nhà nước - điều khơng thể có trong các xã hội, Nhà nước chuyên chế, chủ nô,
phong kiến...
Những tư tưởng tiến bộ về trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân ít
nhiều được đưa ra trong các học thuyết của Lôc-kơ, Phơ-bách, Vôn-te, Mông-teskiơ, Mác, Ăng-ghen, Lê-nin, Tôn Trung Sơn, Hồ Chí Minh... và như đã đề cập, chỉ
có thể được hiện thực hóa khi tồn tại những kiểu Nhà nước đạt tới sự bình đẳng và
dân chủ nhất định. Khi xã hội loài người càng ngày càng phát triển hơn, nhu cầu dân

chủ cao hơn và khả năng đáp ứng nhu cầu về dân chủ của công dân được đáp ứng
nhiều hơn, khi đó, trong mối quan hệ giữa cơng dân với Nhà nước, khơng phải chỉ
có cơng dân có trách nhiệm với Nhà nước (nếu công dân vi phạm pháp luật thì cơng


2
1
dân phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước) mà còn địi hỏi nếu Nhà nước vi phạm
quyền cơng dân thì Nhà nước cũng phải chịu trách nhiệm trước công dân và BTTH
cho công dân. Hệ thống các quyền và nghĩa vụ của công dân tương ứng với quyền và
nghĩa vụ của Nhà nước. Nhà nước vừa là thiết chế chính trị có quyền lực lớn nhất để
điều hành mọi hoạt động của đời sống xã hội, quản lý công dân, vừa là công cụ để
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Như vậy, Nhà nước vừa có
quyền với cơng dân vừa phải có nghĩa vụ với công dân. Việc xác định trách nhiệm
của Nhà nước nhằm đảm bảo cho công dân được thực hiện các quyền của mình, tạo
điều kiện để cơng dân được tự bảo vệ mình trước Nhà nước - một chủ thể có quyền
lực cao nhất bao trùm xã hội và có khả năng gây ra những thiệt hại nghiêm trọng
nhất đối với công dân, đặc biệt là trong lĩnh vực TTHS. Ngày nay, trách nhiệm,
nghĩa vụ của Nhà nước phải bồi thường do hành vi trái pháp luật của các cơ quan
nhà nước khi tiến hành TTHS đã trở nên quen thuộc ở nhiều quốc gia trên thế giới
trong tiến trình dân chủ hóa và xây dựng Nhà nước pháp quyền, trở thành một trong
những công cụ để bảo đảm dân chủ, công bằng xã hội, thước đo của nền dân chủ và
tiến bộ xã hội.
1.2.2.

yếu tố pháp luật

Với cách tiếp cận và phân tích trên, có thể khẳng định yếu tố chính trị, tư
tưởng tạo ra nền tảng chính trị, tư tưởng cho việc đảm bảo quyền của công dân được
BTTH do hành vi trái pháp luật trong hoạt động TTHS. Giữa các thành tố của kiến

trúc thượng tầng, pháp luật chính là sự thể hiện, sự cụ thể bản chất chính trị, tư
tưởng của giai cấp cầm quyền. Mối quan hệ Nhà nước với công dân trong những
kiểu nhà nước tiến bộ đã đề cập, cơng dân vừa có nghĩa vụ, vừa có quyền, các quyền
này được ghi nhận trong các văn bản pháp luật. Như vậy, với sự ghi nhận của pháp
luật, cơng dân có các quyền (mà tương ứng là các nghĩa vụ của Nhà nước) mà không
phải là sự ban phát, là quà tặng của Nhà nước. Pháp luật được coi là một điều kiện
thiết yếu để đảm bảo quyền của công dân được BTTH do hành vi trái pháp luật trong
hoạt động TTHS với vai trị là phương tiện pháp lý để cơng dân thực hiện yêu cầu


2
2
bồi thường thiệt hại và tạo ra cơ chế giải quyết bồi thường thiệt hại.
I.2.2.I.

Pháp luật là phương tiện pháp lý để công dân thực hiện yêu cầu

hồi thường thiệt hại
Nếu khơng có pháp luật, nếu các quy định của pháp luật không đầy đủ, công
dân sẽ không thể dựa vào pháp luật để địi lại sự cơng bằng và các cơ quan nhà nước
cũng sẽ khơng có cơ sở pháp lý để thực hiện trách nhiệm bồi thường. Vì vậy, với tư
cách là những xử sự bắt buộc do Nhà nước quy định để điều chỉnh quan hệ BTTH về
hành vi trái pháp luật trong hoạt động TTHS, pháp luật là phương tiện pháp lý để
công dân đưa ra yêu cầu bồi thường, tạo ra sự bình đẳng thực sự giữa Nhà nước và
cơng dân trong q trình giải quyết bồi thường.
Pháp luật quy định bao quát và biện chứng quyền và nghĩa vụ của cả hai loại
chủ thể công dân và Nhà nước, đặc biệt là nghĩa vụ của Nhà nước, ràng buộc trách
nhiệm của Nhà nước đối với công dân, đối với hành vi trái pháp luật trong TTHS và
hậu quả mà hành vi đó gây ra. Khi đã được quy định trong các văn bản của pháp
luật, quyền được bồi thường của cơng dân chính thức trở thành trách nhiệm của Nhà

nước. Khi đó, việc giải quyết yêu cầu bồi thường trở thành nghĩa vụ pháp lý mang
tính bắt buộc, khơng phải việc thích thì làm, khơng thích thì khơng làm, làm cũng
được mà khơng làm cũng được của các cơ quan nhà nước.
Pháp luật xác định đầy đủ các trường hợp được bồi thường để bảo vệ triệt để
quyền lợi cho công dân, cũng như xác định rõ các trường họp không được bồi
thường để đảm bảo sự cơng bằng và uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng. Pháp
luật quy định rõ cách xác định oan sai, mức bồi thường, kinh phí bồi thường để đảm
bảo việc bồi thường được tiến hành thuận lợi, nhanh chóng và triệt để.
Sự bình đẳng về địa vị pháp lý của công dân với Nhà nước trong việc thực
hiện yêu cầu bồi thường là một vấn đề rất đơn giản nhưng cũng rất phức tạp. về lý
thuyết, rất đơn giản ở chỗ, như đã phân tích tại phần 1.1.1, bản thân sự bình đẳng
giữa Nhà nước và công dân đã là một trong những đặc điểm vốn có, mang tính cố
hữu của quyền của cơng dân được BTTH do hành vi trái pháp luật của cơ quan nhà


2
3
nước trong TTHS, nếu khơng có sự bình đẳng, sẽ không thể đặt ra quan hệ bồi
thường đặc biệt này và cũng sẽ không thể đặt ra quyền của công dân được bồi
thường dù chỉ trên lý thuyết. Sự bình đẳng trong mối quan hệ giữa công dân với Nhà
nước sẽ là điều kiện để thực hiện quyền của công dân được BTTH.
Tuy nhiên, tính phức tạp lại nằm ở khía cạnh thực tiễn của vấn đề - việc
pháp luật phải đảm bảo sự bình đẳng giữa cơng dân với Cơ quan đứng ra đại diện
cho Nhà nước để bồi thường. Bình đẳng có nghĩa hai bên ở vị trí ngang hàng nhau,
có quyền và nghĩa vụ như nhau. Sự bình đẳng trong mối quan hệ này sẽ giúp cho
cơng dân được ở vào vị thế thực sự ngang bằng với cơ quan nhà nước, một sự ngang
bằng giữa thiểu số và đa số, giữa người hiểu biết pháp luật ở mức độ phổ thông và
những người sử dụng pháp luật chun nghiệp.
Do đó, đảm bảo sự bình đẳng thực sự giữa Nhà nước với công dân trong
quan hệ bồi thường vừa là sự thể hiện vai trò, ý nghĩa của pháp luật, vừa là yêu cầu,

nhiệm vụ khó khăn mà pháp luật phải đạt được nhằm đảm bảo triệt để quyền công
dân được BTTH do hành vi trái pháp luật trong TTHS.
1.2.2.2 Pháp luật tạo ra cơ chế giải quyết hồi thường thiệt hại
"Cơ chế" theo Từ điển tiếng Việt, là "cách thức theo đó một q trình thực
hiện" [40, tr. 214]. Do đó, để đảm bảo quyền cơng dân được bồi thường do hành vi
trái pháp luật trong hoạt động TTHS, trên cơ sở pháp luật, Nhà nước tạo ra cơ chế
giải quyết vấn đề bồi thường giữa Nhà nước và cơng dân thực sự bình đẳng và hữu
hiệu.
Đưa ra yêu cầu bồi thường có thể được coi là điểm bắt đầu của cơ chế giải
quyết BTTH - nếu các cơ quan nhà nước không chủ động thực hiện trách nhiệm bồi
thường của mình đối với cơng dân. Khi cơ quan có nghĩa vụ bồi thường khơng chủ
động thực hiện nghĩa vụ bồi thường, thì cơng dân có quyền yêu cầu cơ quan đó phải
thực hiện việc bồi thường.
Việc đảm bảo quyền của công dân được BTTH do hành vi trái pháp luật


2
4
trong hoạt động TTHS trước hết đòi hỏi pháp luật phải ghi nhận cơng dân có quyền
đưa ra u cầu bồi thường, cơng dân có một "diễn đàn" họp pháp để "lên tiếng" về
những oan khuất, bất bình, những mong muốn, nguyện vọng về việc giải quyết vụ
án. Nếu ngay cả quyền nói, quyền kêu oan, quyền khiếu nại của cơng dân cũng
khơng được thực hiện thì khơng thể khẳng định pháp luật đã đảm bảo các quyền
chính trị - dân sự của công dân. Pháp luật sẽ tạo ra các diễn đàn thật sự dân chủ để
người dân có quyền đưa ra các thông tin về hành vi trái pháp luật trong hoạt động
TTHS và đề đạt yêu cầu của mình về những hậu quả mà hành vi trái pháp luật đó đã
gây ra.
Cụ thể, pháp luật tạo ra cơ chế để công dân đưa ra yêu cầu bồi thường. Việc
đưa ra yêu cầu bồi thường phải trên cơ sở các quy định về tư cách yêu cầu, về chủ
thể tiếp nhận yêu cầu, về phương thức yêu cầu, về thời hạn yêu cầu...

Các khâu tiếp theo của cơ chế giải quyết yêu cầu bồi thường được pháp luật
thiết kế trên cơ sở tạo ra hành lang pháp lý cho cơng dân và cơ quan có nghĩa vụ bồi
thường đi tới thỏa thuận về phương thức bồi thường, mức tiền bồi thường, những
căn cứ và lý do tính mức tiền bồi thường...
1.2.3.
I.2.3.I.

Các yếu tố kinh tế - xã hội
Yếu tổ vật chất - kỉnh phí hồi thường

Yếu tố vật chất luôn là điều kiện thực tế cho việc thực hiện các hoạt động
bồi thường. Kinh phí bồi thường có ý nghĩa quan trọng đặc biệt đối với việc đảm bảo
quyền của công dân được BTTH do hành vi trái pháp luật trong
TTHS. Bên cạnh các hoạt động công khai xin lỗi, khôi phục danh dự cho công dân,
các tổn thất về tài sản cũng như tính mạng, sức khỏe, uy tín, danh dự, nhân phẩm, tự
do cá nhân đều phải được bồi thường và bồi thường bằng tài sản. Cơ quan có trách
nhiệm bồi thường khơng thể xin lỗi "sng" đối với cơng dân. Nếu khơng có kinh
phí, chủ thể bồi thường sẽ khơng thể hồn thành nghĩa vụ của mình, cho dù họ có tự
nguyện và tự giác đối với trách nhiệm bồi thường. Nói cách khác, thiếu kinh phí, sẽ
khơng thể thực hiện việc bồi thường tồn diện, dứt điểm. Thậm chí, trên thế giới,


2
5
một số tổ chức bảo vệ nhân quyền đã yêu cầu Nhà nước phải chú ý tới vấn đề kinh
phí để thực hiện việc bồi thường tồn phần, theo đó, khi các chủ thể (các cơ quan tư
pháp hình sự) tiến hành các hành vi TTHS mà có hành vi vi phạm pháp luật, xâm hại
tới các quyền của công dân được qui định trong luật bồi thường thì các cơ quan này
có trách nhiệm bồi thường tồn phần. Việc bồi thường được căn cứ vào những tổn
thất thực tế do hành vi vi phạm pháp luật gây ra.

Do vậy, điều kiện về tài chính - kinh phí đóng vai trò quan trọng đáng kể
trong việc đảm bảo quyền của công dân được BTTH do hành vi trái pháp luật trong
hoạt động TTHS.
I.2.3.2.

Yếu tố ý thức pháp luật và vãn hóa pháp lý

Để đảm bảo quyền của cơng dân được BTTH do hành vi trái pháp luật trong
TTHS, ngoài các quy định của pháp luật, mỗi quốc gia còn cần xây dựng một hệ
thống các cơ quan nhà nước và đội ngũ cơng chức nhà nước có ý thức trách nhiệm
với cơng dân, có lương tâm và đạo đức nghề nghiệp. Ý thức trách nhiệm với công
dân, lương tâm và đạo đức nghề nghiệp của các cơ quan nhà nước và đội ngũ cơng
chức nhà nước chỉ có được nếu Nhà nước và xã hội tạo lập cho họ ý thức pháp luật,
văn hóa pháp lý. Nếu khơng, sẽ khơng thể giảm bớt oan sai trong TTHS, các cơ quan
gây ra oan sai sẽ khơng thể có sự tự nguyện bồi thường, tự nguyện xin lỗi, và khi đó,
việc bồi thường sẽ trở thành gánh nặng, trở thành nghĩa vụ của "kẻ thua cuộc". Các
hoạt động bồi thường, xin lỗi công dân vẫn sẽ được thực hiện nhưng bản thân các cơ
quan gây ra oan sai sẽ không nhận thức được hậu quả đã gây ra cho công dân, không
ý thức được ý nghĩa nhân văn của trách nhiệm bồi thường.
Văn hóa pháp lý bao gồm ý thức pháp luật, hệ thống pháp luật, việc thực
hiện pháp luật và những con người áp dụng pháp luật. Văn hóa là cái tự thân trong
mỗi cá nhân con người cũng như đặc điểm, cách ứng xử chung, mang tính phổ biến,
mang tính tích cực và tiến bộ của cả cộng đồng người. Ý thức pháp luật là một thành
tố quan trọng của văn hóa pháp lý. Ý thức pháp luật nếu phân chia theo cấu trúc,
trước hết bao gồm ý thức pháp luật nhóm và ý thức pháp luật cá nhân. Theo lý luận


×