Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, các yếu tố nguy cơ của tai biến mạch máu não trong thai kỳ và hậu sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (824.46 KB, 10 trang )

ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CÁC YẾU TỐ
NGUY CƠ CỦA TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO TRONG THAI KỲ VÀ
HẬU SẢN

TÓM TẮT
Cơ sở: Thai kỳ được ghi nhận là một trong những nguy cơ quan trọng
của TBMMN.
Phương pháp: Nghiên cứu lâm sàng, cận lâm sàng các trường hợp
bệnh nhân nữ trong thời gian thai kỳ hoặc 6 tuần sau sinh bị tai biến mạch
máu não (TBMMN) nhập bệnh viện Chợ Rẫy và Từ Dũ, TP.HCM.
Kết quả: Có 36 trường hợp gồm 15 trường hợp nhồi máu não, 21
trường hợp xuất huyết nội sọ. Có 23 trường hợp khởi phát bệnh trong thời
gian hậu sản. Các yếu tố nguy cơ thường gặp là tuổi cao (69,44%), sinh
nhiều lần (58,33%), sinh mổ (47,83%), tăng huyết áp (47,22%), tiền sản giật
(33,33%).
Kết luận: TBMMN trong thai kỳ và hậu sản là biến chứng sản khoa
quan trọng cần được phòng ngừa tích cực.
SUMMARY
Background: pregnancy is one of the most important risks of the
stroke.
Method: We studied the clinical symptoms, signs, blood tests,
imaging and risk factors in patients admitted to the ChoRay Hospital and
TuDu Hospital, Ho Chi Minh city, with a diagnosis of stroke during
pregnancy or within 6 weeks postpartum.
Results: 36 patients with a diagnosis of stroke during pregnancy and
postpartum were identified, including 15 with cerebral infactions and 21
intracranial hamorrhages. There were 23 events occurred in the postpartum
period, 13 other events occurred in the pregnancy. The common risk factors
were older age (69,44%), multipara (58,33%), cesarean delivery (47,83%),
hypertension (47,22%), preeclampsia, eclampsia (33,33%).
Conclusion: stroke is an important complication of pregnancy, all


females with risk factors of stroke deserve immediate and special attention
to reduce their risk of strokes.
ĐẶT VẤN ĐỀ
* Bộ môn Thần Kinh – Trường ĐH Y Cần Thơ
** Bộ môn Thần Kinh – Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh

Tai biến mạch máu não (TBMMN) là một trong những nguyên nhân
gây ra tỉ lệ bệnh và tử vong cao trên thế giới 20. Thai kỳ được ghi nhận là
một trong những nguy cơ quan trọng của TBMMN. Thai kỳ là một quá trình
sinh lý luôn gây ra các biến đổi trong cơ thể người mẹ, các biến đổi này có
thể trong giới hạn sinh lý bình thường, hoặc quá mức, bất thường và trở
thành bệnh lý. Estrogen và một số Progesteron làm tăng đông máu, tăng kết
tập tiểu cầu, tăng huyết áp, ảnh hưởng đến lipid máu, dẫn đến thay đổi mạch
máu, gây ra bệnh cảnh đột quị 13 để lại hậu quả nặng nề cho mẹ và thai nhi.
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về TBMMN trong thai kỳ nhằm tìm ra
phương pháp tốt nhất cho việc chẩn đoán sớm bệnh, điều trị và phòng ngừa
bệnh hiệu quả. Theo thống kê của một số nghiên cứu trên thế giới qua nhiều
năm xác định tỉ lệ TBMMN trong thai kỳ là 3,8–26/100000 6,9,17,18,20. Tại
Việt Nam, tình hình nghiên cứu về TBMMN và thai kỳ còn rất ít. Trong hoàn
cảnh một nước đang phát triển, nước ta có số lượng sản phụ sinh nhiều lần cao,
số bệnh nhân tiền sản giật, sản giật vẫn còn tương đối phổ biến, các yếu tố này
góp phần làm tăng nguy cơ đột quị trong thai kỳ. Do đó, nghiên cứu này được
tiến hành nhằm tìm hiểu về các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, các yếu tố
nguy cơ của TBMMN trong thai kỳ và hậu sản, với hy vọng cung cấp những
thông tin hữu ích cho thực hành lâm sàng, qua đó giúp phần nào xác định
những người có nguy cơ cao để phòng ngừa, phát hiện bệnh sớm, giúp giảm
được tỉ lệ bệnh và tử vong cho mẹ và thai nhi hiện vẫn còn là gánh nặng trong
xã hội chúng ta.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu tiền cứu, mô tả hàng loạt trường hợp.
Đối tượng nghiên cứu
Những bệnh nhân (BN) nữ trong thời gian thai kỳ hoặc hậu sản (6 tuần
sau sinh) được chẩn đoán là TBMMN nhập khoa Nội Thần Kinh, Khoa Ngoại
Thần Kinh, Khoa Hồi sức cấp cứu - Bệnh viện Chợ Rẫy và Khoa Hồi sức cấp
cứu - Bệnh viện Phụ Sản Từ Dũ, TP Hồ Chí Minh từ ngày 01/01/2004 đến ngày
30/06/2005.
Thu thập dữ kiện
Tất cả BN trong nghiên cứu được tiến hành hỏi bệnh sử, khám lâm
sàng, khảo sát cận lâm sàng. Phân nhóm nghiên cứu theo thể loại TBMMN
gồm có: nhồi máu não (nhồi máu não do tắc động mạch và nhồi máu não do
tắc tĩnh mạch), xuất huyết nội sọ (xuất huyết não-não thất và xuất huyết dưới
nhện). Những yếu tố nguy cơ (YTNC) khảo sát là tuổi, tăng huyết áp (HA),
đái tháo đường (ĐTĐ), bệnh tim, rối loạn (RL) lipid máu, tiền sản giật
(TSG), sản giật (SG), tần suất sinh, phương pháp sinh, YTNC về lối sống và
một số YTNC khác.
Xử lý số liệu
Bằng phần mềm Stata 8.0 SE, với p < 0,05.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Có 36 trường hợp trên tổng số 183 BN nữ từ 15–45 tuổi bị TBMMN
nhập viện, tỉ lệ này là 19,67%. Trong đó có 15 trường hợp (41,67%) nhồi
máu não (gồm 11 trường hợp nhồi máu động mạch và 4 trường hợp nhồi
máu tĩnh mạch) và 21 trường hợp (58,33%) xuất huyết nội sọ (gồm 18
trường hợp xuất huyết não và 3 trường hợp xuất huyết dưới nhện). Tuổi
trung bình của nhóm nghiên cứu là 32,5 ± 6,67 tuổi, tuổi nhỏ nhất là 18 tuổi
và lớn nhất là 44 tuổi.
Thời điểm khởi phát
Có 23 trường hợp (63,89%) xảy ra trong giai đoạn hậu sản, còn lại 13
trường hợp (36,11%) xảy ra trong thai kỳ.
Đặc điểm lâm sàng

Đa số các trường hợp đều khởi phát với triệu chứng đau đầu
(88,89%), 100% BN XH nội sọ và 73,33% BN NMN có đau đầu, sự khác

×