Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ đạo đức TRONG SỰ NGHIỆP đổi MỚI HIỆN NAY ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (529.24 KB, 21 trang )

BỘ NỘI VỤ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

TÊN ĐỀ TÀI:
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG
SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY Ở VIỆT NAM

BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN

Học phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Mã phách:.............................................


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1.Lý do chọn đề tài. ....................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu. ................................................................................ 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu. ............................................................................... 2
4.Phương pháp nghiên cứu............................................................................ 2
5. Kết cấu của bài tập lớn. ............................................................................. 2
NỘI DUNG....................................................................................................... 3
1.NGUỒN GỐC VÀ NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẠO ĐỨC. ................................................................................................... 3
1.1. Nguồn gốc tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. ...................................... 3
1.2.Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời
đại mới . ..................................................................................................... 4
1.3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới. ........................................ 6
2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG
SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY . LIÊN HỆ BẢN THÂN .................................................................... 7


2.1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong sự nghiệp đổi
mới ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay ................................................. 7
2. 2. Liên hệ bản thân về việc vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
................................................................................................................. 16
KẾT LUẬN .................................................................................................... 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 19


MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài.
Trong di sản vô giá mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng ta, dân tộc ta,
Nhân dân ta, cho thế hệ hơm nay và mai sau có nhiều nội dung quan trọng, mang
giá trị lý luận và thực tiễn to lớn. Trong đó, có tư tưởng đạo đức và phong cách của
Người đã trở thành tâm điểm, góp phần quan trọng hợp thành tư tưởng cách mạng
sáng ngời của Hồ Chí Minh.
Tư tưởng của Người “đã tỏa ra một nền văn hóa của tương lai” và trở thành
biểu tượng của chủ nghĩa nhân đạo cách mạng.
Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa con người, cuộc đời và sự nghiệp. Bảy mươi
chín mùa xuân của Bác chúng ta tuy chưa thống kê hết được những công lao và cốt
cách của Người, nhưng những cái gì Bác để lại là hết sức vĩ đại và cảm phục. Chẳng
hạn, Bác đọc thông, viết thạo 29 ngoại ngữ. Đặc biệt, quảng thời gian cuối cùng,
đang nằm trên giường bệnh, Bác học ngoại ngữ thứ 29 (tiếng Tây Ban Nha). Cố
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đánh giá: “Hồ Chí Minh cao mà khơng sang, mới
mà không lạ, to lớn mà không làm ra vĩ đại, chói sáng mà khơng làm ai chống
ngợp, mới gặp lần đầu mà cảm thấy như thân thiết từ lâu”.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc
Việt Nam; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đạo đức cách mạng của
chủ nghĩa Mác - Lênin; là sự tiếp thu có chọn lọc và phát triển những tinh hoa văn
hóa, đạo đức của nhân loại, cả phương Đơng và phương Tây. Từ Hồ Chí Minh nền
đạo đức Việt Nam mang bản chất mới, được Hồ Chí Minh gọi là đạo đức mới - đạo

đức cách mạng. Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập một cách tồn diện với
các tầng lớp, trong mọi phạm vi, trong cả ba mối quan hệ của con người: Với mình,
với người, với việc. Tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt được mở rộng trong lĩnh vực
đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Tư
tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh ln là bộ phận quan trọng của nền tảng tinh thần

1


xã hội, là động lực, nguồn sức mạnh to lớn để nhân dân ta phát huy nội lực, vượt
qua thách thức, khó khăn để tiến lên.
Hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ phát triển, song sự nghiệp đổi mới
theo định hướng XHCN đang đứng trước những thời cơ và thách thức lớn đan xen
nhau. Vì thế, chúng ta cần phải nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh, học tập và làm
theo đạo đức, phong cách của Bác để nâng cao năng lực lãnh đạo, trọng trách và sức
chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, trong đó phải nâng cao
bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của Đảng để "Đảng ta là đạo đức, là văn
minh" như Bác đã nói. Nhất là trong giai đoạn đất nước ta cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, hội nhập, tồn cầu hóa... thì tư tưởng, đạo đức và phong cách của Hồ Chí Minh
thực sự là điểm tựa khơng thể thiếu. Chính vì vậy mà em đã chọn đề tài “ Vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong sự nghiệp đổi mới hiện nay ở Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu nội dung quan điểm của Hồ Chí Minh về các phẩm chất đạo đức của
con người Việt Nam trong thời đại mới; từ đó vận dụng vào sự nghiệp đổi mới của
Việt nam trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Làm rõ nguồn gốc hình thành, các phân tích liên quan, nội dung tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức; đánh giá thực trạng và vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
vào sự nghiệp đổi mới của đất nước.
4.Phương pháp nghiên cứu

Bài tập lớn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp sử dụng phương pháp lịch sử, lơ gích, hệ
thống cấu trúc…
5. Kết cấu của bài tập lớn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo thì bài tập lớn cịn 2 phần sau:
Phần 1: Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
Phần 2: Vận Dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong sự nghiệp đổi mới
hiện nay ở Việt Nam . Liên hệ bản thân

2


NỘI DUNG

1.NGUỒN GỐC VÀ NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC.
1.1. Nguồn gốc tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc
Việt Nam, đã được hình thành trong trường kỳ lịch sử, đồng thời kế thừa tư tưởng
đạo đức phương Đông, những tinh hoa đạo đức của nhân loại; đặc biệt quan trọng là
những tư tưởng đạo đức của Mác, Ăngghen, Lênin, cũng như những tấm gương đạo
đức trong sáng mà các ông đã để lại. Điều này đã được thể hiện trong những dòng
viết đầy xúc động của Người sau khi Lênin mất: Lênin là người "đã nêu cho chúng
ta một tấm gương sáng về sự giản dị vĩ đại và sự khiêm tốn cao độ". "Không phải
chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao
động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của
người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim
của họ hướng về Người, khơng có gì ngăn nổi" l . Đây khơng phải chỉ là tình cảm
của Hồ Chí Minh và dân tộc Việt Nam, mà cịn là tình cảm của tất cả các dân tộc
thuộc địa đối với Lênin vĩ đại.
Trong lĩnh vực đạo đức, Hồ Chí Minh đã sử dụng nhiều khái niệm, phạm trù của

các tư tưởng đạo đức đã có từ trước, nhất là đạo đức Nho giáo. Nếu từ đó lại cho
rằng bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minhlà đạo đức Nho giáo thì hồn tồn
sai lầm. Những khái niệm, phạm trù đánh dấu những bậc thang nhận thức của loài
người. Qua các thời đại lịch sử, những khái niệm, phạm trù đã trở thành tài sản
chung của nhân loại, nhưng nội dung đã cớ nhiều thay đổi. Những khái niệm
như trung, hiếu, nhân, nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính ... đã có trong Nho giáo từ mấy
trăm năm trước Cơng ngun; dân chủ, tự do. công bằng, bác ái đã xuất hiện từ thời
cổ đại Hy Lạp - La Mã. Nhưng trong hai thiên niên kỷ vừa qua, các giai cấp, các
dân tộc đã hiểu những khái niệm đó rất khác nhau, thậm chí có những điểm trái

3


ngược nhau. Điều đó là do những lợi ích khác nhau của các giai cấp, các dân tộc
khác nhau quy định.
Hồ Chí Minh sử đụng những khái niệm, những phạm trù đạo đức đã từng quen
thuộc với dân tộc Việt Nam từ lâu đời đưa vào đó những nội dung mới, đồng thời
bổ sung những khái niệm, những phạm. trù đạo đức của thời đại mới. Chính vì vậy
mà những giá trị đạo đức mới đã hòa nhập với những giá trị đạo đức truyền thống
của dân tộc, làm cho mỗi người Việt Nam đều cảm thấy gần gũi Hơn nữa, những
giá trị đạo đức truyền thống lại được nâng lên tầm cao mới, làm cho Người thực
hiện được việc kết hợp truyền thống với hiện đại. Việc tiếp thu những tinh hoa đạo
đức của nhân loại đã làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên phong phú, đã được
đơng đảo những người nước ngồi chấp nhận, tìm thấy một Việt Nam trong nhân
loại, cũng như nhân loại trong Việt Nam. Sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại,
giữa dân tộc và nhân loại cũng là một đặc trưng nổi bật của tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh.
Với tư duy độc lập và sáng tạo, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ thực tiễn việt Nam
thực hiện một cơng việc kế thừa có chọn lọc, thâu hóa những giá trị đạo đức của quá
khứ, đề xuất những tư tưởng, đạo đức mới, phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt

Nam trong thời đại mới.
1.2.Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại
mới .
a, Trung với nước hiếu với dân
Theo Người, trung là trung với nước, là trung thành với lợi ích của quốc gia, dân
tộc, với sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng, với sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa... Nước ở đây với ý nghĩa "Dân là
con nước, nước là mẹ chung", là nước của dân, của toàn dân tộc chứ khơng phải của
riêng ai và chính mỗi người dân là những "chủ nhân ông" của đất nước. Mối quan
hệ nước-dân, dân-nước mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, hòa quyện với nhau trong
một thể thống nhất về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi công dân với cộng đồng,
quốc gia, dân tộc. Về chữ hiếu, theo Hồ Chí Minh, là hiếu với dân. Hiếu với dân

4


khơng phải chỉ là hiếu với cha mẹ mình như người xưa vẫn nói, mà là hiếu với nhân
dân, với tồn dân tộc, vì "nước lấy dân làm gốc", dân là "gốc" của nước. Trung với
nước, hiếu với dân theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được thể hiện trong mọi
công việc cách mạng của Đảng, trong từng suy nghĩ, việc làm cụ thể của mỗi cán
bộ, đảng viên và mỗi người dân.
b, Cần, kiệm, Liêm Chính, chí cơng vơ tư
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư là nét đặc trưng của đạo đức theo quan
niệm của Hồ Chí Minh. “Cần” tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai.
“Kiệm” là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, khơng bừa bãi. “Liêm” là trong
sạch, khơng tham lam tiền của, địa vị, danh tiếng. “Chính” là khơng tà, là thằng
thắn, đứng đắn, điều gì khơng đứng đắn, thẳng thắn tức là tà. Người chỉ rõ: “Cần,
kiệm, liêm, chính” là nền tảng của đời sống mới, nền tảng của thi đua ái quốc.
Người coi “Cần, kiệm, liêm, chính” là bốn đức chủ yếu của một con người: “Cần,
kiệm, liêm, chính”, mỗi đức tính đều có nội dung riêng, nhưng chúng lại liên quan

mật thiết đến nhau và tạo thành một chỉnh thể, là thước đo văn minh tiến bộ của một
dân tộc. Chí cơng, vơ tư là khơng nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc,
vì đồng bào; là đặt lợi ích của cách mạng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Chí
cơng vơ tư có nghĩa là hết sức lo cho việc chung không màng tư lợi. Hết sức về sự
công bằng, đặt lợi ích của tập thể, của Đảng, của cách mạng, của nhân dân, của Tổ
quốc lên trên các lợi ích riêng tư. Thực hiện chí cơng, vơ tư cũng có nghĩa như thực
hiện đạo đức theo tinh thần của chủ nghĩa tập thể, là phải kiên quyết quét sạch chủ
nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. Như vậy có thể nói, “Cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng, vơ tư” là cái cần để “làm việc, làm người, làm cán bộ… phụng sự
Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”.
C, Thương yêu con người
Tư tưởng yêu thương con người được Hồ Chí Minh nêu lên và vận động mọi
người cùng thực hiện suốt cả cuộc đời. Người vẫn ân cần nhắc nhở toàn Đảng phải
tiếp tục chăm lo cho con người. Tình yêu thương con người của Hồ Chí Minh là rất
cụ thể, từ việc to như lo giải phóng cho con người đến việc chăm lo từng con người

5


cụ thể. Theo Hồ Chí Minh, yêu thương con người là phải sống với nhau có tình, có
nghĩa. u thương con người vận dụng vào trong Đảng, trong tổ chức là phải "có
tình đồng chí thương u lẫn nhau". Tình yêu thương con người đã trở thành nét
đẹp vĩnh hằng trong chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh.
c, Tinh thần quốc tế trong sáng
Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm chất, là yêu cầu đạo đức của mỗi người
Việt Nam trong mối quan hệ rộng lớn, vượt qua phạm vi quốc gia, dân tộc. Nội
dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở các điểm sau: Thứ
nhất, đó chính là tinh thần đồn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động
các nước trong cuộc đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột mà Hồ
Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân

mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc. Thứ hai, tinh thần quốc tế trong
sáng cịn là vì mục tiêu chung "Bốn phương vơ sản đều là anh em". Thứ ba, theo Hồ
Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước.
1.3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới.
Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh gồm có:
Nói đi đơi với làm, phải nêu gương đạo đức; Xây đi đôi với chống; Rèn luyện bền
bỉ suốt đời thông qua hoạt động thực tiễn cách mạng.

6


2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG SỰ
NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY . LIÊN
HỆ BẢN THÂN
2.1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong sự nghiệp đổi mới ở
Việt nam trong giai đoạn hiện nay
Thực trạng đạo đức của cán bộ, đảng viên và xã hội ta hiện nay
Trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây
dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nói tới đạo đức là xét trên ba mối
quan hệ chủ yếu: với mình, với người, với việc. Biểu hiện cụ thể của ba mối quan
hệ đó là sự hy sinh phấn đấu để thực hiện lý tưởng, mục tiêu, chấp hành kỷ luật và
đường lối chính sách của Đảng. Thực hành đạo đức cách mạng là hồ mình với
quần chúng thành một khối, tin tưởng quần chúng, hiểu quần chúng, thực hành đại
đoàn kết tồn dân. Đó chính là lịng nhân của người cách mạng. Đạo đức cách mạng
là phải đánh thắng và tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân, thực hành cần kiệm liêm chính...
Xét trên những lĩnh vực then chốt nhất của đạo đức, xã hội ta đã có những
chuyển biến quan trọng. Trong sự nghiệp đổi mới, cán bộ, đảng viên nhân dân ta đã
sáng suốt, kế thừa và phát huy trí tuệ của dân tộc và thời đại, tiêu biểu là chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để vận dụng một cách phù hợp vào điều kiện của
đất nước. Đây là nhân tố hàng đầu bảo đảm cho đời sống tinh thần - đạo đức của xã

hội phát triển đúng hướng.
Ý thức phấn dấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tinh thần trách nhiệm
của cán bộ, đảng viên được nâng lên một bước.
Nhiều nét mới trong giá trị văn hoá và chuẩn mực đạo đức từng bước được hình
thành và ăn sâu vào tâm lý quốc dân.
Tính năng động và tính tích cực cơng dân được phát huy, sở trường và năng lực
cá nhân được khuyến khích. Khơng khí dân chủ trong xã hội tăng lên.

7


Thế hệ trẻ tiếp thu nhanh những kiến thức mới, trung thành, dũng cảm, khiêm
tốn, có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đạo lý của dân tộc sống có tình có nghĩa, bầu ơi thương lấy bí cùng, lá lành đùm
lá rách... được tiếp tục nhân rộng. Những việc làm thiết thực hướng về cội nguồn,
về cách mạng và kháng chiến, tưởng nhớ các anh hùng dân tộc, quý trọng các danh
nhân văn hố, đền ơn đáp nghĩa những người có cơng, giúp đỡ đồng bào hoạn nạn...
trở thành phong trào quần chúng.
Bên cạnh những thành tựu, nổi lên những mặt yếu kém về nhận thức, tư tưởng,
chính trị dẫn tới phai nhạt lý tưởng và sa sút về lối sống, phẩm chất đạo đức. Hai
vấn đề này gắn bó với nhau.
Các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII trong thời gian
gần đây đã thẳng thắn chỉ ra sự suy thoái nghiêm trọng về đạo đức, lối sống ở một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức có quyền, cán
bộ trung, cao cấp. Nạn tham nhũng, dùng tiền của Nhà nước, tiêu xài phung phí, ăn
chơi sa đoạ chưa dược ngăn chặn có hiệu quả. Hiện tượng quan liêu, cửa quyền,
sách nhiễu nhân dân, kèn cựa địa vị, cục bộ địa phương, bè phái, mất đoàn kết khá
phổ biến. Riêng tham nhũng thì “chứng minh bao nhiêu cũng khơng đủ, càng nói
càng thấy đau xót”. Phải khẳng định rằng, bệnh đã nặng, cho nên phải chữa tận gốc,
chữa một cách cơ bản.

Về nguyên nhân, bên cạnh những nguyên nhân khách quan như sự phá hoại của
kẻ địch, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, những tiêu cực của cơ chế
thị trường, nước ta còn nghèo… thì phải nhấn mạnh tới những nguyên nhân chủ
quan.
Đảng ta chưa lường hết những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, thiếu
những biện pháp hữu hiệu cả “xây” và “chống” trên lĩnh vực đạo đức.
Việc xử lý những phần tử thoái hoá biến chất trong Đảng và bộ máy Nhà nước
chưa nghiêm. Tinh thần tự phê bình và phê bình sa sút ở nhiều cấp bộ Đảng.
Trong lãnh đạo và quản lý có những biểu hiện bng lỏng, né tránh, hữu
khuynh. ..

8


Học tập, rèn luyện theo tấm gương và tư tương đạo đức Hồ Chí Minh
Trước hết cán bộ, đảng viên, nhân dân phải nhận thức, quán triệt đầy đủ và rèn
luyện đạo đức theo những nguyên tắc đã được Hồ Chí Minh nêu lên.
Rèn luyện trong thực tiễn, nêu gương đạo đức, “người tốt việc tốt”, “xây” đi liền
với “chống”, tự phê bình và phê bình tạo ra phong trào thi đua rèn luyện đạo đức
mới là những biện pháp tốt để xây dựng đạo đức trong tình hình hiện nay.
Khơng thể chỉ giản đơn địi hỏi xây dựng đạo đức xã hội chủ nghĩa. Nhưng rõ
ràng chủ nghĩa xã hội muốn thành cơng cần có đạo đức. Khi đất nước bước vào thời
kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, việc học tập và thực hành theo tấm
gương và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Văn
kiện Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: Mở rộng trong Đảng và trong nhân dân phong trào
học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Mỗi cấp ủy, mỗi chi bộ có kế
hoạch định kỳ kiểm điểm việc thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng
cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân.
Quán triệt tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới, trước hết phải
thấm nhuần tư tưởng của Người về vai trò và các phẩm chất đạo đức. Điều quan

trọng nhất là mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu trong sinh hoạt và công tác,
không ngừng nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, nói đi đơi với làm, chấp hành nghiêm chỉnh
Cương lĩnh, Điều lệ, Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết
khắc phục sự suy thoái đạo đức cũng như những tiêu cực trong xã hội theo tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh, là một quá trình tạo ra những chuẩn giá trị đạo đức mới phù
hợp với tiến trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ cách mạng bao giờ cũng đặt ra những nhiệm vụ mới,
với những khó khăn, thử thách mới. Đội ngũ cách mạng một mặt càng được tôi
luyện và trưởng thành để giành những thắng lợi ngày càng to lớn hơn, mặt khác
cũng đào thải những kẻ hư là hỏng, thối hóa, biến chất đã làm tổn hại đến uy tín và
thanh danh của Đảng, đến lợi ích của đất nước, của dân. Tiến trình cách mạng Việt
Nam suốt mấy chục năm qua đã chứng minh điều đó.

9


Nếu trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm đã có nhiều khó khăn, thử thách thì
trong xây dựng hịa bình khơng phải chỉ có dễ dàng, thuận lợi. Đã nhiều lần, Hồ Chí
Minh nhấn mạnh: "Thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ; thắng bần cùng và
lạc hậu cịn khó hơn nhiều . Đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội là phải xây dựng
lại từ quan hệ sản xuất đến lực lượng sản xuất, từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc
thượng tầng, xây dựng kinh tế và phát triển văn hóa "nhằm làm cho nhân dân lao
động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có cơng ăn việc làm, được ấm no và
sống một đời hạnh phúc" . Đây là sự nghiệp rất to lớn, nặng nề và phức tạp, một
cuộc chiến đấu mới mà thắng lợi không thể giành được bằng những thời hạn ngắn.
Theo Hồ Chí Minh, cái khó khăn của cuộc chiến đấu mới khơng phải chỉ ở tầm
vóc và quy mơ của sự nghiệp xây dựng, mà cịn ở chỗ mỗi người phải khắc phục
những yếu kém của mình, chiến thắng "giặc ở trong lịng" mình, giặc nội xâm ở
ngay trong tổ chức của mình. Đó là loại giặc "vơ hình, vơ ảnh", nhưng rất mạnh. Nó
"ln ln lẩn lút trong mình ta", "khó thấy, khó biết". "Việc tranh đấu với kẻ địch

ở tiền tuyến bằng súng, bằng gươm còn dễ, nhưng việc tranh đấu với kẻ địch trong
người, trong nội bộ, trong tinh thần, là một khó khăn, đau xót" .
Tinh thần đó đã được Người nhấn mạnh trong bản Di chúc để lại cho Đảng, cho
dân: Sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và
giàu mạnh là "một cuộc chiến đấu khổng lồ" để "chống lại những gì đã cũ kỹ; hư
hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi".
C uộc chiến đấu khổng lồ ấy lại diễn ra trong những điều kiện mới với những
biến rộng rất to lớn của nước ta và của thế giới. Đường lối đổi mới được Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng xác định và được các Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII, VIII, IX phát triển là nhằm tìm ra mơ hình xây dựng chủ nghĩa xã
hội của nước ta, tìm ra con đường đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội với những
hình thức, biện pháp, bước đi thích hợp. Chúng ta chấp nhận kinh tế thị trường,
nhưng là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta chủ trương hội
nhập kinh tế thế giới, thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế, nhưng giữ vững độc lập tự chủ, giữ vững chủ quyền

10


và tòan vẹn lãnh thổ quốc gia, sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước, vì hịa bình,
độc lập và phát triển. Trong khi đó, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu
bị sụp đổ, phong trào xã hội chủ nghĩa, phong trào cách mạng thế giới lâm vào thoái
trào, cách mạng khoa học và cơng nghệ hiện đại và xu thế tồn cầu hóa vẫn đang bị
chủ nghĩa tư bản hiện đại chi phối. Đối với nước ta, có nhiều thời cơ và thách thức,
vận hội và nguy cơ đang đan xen nhau, đang tác động qua lại hết sức phức tạp.
Phải tranh thủ nắm bắt thời cơ, tận dụng vận hội, vượt qua mọi thử thách, đẩy lùi
mọi nguy cơ để đưa đất nước đi lên. Vì vậy, Đảng ta địi hỏi tồn Đảng, tồn dân
phải có một sự nỗ lực phi thường. Sự nỗ lực ấy trước hết tập trung vào việc nâng
cao hai mặt trí và đức của mỗi người, cũng như nâng cao mặt bằng trí thức của tồn
xã hội. Phải có cái trí ngang tầm thời đại và cái đức theo gương đạo đức Hồ Chí

Minh, chúng ta mới thực hiện ước thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta mới đi tới được
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nâng cao trí tuệ trong tình hình mới địi hỏi Đảng và nhân dân ta tiếp tục đổi mới
tư duy, như Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra. Phải hiểu cho
đúng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, biết vận dụng sáng tạo và
phát triển học thuyết và tư tưởng của các ông, đặc biệt là những vấn đề về chủ nghĩa
xã hội vào những điều kiện lịch sử cụ thể hiện nay. Phải hiểu cho đúng thực tiễn
Việt Nam và thế giới, những xu thế lớn của thời đại khi nhân loại bước vào thế kỷ
XXI, những kiến thức về khoa học - kỹ thuật, công nghệ hiện đại, và đặc biệt là về
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn rất mới mẻ đối với chúng ta. Từ
đó Đảng ta khơng ngừng hồn chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách xây dựng và
bảo vệ đất nước; cán bộ, đảng viên phải quán triệt và lãnh đạo nhân dân biến những
đường lối, chủ trương, chính sách ấy thành hiện thực.
Nâng cao đạo đức trong tình hình mới, địi hỏi Đảng và nhân dân ta qn triệt tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, ra sức bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức, vận dụng các
nguyên tắc xây dụng đạo đức mà Người đã nêu ra: Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
càng có ý nghĩa rất thời sự trong giai đoạn cách mạng hiện nay.

11


Thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã xác định xây dựng kinh tế là nhiệm vụ
trung tâm trong suất thời kỳ quá độ. Như vậy, đạo đức có quan hệ gì với kinh tế?
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức luôn luôn gắn vốn kinh tế. Trung với nước,
hiếu với dân, suốt đời hy sinh chất cách mạng để giành lấy độc lập và tự do là nhằm
xóa bỏ áp bức, bóc lột, phát triển kinh tế đem lại đời sống ấm noi hạnh phúc cho
nhân dân, cho mỗi con người.
Hồ Chí Minh động viên mọi người cần kiệm xây dựng đất nước chính là để dân
giàu, nước mạnh. Khơng lẽ thốt khỏi bóc lột về kinh tế, được no ấm và giàu có,

con người lại nhất thiết đi đến chỗ suy thoái về đạo đức, như tình hình đã diễn ra ở
nhiều nước tư bản phát triển. Tiếp nối quan điểm của Mác, Lênin về chủ nghĩa xã
hội, Hồ Chí Minh ln ln chủ trương tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát
triển mọi mặt của xã hội; phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, đạo
đức, con người, phát triển kinh tế là điều kiện thiết yếu, là cơ sở để xây dựng một xã
hội văn minh, để phát triển văn hóa, đạo đức con người. Con người có đạo đức, có
văn hóa lại là động lực để phát triển kinh tế. Tinh thần này đã được thể hiện trong
câu nói bất hủ của Hồ Chí Minh "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa" , đó là con người có đủ đức và tài, phẩm chất và
năng lực, và cả hai mặt đó đều khơng ngừng được bồi đắp, nâng cao. Đây cũng là
điểm khác biệt giữa chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa nền kinh tế ấy
hội nhập kinh tế thế giới và phổ biến là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, điều đó
đương nhiên đặt ra vấn đề phải vừa hợp tác vừa đấu tranh vì lợi ích của độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa vì hội. Tình hình đó càng đặt ra nhiều yêu cầu mới về đạo
đức rất gay gắt.
Kinh tế thị trường có mặt tích cực là kích thích mọi suy nghĩ, tìm tịi, sáng tạo.
Nó đòi hỏi con người phải năng động, nhạy bén trong mọi tình huống; phải có hiệu
quả trong mọi hoạt động; dám đối mặt với mọi thách thức, dám đương đầu với mọi
rủi ro. Nó khơng chấp nhận sự chậm chạp lề mề, xa lạ, với thói ỷ lại, dựa dẫm, lười

12


biếng. Nó hồn tồn đối lập với lối làm ăn "lãi giả lỗi thật", "của chùa" tha hồ
phung phí. hoang tàn.. .
Tuy nhiên, kinh tế thị trường lại có mặt tiêu cực lai tạo ra khát vọng làm giàu
bằng mọi cách, tâm lý chạy theo đồng tiền, lấy đồng tiền làm giá trị cao nhất. Nói
kích thích thói ích kỷ, tự tư tự lợi, đặt lợi ích của cá nhâm và gia đình lên trên lợi
ích của tập thể và xã hội. Nó dung dưỡng thói dối trá, gian giảo, lừa lọc, loi sống

hưởng lạc, sa đọa, lối sống gấp của xã hội tiêu thụ... Màu tiêu cực ấy không chỉ thể
hiện trong lĩnh vực kinh tế, mà còn tác động đến tất cả các mặt của đời sống xã hội.
Xây dựng nền đạo đức mới trong tình hình hiện nay địi hỏi chúng ta phải biết
khai thác mặt tích cực, đồng thời kiên quyết đấu tranh chống lại mặt tiêu cực của
kinh tế thị trường. Vừa hợp tác, vừa đấu tranh với bên ngoài vừa chấp nhận vừa đấu
tranh ở bên trong, đó là vấn đề mà nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đang đặt ra cho mọi hoạt động chính trị, kinh tế và đạm đức. Và chỉ có làm
như vậy, chúng ta mới xây dựng được nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đưa đất nước ta vững vàng quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Cuộc chiến đấu mới để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng đã tiếp tục bồi dưỡng,
nâng cao những phẩm chất đạo đức mới trong đông đảo cán bộ, đảng viên và các
tầng lớp nhân dân. Những tấm gương "người tốt việc tốt" vẫn xuất hiện hàng ngày ở
mọi lứa tuổi, ở khắp mọi nơi, nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau. Thể hiện tiêu
biểu nhất, tập trung nhất những phẩm chất đạo đức ấy và tấm gương của những anh
hùng chiến sĩ thi đua đã hội tụ trong Đại hội thi đua toàn quốc năm 2000, đã đem
tới nhiều bài học bổ ích để xây dựng nền đạo đức Việt Nam trong giai đoạn cách
mạng mới. Lý giải về những thành tựu trong đổi mới không thể tách rời vấn đề này.
Tuy nhiên, đời sống đạo đức của xã hội, bên cạnh mặt tốt đã xuất hiện mặt xấu
như những đám mây đen lan rộng dần trên bầu trời trong sáng. Càng lùi xa thời kỳ
chiến tranh khốc liệt, công cuộc xây dựng đất nước hịa bình, phát triển kinh tế,
nâng cao đời sống càng làm cho khơng ít người nghĩ tới hưởng thụ, nghĩ tới định
hướng cá nhân chủ nghĩa của bản thân và vợ con mình nhiều hơn là định hướng xã
hội chủ nghĩa của đất nước và dân tộc. Khi đi vào kinh tế thị trường, mặt tiêu cực

13


của kinh tế thị trường đã lan tỏa khá nhanh, gây nên nhiều tệ nạn trong đời sống xã
hội. Đảng ta đã nhiều lần chỉ ra những tệ nạn đó, đề ra nhiều chủ trương, biện pháp
nhằm chống những tệ nạn đó. Nhưng đến năm 1994, Hội nghị đại biểu tồn quốc

giữa nhiệm kỳ khố VII đã phải thừa nhận nạn tham nhũng và tệ quan liêu đã trở
thành một trong bốn nguy cơ lớn đe dọa sự nghiệp đổi mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 6 - 1996) lại vạch rõ:
"Nạn tham nhũng, bn lậu, lãng phí của cơng chưa ngăn chặn được" , "... còn
nhiều biểu hiện quan liêu, vi phạm nghiêm trọng quyền dân chủ của nhân dân...
Điều đáng lo ngại là khơng ít cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha
hóa về phẩm chất, đạo đức, sức chiến đấu của một bộ phận tổ chức cơ sở Đảng suy
yếu" ; "Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.... sa đọa về đạo đức và lối
sống".
Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII (tháng 21999) lại nhận định: Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, tình trạng tham nhũng, quan
liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm
trọng hơn.
Từ những nhận định trên của Trung ương, từ đời sống đạo đức của Đảng, Nhà
nước và xã hội, có thể rút ra một số điểm:
Một là, những tệ nạn tiêu cực xuất hiện trong những năm qua trong một bộ phận
khơng ít cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý là:Tham nhũng; Lãng
phí;Quan liêu;Tha hóa, sa đọa về đạo đức, lối sống; Chạy theo địa vị, danh lợi, tranh
giành kèn cựa lẫn nhau, mất đoàn kết nội bộ; Dối trá: nói dối, làm dối, báo cáo
khơng trung thực;Lười biếng: lười học, lười nghĩ, lười làm; Suy thoái về tư tưởng
chính trị, phai nhạt lý tưởng ích mạng.
Những tệ nạn ấy đã trở thành nguy cơ "tự diễn biến" từ trong, không thể coi
thường.
Nguyên nhân chủ yếu của những tệ nạn đó là do chủ nghĩa cá nhân phát triển.
Hai là, những tệ nạn đã được chỉ ra và đòi hỏi phải khắc phục, nhưng vẫn chưa
ngăn chặn và đẩy lùi được; ngược lại, lại có chiều hướng phát triển nghiêm trọng,

14


nhiều tệ nạn đã mang tính tập thể, thâm nhập vào cơ chế hoạt động của hệ thống

chính trị.
Nguyên nhân của tình hình này là do: Cán bộ, đảng viên chưa gương mẫu rèn
luyện về phẩm chất, đạo đức;Tự phê bình, phê bình và sửa chữa khuyết điểm chưa
nghiêm túc; Đấu tranh chống các tệ nạn chưa quyết liệt; nói mạnh làm nhẹ, mạnh
với tội nhỏ, nhẹ với tội to, nể nang ơ dù bao che cho nhau; Nói nhiều làm ít, nói
nhưng khơng làm, nói một đằng làm một nẻo.
Những tệ nạn ấy đã gây nên những bất bình trong nhân dân, làm giảm lòng tin
của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Chúng ảnh hưởng tiêu cực đến việc xây ông
đời sống đạo đức lành mạnh của nhân dân.
Trong các tầng lớp nhân dân đương nhiên khơng có vấn đề quan liêu, tham
nhũng như trong cán bộ, đảng viên, viên chức Nhà nước. Tuy nhiên, công cuộc xây
dựng kinh tế, nhất là khi đi vào kinh tế thị trường cũng đã làm xuất hiện nhiều tệ
nạn xã hội. Tình trạng suy thóai về đạo đức cơng dân là khá phổ biến: buôn gian
bán lận, làm hàng giả, trốn lậu thuế, móc ngoặc, hối lộ, muối chuộc cán bộ, ăn cắp
tài sản công dân, tài sản xã hội chặt nghĩa, vi phạm pháp luật, làm giàu khơng chính
đáng... đã và đang gây nên những tác hại nghiêm trọng trong đời sống xã hội.
Cuộc sống đang đòi hỏi phải làm trong sạch Đảng và làm lành mạnh đời sống
đạo đức của xã hội. Hai mặt đó phải tiến hành song song, phải làm đến nơi đến
chống phải giành được những hiệu quả thiết thực. Phải khắc phục các nguyên nhân
đẻ ra các tệ nạn tiêu cực; càng phải khắc phục nguyên nhân đã để cho các tệ nạn
tiêu cực phát triển. Trong cuộc đấu tranh này, phải lấy việc xây dựng Đảng làm
nhiệm vụ then chất, như đã được nêu ra trong nhiều nghị quyết của Đảng. Đẩy
mạnh cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng hiện nay chính là thực hiện nhiệm
vụ then chốt đó. Đó cũng là thực hiện những điều căn dặn mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã để lại trong Di chúc trước lúc đi xa.
Cuộc sống đang đòi hỏi phải xây dựng nền đạo đức Việt Nam ngang tầm với
những yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vẫn
soi sáng cho Đảng và nhân dân ta hoàn thành sự nghiệp vẻ vang đó.

15



2. 2. Liên hệ bản thân về việc vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Về ý thức tự rèn luyện, tu dưỡng đạo đức thường xuyên: Đối với một sinh viên
việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức thường xuyên là hết sức cần thiết. Nhận thức được
điều đó bản thân tôi luôn tự rèn luyện, trau dồi về phẩm chất đạo đức, biết kính trên
nhường dưới, cư xử đúng mực, hồ nhã với mọi người; phải ln lln kiên định
lập trường tư tưởng của Đảng . Liên hệ bản thân về đạo đức cách mạng và đồng
cảm và sẵn sàng giúp đỡ những người có hồn cảnh đặc biệt; không kiêu căng, tự
cao, tự đại trong mọi trường hợp. Đặc biệt không tham gia vào các tệ nạn xã hội.
Về chống chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, thực hiện ” Cần,
kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư” theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh:
– Kiên quyết chống bệnh lười biếng, lối sống hưởng thụ, vị kỷ, nói khơng đi đơi
với làm, nói nhiều, làm ít, miệng nói lời cao đạo nhưng tư tưởng, tình cảm và việc
làm thì mang nặng đầu óc cá nhân.
– Ln có ý thức giữ gìn đồn kết tồn dân, đoàn kết trong Đảng, trong cơ quan,
đơn vị; kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng trước mọi mưu đồ của các thế lực
thù địch, cơ hội hòng chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, chia rẽ
Đảng với nhân dân. Đoàn kết là yêu nước, chia rẽ là làm hại cho đất nước. Mọi biểu
hiện cục bộ, bản vị là trái với tinh thần yêu nước chân chính.
Về ý thức tổ chức kỷ luật, thực hiện tự phê bình và phê bình theo tấm gương Hồ
Chí Minh:
Bản thân tơi ln đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên
tắc, pháp luật, kỷ cương không kéo bè, kéo cánh để làm rối loạn kỷ cương, để cầu
danh, trục lợi hoặc chuyên quyền, độc đoán, đứng trên tập thể, đứng trên quần
chúng…, làm cho nhân dân bất bình, cần phải lên án và loại bỏ.
„Dù ở bất cứ cương vị nào phải gần gũi với mọi người, học tập và có trách nhiệm
với những người xung quanh.

16



Liên hệ bản thân về đạo đức cách mạng tức là: Ln có ý thức phải rất coi trọng
tự phê bình và phê bình. Bản thân tơi khơng sợ phê bình, khơng sợ khuyết điểm mà
chỉ sợ khơng nhận ra khuyết điểm dẫn đến những sai phạm nghiêm trọng hơn vì vậy
phải tự nghiêm khắc với chính mình và phê bình ln có mục đích xây dựng . Cần
phê phán những biểu hiện xuất phát từ những động cơ cá nhân, vụ lợi mà “đấu đá”,
nhân danh phê bình để đả kích, lơi kéo, chia rẽ, làm rối nội bộ.
Ln động viên những người thân trong gia đình và xã hội giữ gìn đạo đức lối
sống, xây dựng gia đình văn hoá.

17


KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng ta, nhân dân ta di sản vô cùng quý giá.
Đó là thời đại Hồ Chí Minh; là tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. “Dân
tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng
dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông
đất nước ta” .Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người mãi là biểu tượng
cách mạng, ngọn hải đăng dẫn đường cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, mãi là
tấm gương sáng ngời cho lớp lớp các thế hệ người Việt Nam tiếp nối, noi theo.
Không ngừng học tập, rèn luyện theo Người đã, đang và ln là tiêu chí, thước đo,
phương châm hành động và biện pháp công tác của các cán bộ, đảng viên, được coi
là động lực, cội nguồn sức mạnh để toàn Đảng nỗ lực vượt qua các khó khăn, thách
thức, đáp ứng yêu cầu cách mạng trong giai đoạn mới.

18



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh; Nxb. Chính trị quốc gia,H.2016
2.Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000
3.Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII,NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996..

.

19



×