Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tiểu luận những sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong “Cương lĩnh chính trị đầu tiên” và ý nghĩa thực tiễn của “Cương lĩnh chính trị đầu tiên” đối với Cách mạng Việt Nam từ năm 1930 cho đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.89 KB, 13 trang )

BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

BÀI THI MƠN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Hình thức thi: Tiểu luận
Thời gian thi: 3 ngày

ĐỀ SỐ 1:
“Những sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong “Cương lĩnh chính trị đầu
tiên” và ý nghĩa thực tiễn của “Cương lĩnh chính trị đầu tiên” đối với Cách
mạng Việt Nam từ năm 1930 cho đến nay”

Họ và tên: Phạm Bảo Ngọc


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

1

NỘI DUNG

2

PHẦN I: CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN

2

1. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930)
1.1. Hoàn cảnh ra đời
1.2. Nội dung



2
2
2

2. Những sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong “Cương lĩnh chính trị đầu
tiên”

4

PHẦN II: Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA “CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ
ĐẦU TIÊN” ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM TỪ NĂM 1930 CHO
ĐẾN NAY

7

1.Ý nghĩa thực tiễn của “Cương lĩnh chính trị đầu tiên” đối với Cách mạng
Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1975

7

2.Ý nghĩa thực tiễn của “Cương lĩnh chính trị đầu tiên” đối với Cách mạng
Việt Nam từ năm 1975 cho đến nay

8

KẾT LUẬN

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

11


1
13_LT3_Phạm Bảo Ngọc

LỜI MỞ ĐẦU
Học thuyết cách mạng, khoa học Marx-Lenin soi sáng sự nghiệp đấu tranh giải
phóng giai cấp cơng nhân, giải phóng các dân tộc, giải phóng con người thốt khỏi
áp bức, bóc lột, bất cơng để xây dựng một xã hội tốt đẹp vì con người, đó là chủ
nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm giải phóng dân tộc và giải phóng
giai cấp là hai cuộc giải phóng vĩ đại, quan hệ mật thiết với nhau như hai cánh chim.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nội dung hàng đầu trong tư tưởng
Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, vào mùa xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời cùng với Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, khẳng định sự lựa chọn con
đường cách mạng cho dân tộc Việt Nam - con đường cách mạng vô sản. Con đường
duy nhất đúng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam (2-1930) xác định rõ
mục tiêu: Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập và để đi tới xã hội cộng sản.
Con đường cách mạng vô sản mà Cương lĩnh đã khẳng định là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay. Dù 91 năm qua đi, tuy có nhiều điều
khơng cịn phù hợp với hiện tại, nhưng Cương lĩnh vẫn là ngọn cờ dẫn lối cho Cách
mạng Việt Nam, cho con đường cách mạng vô sản mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
và dân tộc ta đã lựa chọn.
Vì vậy, để thấy rõ hơn sự sáng tạo trong Cương lĩnh của Nguyễn Ái Quốc cũng
như những giá trị thực tiễn nó đem lại cho Cách mạng Việt Nam, tơi sẽ trình bày về
đề tài “Những sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong “Cương lĩnh chính trị đầu tiên”
và ý nghĩa thực tiễn của “Cương lĩnh chính trị đầu tiên” đối với Cách mạng Việt

Nam từ năm 1930 cho đến nay”.


2
13_LT3_Phạm Bảo Ngọc

NỘI DUNG
PHẦN I: CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN
1. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930)
1.1. Hoàn cảnh ra đời
Cuối năm 1929, những người Cách mạng Việt Nam trong các tổ chức Cộng sản
đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách thành lập một Đảng Cộng sản thống
nhất, chấm dứt sự chia rẽ trong phong trào Cộng sản ở Việt Nam.
6/1-7/2/1930 Hội nghị hợp nhất Đảng ở Hương Cảng, Trung Quốc do Nguyễn Ái
Quốc chủ trì. Trong các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông
qua tại Hội nghị thành lập Đảng, có hai văn kiện, đó là: Chánh cương vắn tắt của
Đảng và Sách lược vắn tắt của Đảng đã phản ánh về đường hướng phát triển và
những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Vì vậy,
hai văn kiện trên là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ảnh Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách lược vắn tắt của Đảng


3
13_LT3_Phạm Bảo Ngọc

1.2. Nội dung
Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt
Nam: Từ việc phân tích thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam-một xã hội
thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam trong đó có công nhân,

nông dân với đế quốc ngày càng gay gắt cần phải giải quyết, đi đến xác định
đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam “chủ trương làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy, mục tiêu
chiến lược được nêu ra trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã làm rõ nội dung của
cách mạng thuộc địa nằm trong phạm trù của cách mạng vô sản.
Xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”, “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc
lập”. Cương lĩnh đã xác định: Chống đế quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ
bản để giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong đó chống đế quốc,
giành độc lập cho dân tộc được đặt ở vị trí hàng đầu. Cương lĩnh xác định rõ:
Về phương diện xã hội: “a) Dân chúng được tự do tổ chức; b) Nam nữ bình
quyền,v.v…; c) Phổ thơng giáo dục theo cơng nơng hố”.
Về phương diện chính trị: “a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong
kiến; b) Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập; c) Dựng ra Chính phủ cơng
nơng binh; d) Tổ chức ra quân đội công nông.”
Về phương diện kinh tế: “a) Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; b) Thâu hết sản
nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa
Pháp để giao cho Chính phủ cơng nơng binh quản lý; c) Thâu hết ruộng đất của đế
quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; d) Bỏ sưu thuế cho dân cày
nghèo; e) Mở mang công nghiệp và nông nghiệp; f) Thi hành luật ngày làm tám
giờ.”
Những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam về phương diện xã hội, phương diện
chính trị và phương diện kinh tế nêu trên vừa phản ánh đúng tình hình kinh tế, chính
trị, xã hội, cần được giải quyết ở Việt Nam, vừa thể hiện tính cách mạng, tồn diện,
triệt để là xóa bỏ tận gốc ách thống trị, bóc lột hà khắc của ngoại bang, nhằm giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, đặc biệt là giải phóng cho hai
giai cấp công nhân và nông dân.


4

13_LT3_Phạm Bảo Ngọc

Xác định lực lượng cách mạng: phải đoàn kết công nhân, nông dân - đây là lực
lượng cơ bản, trong đó giai cấp cơng nhân lãnh đạo; đồng thời chủ trương đoàn kết
tất cả các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc và
tay sai. Do vậy, Đảng “phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình”, “phải
thu phục cho được đại bộ phận dân cày,… hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức,
trung nơng… để kéo họ đi vào phe vơ sản giai cấp. Cịn đối với bọn phú nông,
trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi
dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập”. Đây là cơ sở của tư tưởng chiến lược
đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các
tầng lớp nhân dân yêu nước và các tổ chức yêu nước,cách mạng, trên cơ sở đánh
giá đúng đắn thái độ các giai cấp phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam.
Xác định phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, Cương lĩnh
khẳng định phải bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng , trong bất cứ
hoàn cảnh nào cũng không được thoả hiệp “không khi nào nhượng một chút lợi ích
gì của cơng nơng mà đi vào đường thoả hiệp”. Có sách lược đấu tranh cách mạng
thích hợp để lơi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nơng về phía giai cấp vơ sản, nhưng
kiên quyết: “bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải
đánh đổ”.
Xác định tinh thần đồn kết quốc tế, Cương lĩnh chỉ rõ trong khi thực hiện
nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đồng thời tranh thủ sự đồn kết, ủng hộ của các dân
tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp. Cương lĩnh
nêu rõ cách mạng Việt Nam liên lạc mật thiết và là một bộ phận của cách mạng vô
sản thế giới: “trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng
thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế
giới”. Như vậy, ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu cao chủ
nghĩa quốc tế và mang bản chất quốc tế của giai cấp cơng nhân.
Xác định vai trị lãnh đạo của Đảng: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp
phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh

đạo được dân chúng”. “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn
của giai cấp cơng nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”.


5
13_LT3_Phạm Bảo Ngọc

2. Những sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong “Cương lĩnh chính trị đầu tiên”
Năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga thành công. Quốc tế cộng sản, bộ tham
mưu của giai cấp vô sản và các dân tộc áp bức tồn thế giới được thành lập. Từ đó
đánh dấu vai tò quan trọng của chủ nghĩa Marx-Lenin, chân lý cách mạng của thời
đại đã sớm được khẳng định trong nhận thức tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc. Từ đây,
người nhận diện được vai trò quan trọng của chủ nghĩa Marx-Lenin trong việc xây
dựng đường lối trong công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam, đó là cách mạng vơ
sản. Trên góc độ của người thuộc địa, dân tộc bị áp bức, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng cịn con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản”.
Lenin từng dạy: “Lý luận cách mạng khơng phải là giáo điều, nó là kim chỉ nam
cho hành động cách mạng, và lý luận khơng phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy
tính chất sáng tạo. Lý luận ln ln cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút
ra từ thực tiễn sinh động”. Vì vậy, việc vận dụng chủ nghĩa Marx-Lenin của Nguyễn
Ái Quốc khơng hề máy móc rập khn mà rất sáng tạo.
Về phương hướng: Điều kiện xã hội của Việt Nam lúc bấy giờ khác với xã hội
K.Marx và Lenin xây dựng chủ nghĩa của mình. Chủ nghĩa Marx-Lenin là kim chỉ
nam để giai cấp vô sản đứng lên giành chính quyền, chống lại giai cấp tư sản ngay
trong chính quốc gia của họ. Tuy nhiên trong bối cảnh bấy giờ, Việt Nam là một
nước nửa phong kiến thuộc địa. Con người Việt Nam bị ba tầng áp bức, bóc lột của
đế quốc, phong kiến và tư sản. Mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ tuy gay gắt,
nhưng mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và Thực dân Pháp cịn gay gắt hơn. Vì vậy
nếu áp dụng một cách rập khuôn chủ nghĩa Marx-Lenin, tức là giải quyết mâu thuẫn

giữa nông dân và địa chủ phong kiến, thì lực lượng đấu tranh khi này chỉ có những
người nơng dân nghèo khổ, dân trí thấp, trong khi địa chủ phong kiến đã mạnh nay
cịn mạnh hơn do có Pháp chống lưng. Còn nếu giải quyết mâu thuẫn lớn hơn, là
mẫu thuẫn mang tính dân tộc, lực lượng sẽ rất hùng mạnh, bao gồm tất cả con người
Việt Nam có tinh thần yêu nước, căm phẫn thực dân Pháp, mong muốn đánh đuổi
chúng để bảo vệ quyền lợi của mình. Đối với nơng dân, thời phong kiến họ bị áp
bức dẫn tới nghèo khổ, nhưng từ khi Pháp xâm lược dẫn tới bần cùng hóa. Những
bộ phận khác trước kia nằm ngồi vịng mâu thuẫn nhưng từ khi Pháp xâm lược,


6
13_LT3_Phạm Bảo Ngọc

quyền lợi của họ cũng bị ảnh hưởng. Vì vậy ngay trong Cương lĩnh 1930 đã khẳng
định: Làm tư sản dân quyền, cách mạng và thổ địa cách mạng rồi đi tới xã hội cộng
sản. Điều đó có nghĩa là đặt vấn đề dân tộc là vấn đề then chốt, sau khi làm xong tư
sản dân quyền cách mạng, đánh đổ thực dân Pháp xâm lược đem lại độc lập cho dân
tộc, tạo điều kiện cho làm thổ địa cách mạng. Tức là đánh đổ bọn phong kiến, địa
chủ đem lại ruộng đất cho dân cày. Sau đó đi lên chủ nghĩa xã hội, bước vào giai
đoạn đâu của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đây là điều hoàn toàn phù
hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam mà Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng một
cách sáng tạo lý luận về cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Marx-Lenin trong
việc đề ra đường lối cách mạng Việt Nam.
Về nhiệm vụ: Do xác định rõ phương hướng. Vì vậy, nhiệm vụ của Đảng Cộng
sản Việt Nam có sự khác biệt so với tư tưởng mà chủ nghĩa Marx-Lenin đã vạch ra.
Đối với vấn đề tịch thu tài sản, tài sản của tư bản đế quốc thì ắt hẳn phải tịch thu
hết. Nhưng đối với địa chủ, không phải địa chủ nào cũng tịch thu hết ruộng của họ,
vì vẫn cịn bộ phận địa chủ vừa và nhỏ có tinh thần dân tộc. Nếu ta tịch thu ruộng
đất của họ, họ sẽ căm phẫn, từ đó trở thành tay sai cho Pháp, gây gia tăng lực lượng
đối đầu.

Về lực lượng: Do khác về phương hướng chiến lược nên lực lượng mà Đảng ta
hướng đến cũng khác biệt với lực lượng trong chủ nghĩa Marx-Lenin. Do giải quyết
vấn đề dân tộc là then chốt, vì vậy lực lượng lúc này rất hung hậu. Tương tự như
chủ nghĩa Marx-Lenin thì bộ phận đơng đảo nhất là liên minh công-nông, bộ phận
bị áp bức nặng nề nhất trong xã hội, tinh thần đấu tranh mạnh mẽ nhất. Ngồi ra,
cịn có thêm cả tiểu tư sản, trí thức, trung nơng. Những bộ phận trung lập như tiểu
địa chủ và tư sản thì phải lơi kép họ vào lực lượng cách mạng. Lý do họ trung lập vì
cơ bản họ đã có tinh thần yêu nước, nhưng họ chưa thể ủng hộ cách mạng vì chưa
thấy được sự khả quan của cuộc cách mạng đó. Nếu ta thực hiện một số cuộc cách
mạng thành cơng thì sẽ gây dựng niềm tin, khiến bộ phận này nghiêng hẳn về phe
chống Pháp, giúp gia tăng lực lượng đáng kể. Tuy nhiên trong quá trình xây dựng
lực lượng thì phải đi theo con đường chính thống, khơng được dẫn tới nhượng bộ,
thỏa hiệp. Vì vậy có thể thấy rằng việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin
của Nguyễn Ái Quốc trong Cương lĩnh cơ bản đã giải quyết được vấn đề cấp thiết


7
13_LT3_Phạm Bảo Ngọc

lúc bấy giờ cho Việt Nam, đó khơng phải là mâu thuẫn giai cấp mà là mâu thuẫn
dân tộc. Việc đi theo phương hướng này không chỉ giúp gia tăng lực lượng mà cịn
xây dựng sự đồn kết toàn dân tộc, tạo tiền đề để giải quyết mâu thuẫn giai cấp.
PHẦN II: Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA “CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU
TIÊN” ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM TỪ NĂM 1930 CHO ĐẾN NAY
1.Ý nghĩa thực tiễn của “Cương lĩnh chính trị đầu tiên” đối với Cách mạng
Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1975
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi dưới sự lãnh đạo của một Đảng mới
15 tuổi, biến Đảng từ không hợp pháp thành một Đảng nắm chính quyền trong cả
nước. Dẫn tới thành công trong Cách mạng Tháng Tám, Đảng đã luôn quan tâm xây
dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức theo nguyên tắc của chủ nghĩa MarxLenin. Trong điều kiện hoạt động bí mật, bị địch khủng bố, truy lùng gắt gao, giam

cầm, chém giết, công tác xây dựng Đảng càng cấp thiết. Đường lối xây dựng Đảng
trên cả 3 mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó,
xây dựng Đảng về chính trị là cốt lõi, là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
Bản cương lĩnh chính trị thể hiện rõ ràng, nhất quán quan điểm cơ bản, tư tưởng
xuyên suốt của Đảng về mục tiêu chiến lược, phương hướng và phương pháp cách
mạng Việt Nam. Đường lối đó huy động được mọi nguồn lực, sức mạnh tổng hợp
của nhân dân trên cơ sở liên minh công nhân, nông dân và trí thức vì nhân dân làm
nên lịch sử. Những vấn đề chiến lược, sách lược cách mạng như: xác định đúng
quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến; vấn đề dân tộc và giai
cấp, đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp; vấn đề tập hợp lực lượng cách mạng;
các hình thức mặt trận dân tộc thống nhất; các hình thức đấu tranh, tiến trình cách
mạng luôn được Đảng nêu ra theo hướng từng bước hoàn chỉnh và đã phát triển đến
đỉnh cao trong Cách mạng Tháng Tám.
Đi theo cương lĩnh chính trị đầu tiên, dân tộc ta tiếp tục có những chiến thắng
vang dội, điển hình như chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 “ vang dội năm châu,
chấn động địa cầu” hay Mùa Xuân năm 1975 đã kết thúc với thắng lợi vĩ đại của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam. Kết thúc thắng lợi cuộc cách
mạng dân tộc trên phạm vi cả nước, mở ra kỉ nguyên mới cho dân tộc, kỷ nguyên


8
13_LT3_Phạm Bảo Ngọc

hịa bình, thống nhất, cùng chung nhiệm vụ chiến lược, cùng đi lên xã hội chủ
nghĩa.
Mặc dù có thời điểm đánh giá so sánh lực lượng giữa ta và địch chưa thật đầy đủ
và còn biểu hiện chủ quan, nóng vội, duy ý chí trong xây dựng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc nhưng với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, làm theo phương hướng phát
triển của cương lĩnh, với đường lối chính trị, quân sự ngoại giao, độc lập, tự chủ,
đúng đắn, sáng tạo; sự đoàn kết, hy sinh của đồng bào dân tộc, chúng ta đã hoàn

toàn thắng lợi trong cuộc kháng chiến chỗng Mỹ cứu nước, thống nhất đất nước đi
lên chủ nghĩa xã hội tiến hành công cuộc đổi mới.
Cương lĩnh xác định rõ nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản của cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân là chống đế quốc, chống phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và
người cày có ruộng. Xuất phát từ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, Cương lĩnh đã
phân tích mối quan hệ gắn bó giữa hai nhiệm vụ cơ bản là chống đế quốc và chống
phong kiến gắn bó chặt chẽ với nhau nhưng trước hết phải đánh đổ đế quốc, “làm
cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập”. Đây là cơ sở để giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội và giải phóng con người. Chỉ có độc lập tự do của đất nước mới đủ
điều kiện để thực hiện quyền con người, quyền công dân.
2.Ý nghĩa thực tiễn của “Cương lĩnh chính trị đầu tiên” đối với Cách mạng
Việt Nam từ năm 1975 cho đến nay
Chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc được xây dựng từ Cương lĩnh chính trị đầu
tiên là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt cách mạng Việt Nam trong cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân đến xây dựng đất nước theo định hướng XHCN hiện nay. Tư
tưởng này thể hiện rõ trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng về
các lực lượng cách mạng. Những lực lượng như tiểu tư sản, trí thức, trung, tiểu địa
chủ đều được Đảng chủ trương tập hợp, đồn kết lại trong lực lượng cách mạng do
cơng nơng làm nịng cốt.
Qua hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã xây dựng được nền kinh tế thị trường
định hướng lên XHCN tiếp tục phát triển. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tếxã hội (1996), khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực(1997-1998). Khắc phục hiệu
quả của khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế khu vực, đời sống nhân dân


9
13_LT3_Phạm Bảo Ngọc

ngày càng được nâng cao, an ninh, xã hội ổn định. Từ nước kém phát triển đi lên
nước đang phát triển, hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố
và tăng cường, vai trò và vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được

khằng định rõ ràng.
Chủ nghĩa yêu nước là nền tảng cơ sở cho sự thống nhất trong khác biệt nhằm tập
hợp lực lượng, tạo ra sức mạnh tổng hợp của một đất nước tiềm lực kinh tế, quân sự
không lớn, người không đông, lại phải đối mặt với các thế lực đế quốc đầu sỏ.
Năm 2018, khi tình hình Biển Đơng khơng bình n, chủ quyền biển, đảo đang bị
đe dọa, toàn Đảng toàn dân phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tranh thủ sức mạnh
quốc tế quyết liệt bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
Đến nay, dưới ánh sáng soi đường của Cương lĩnh Đảng ta đã dẫn dắt toàn dân
tộc vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi mục tiêu giải phóng dân
tộc, giải phóng xã hội và đang trên đường xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh,
công bằng, văn minh, dân chủ. Tuy nhiên,cơ sở hạ tầng, thiếu hụt nguồn nhân lực có
trình độ vẫn là trở ngại của phát triển kinh tế, khả năng áp dụng tiến bộ khoa học kĩ
thuật còn chậm làm giảm năng suất, ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu
quốc gia đặt ra.
Trong q trình lãnh đạo, tiến hành cơng cuộc đổi mới, hội nhập, trước bối cảnh
tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, Đảng cụ thể hóa Cương lĩnh chính
trị trong thời kỳ cách mạng mới, cho thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) và được bổ sung, phát triển năm 2011.
Cương lĩnh của Đảng (2011) khẳng định: “Cương lĩnh của Đảng là ngọn cờ chiến
đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam từng bước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, định hướng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước, của hệ thống
chính trị và nhân dân ta trong những thập kỷ tới. Thực hiện thắng lợi Cương lĩnh
này, nước nhà nhất định trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh
phúc”.


10
13_LT3_Phạm Bảo Ngọc

KẾT LUẬN

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thơng qua
tại Hội nghị thành lập Đảng đã khẳng định lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một
bản cương lĩnh chính trị phản ánh được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam,
đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế
của thời đại, định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách
mạng Việt Nam. Đường lối đó là kết quả của sự vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách đúng đắn, sáng tạo và có phát triển trong
điều kiện lịch sử mới. Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Cương lĩnh ấy rất phù hợp
với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta... Vì vậy, Đảng đã đoàn kết
được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Cịn các đảng
phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cơ lập. Do đó, quyền lãnh
đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân-không ngừng củng cố và tăng
cường”
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay đã khẳng định sự đúng đắn
của Cương lĩnh chính trị đầu tiên. Đi theo Cương lĩnh ấy, trong suốt 91 năm qua dân tộc Việt
Nam đã thay đổi cả vận mệnh của dân tộc, thay đổi cả thân phận của người dân và từng bước
khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Thực hiện đường lối chiến lược được
hoạch định trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Việt Nam từ một xứ thuộc địa nửa
phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ
nghĩa; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ
xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong
khu vực và trên thế giới.


11
13_LT3_Phạm Bảo Ngọc

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội, 1998, tập 2.
2. Theo Thông báo Kết luận của Bộ Chính trị số 31-TB/TW, ngày 1-6-2011, về một
số vấn đề trong bản thảo Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam tập I (1930-1954).
3. Hồ Chí Minh Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1991.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb
chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
6. Chánh cương vắn tắt của Đảng.
7. Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.
8. Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam.



×