Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG VÀ VẬN DỤNG VÀO VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ở NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.15 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
----------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG VÀ
VẬN DỤNG VÀO VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện

: Trần Thị Thu Hiền

Mã số sinh viên

: 1911110150

STT

: 34

Lớp: Anh 6, Khối 2 Kinh tế đối ngoại, Khóa 58
Lớp tín chỉ

: TRI114(20192).2

Giảng viên hướng dẫn

: TS. Đào Thị Trang

Hà Nội – 04/2020




MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................1
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÁI CHUNG, CÁI RIÊNG
TRONG QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN.................................2
1.1. Các khái niệm........................................................................................2
1.1.1. Cái chung........................................................................................2
1.1.2. Cái riêng..........................................................................................2
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung........................2
1.3. Sự tồn tại của cái chung và cái riêng...................................................4
1.4. Ý nghĩa phương pháp luận...................................................................4
CHƯƠNG II. Vận dụng mối quan hệ cái chung - cái riêng vào nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay....................6
2.1. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.............6
2.2. Sức thuyết phục của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa..............................................................................................................6
2.3. Những vấn đề lớn đặt ra trong việc phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam..................................................7
2.4. Một số giải pháp nhằm phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam...........................................................9
KẾT LUẬN........................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................14

2


CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
KTTT

XHCN
CNXH

Ý nghĩa
Kinh tế thị trường
Xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa xã hội

3


LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sản phẩm của thời
kỳ đổi mới, thay thế nền kinh tế kế hoạch bằng nền kinh tế hỗn hợp hoạt động
theo cơ chế thị trường. Đây là đường lối phát triển kinh tế đúng đắn của
Đảng, dựa trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tham khảo
kinh nghiệm phát triển của các quốc gia trên thế giới và cả thực tiễn phát triển
của đất nước.
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến Đại hội Đảng lần thứ XII, thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng được hoàn thiện và được
chứng minh tính đúng đắn trên thực tế khi đã giúp đất nước ta thốt khỏi thời
kỳ khó khăn về kinh tế, đạt tốc độ tăng trưởng có lúc thuộc nhóm cao nhất thế
giới. Từ nước nghèo, thu nhập thấp, Việt Nam đã gia nhập nhóm nước có thu
nhập trung bình, hội nhập ngày càng sâu rộng hơn với kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới của nền kinh tế Việt Nam để đạt tốc độ
tăng trưởng nhanh, bền vững, Đảng và Nhà nước đang nghiên cứu, xem xét
những vấn đề đặt ra để hoàn thiện hơn thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu đó, có thể nói triết
học Mác- Lênin, đặc biệt là cặp phạm trù triết học “cái chung - cái riêng”
đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong mọi hoạt động nhận thức về kinh tế thị

trường.
Do đặc điểm gần gũi với kiến thức trong nhà trường, cùng với mong
muốn thể hiện sự ủng hộ đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước,
góp phần làm rõ, củng cố lòng tin cũng như giúp mọi người quen thuộc hơn
với một nền kinh tế đã và đang được áp dụng ở Việt Nam, em lựa chọn vấn đề
“Biện chứng giữa cái chung và cái riêng và vận dụng vào việc xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” làm đề tài
nghiên cứu.
Tiểu luận bao gồm 2 nội dung chính như sau:
1


Chương I. Những vấn đề cơ bản về cái chung, cái riêng trong quan điểm
Triết học Mác – Lênin
Chương II. Vận dụng mối quan hệ cái chung - cái riêng vào nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÁI CHUNG, CÁI
RIÊNG TRONG QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
I.1. Các khái niệm
I.1.1. Cái chung
Cái chung là phạm trù chỉ những mặt, những thuộc tính khơng những có ở
một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện
tượng hay quá trình riêng lẻ khác trong thế giới khách quan.
Cái chung thường chứa đựng ở trong nó tính quy luật, sự lặp lại. Ví dụ như
quy luật cung - cầu, quy luật giá trị thặng dư là những đặc điểm chung mà mọi
nền kinh tế thị trường bắt buộc phải tuân theo.
I.1.2. Cái riêng
Cái riêng là phạm trù chỉ về một sự vật, một hiện tượng, một quá trình
riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan.
Cái riêng cịn có thể hiểu là một nhóm sự vật gia nhập vào một nhóm các

sự vật rộng hơn, phổ biến hơn. Sự tồn tại cá biệt của cái riêng cho thấy nó chứa
đựng trong bản thân những thuộc tính khơng lặp lại ở những cấu trúc sự vật
khác. Tính chất này được diễn đạt bằng khái niệm cái đơn nhất. Cái đơn nhất là
một phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính, những mặt chỉ có ở một sự
vật nhất định mà không lặp lại ở những sự vật khác.
Cần phân biệt “cái riêng” với cái “đơn nhất”. Mặt khác, giữa những cái
riêng có thể chuyển hóa qua lại với nhau, chứng tỏ giữa chúng có một số đặc
điểm chung nào đó. Những đặc điểm chung đó được triết học khái quát thành
khái niệm cái chung.

2


I.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung
Phép biện chứng duy vật của Triết học Mác - Lênin cho rằng cái riêng, cái
chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ,
mật thiết với nhau:
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại và biểu hiện thông qua cái riêng:
Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự
tồn tại của mình, khơng có cái chung thuần túy tồn tại bên ngoài cái riêng; cái
chung tồn tại thực sự, nhưng khơng tồn tại ngồi cái riêng mà phải thông qua
cái riêng.
Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung:
Không có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, khơng có liên hệ với cái
chung; sự vật, hiện tượng riêng nào cũng bao hàm cái chung.
Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ
phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng.
Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngồi những đặc điểm chung, cái
riêng cịn có cái đơn nhất. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản
ánh những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái

riêng cùng loại. Do vậy cái chung là cái gắn liền với cái bản chất, quy định
phương hướng tồn tại và phát triển của cái riêng.
Có thể khái quát một công thức như sau:
Cái riêng = cái chung + cái đơn nhất
Cơng thức trên có thể là khơng hoàn toàn đúng một cách tuyệt đối, nhưng
trong một chừng mực nào đó thì nó có thể nói được một cách chính xác quan
hệ bao trùm giữa cái chung và cái riêng.
Thứ ba, cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong q
trình phát triển của sự vật:
Cái đơn nhất là phạm trù để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính,...
chỉ có ở một sự vật, một kết cấu vật chất, mà không lặp lại ở sự vật, hiện
3


tượng, kết cấu vật chất khác. Trong hiện thực cái mới không bao giờ xuất hiện
đầy đủ ngay, mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất. Về sau theo quy
luật, cái mới hoàn thiện dần và thay thế cái cũ, trở thành cái chung, cái phổ
biến.
Ngược lại cái cũ lúc đầu là cái chung, cái phổ biến, nhưng về sau do không
phù hợp với điều kiện mới nên mất dần đi và trở thành cái đơn nhất. Như vậy
sự chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của quá trình cái
mới ra đời thay thế cái cũ. Ngược lại sự chuyển hóa từ cái chung thành cái đơn
nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định.
I.3. Sự tồn tại của cái chung và cái riêng
Triết học Mác-Lenin đặt ra và giải quyết câu hỏi: Cái riêng chỉ tồn tại
trong một khoảng thời gian có hạn, vậy thì cái chung có tồn tại vĩnh viễn, vơ
hạn trong thời gian không?
Cái riêng xuất hiện chỉ tồn tại được trong một khoảng thời gian nhất định
và khi nó mất đi sẽ không bao giờ xuất hiện lại, cái riêng là cái không lặp lại.
Cái chung tồn tại trong nhiều cái riêng, khi một cái riêng nào đó mất đi thì

những cái chung tồn tại ở cái riêng ấy sẽ không mất đi, mà nó vẫn cịn tồn tại ở
nhiều cái riêng khác.
I.4. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ việc phát hiện mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng, Triết
học Mác-Lenin nêu ra một số ý nghĩa phương pháp luận cho mối quan hệ này để
ứng dụng vào thực tiễn và tư duy, cụ thể là:
Chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ những sự
vật, hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của con
người bên ngoài cái riêng vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái
riêng để biểu thị sự tồn tại của mình.
Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng, nên nhận thức phải
nhằm tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để
cải tạo cái riêng. Trong hoạt động thực tiễn nếu không hiểu biết những nguyên
4


lý chung (không hiểu biết lý luận), sẽ không tránh khỏi rơi vào tình trạng hoạt
động một cách mị mẫm, mù quáng.
Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định "cái
đơn nhất" có thể biến thành "cái chung" và ngược lại "cái chung" có thể biến
thành "cái đơn nhất", nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo điều
kiện thuận lợi để "cái đơn nhất" có lợi cho con người trở thành "cái chung" và
"cái chung" bất lợi trở thành "cái đơn nhất".
Vậy mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng có thể vận dụng
vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay như thế nào?

5



CHƯƠNG II. Vận dụng mối quan hệ cái chung - cái riêng vào nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
II.1. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Thị trường là nơi diễn ra hoạt động mua bán hàng hóa, nơi cung gặp cầu.
Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm có
năng suất, chất lượng và hiệu quả cao; dư thừa và phong phú hàng hoá; dịch vụ
được mở rộng và coi như hàng hố thị trường; năng động, ln ln đổi mới mặt
hàng, cơng nghệ và thị trường. Đó là một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị
trường, với những đặc trưng cơ bản như: phát triển kinh tế hàng hoá, mở rộng
thị trường, tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự định giá cả, đa dạng hoá sở
hữu, phân phối do quan hệ cung- cầu,…
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi mà Đảng Cộng
sản Việt Nam đặt ra cho mô hình kinh tế hiện tại của nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Nó là một nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, trong đó
khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, với mục tiêu dài hạn là xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
II.2. Sức thuyết phục của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
Thực tế cho thấy hơn 30 năm vận hành của KTTT định hướng XHCN đã
tạo ra sự phát triển ngoạn mục của đất nước. Cơng cuộc Đổi mới nhanh chóng
đưa Việt Nam thốt khỏi khủng hoảng, duy trì tốc độ tăng trưởng vào hàng cao
trên thế giới.
Năm 1988, quy mô GDP chưa tới 5,5 tỉ USD, GDP đầu người chỉ đạt 86
USD; đến năm 2016, GDP đã đạt 205,32 tỉ USD, tăng hơn 37 lần, GDP đầu
người đạt 2.215 USD, tăng gần 27 lần so với năm 1988, rút ngắn đáng kể
khoảng cách thu nhập so với các nước trong khu vực.
Theo dữ liệu so sánh của Ngân hàng Thế giới (WB), năm 1990, GDP bình
quân đầu người của Thái Lan là 1.508 USD (tính trịn), con số tương ứng của
Việt Nam là 98 USD, khoảng cách chênh lệch tới 15,3 lần. Đến năm 2015, GDP
6



bình quân đầu người của Thái Lan lên 5.815 USD, con số tương ứng của Việt
Nam là 2.111 USD, khoảng cách rút ngắn còn 2,7 lần. Với Ấn Độ, năm 1990,
GDP bình quân đầu người cao gấp 3,8 lần so với Việt Nam (375 USD/98 USD),
đến năm 2015, Việt Nam đã vượt Ấn Độ (2.111 USD/1.593 USD).
Thành tựu ngoạn mục nhất là cơng cuộc xóa đói giảm nghèo: Năm 1993, tỷ
lệ hộ nghèo trong cả nước chiếm tới 58%, đến cuối năm 2016 đã giảm chỉ còn
8,38% (theo chuẩn nghèo mới). Theo dữ liệu so sánh của Ngân hàng phát triển
châu Á (ADB), tỷ lệ người nghèo so với dân số của Việt Nam năm 2015 ở mức
9,8%, thấp xa so với con số tương ứng của Philippines (25,2%), Ấn Độ (21,9%),
và thấp hơn cả Thái Lan (12,6%), Indonesia (11,3%).
II.3. Những vấn đề lớn đặt ra trong việc phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một sự nghiệp,
một quá trình chưa có tiền lệ nên có những vấn đề đặt ra trong điều kiện hiện
nay cần phải được tiếp tục xem xét, hoàn thiện:
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta
đang xây dựng là một nền kinh tế mang tính đặc thù, phù hợp với điều kiện
chính trị, kinh tế, văn hóa của đất nước và những giá trị XHCN mà chúng ta
đang phấn đấu. Thế nhưng, vấn đề cần xem xét là liệu chúng ta có thể nghiên
cứu để áp dụng nhiều hơn, đầy đủ hơn những quy luật, những giá trị chung của
thể chế kinh tế thị trường-một thành tựu của nhân loại vào nền kinh tế của chúng
ta, nhằm tạo thuận lợi sự phát triển vừa nhanh hơn, vừa bền vững hơn hay
khơng? Nếu thế thì cần phải có những điều kiện nào kèm theo?
Thứ hai, định hướng của Đảng và Nhà nước và thực tiễn vừa qua đã chứng
minh rằng, để phát triển nền kinh tế Việt Nam không thể chỉ dựa vào một thành
phần kinh tế nào, mà cần phải khơi dậy được mọi tiềm năng, mọi nguồn lực của
đất nước, với một khát vọng chung là xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường.
Để hiện thực hóa điều đó, cả nước đang phát động một tinh thần khởi nghiệp với

mục tiêu là tới năm 2020, Việt Nam sẽ có khoảng 1 triệu doanh nghiệp. Như
7


vậy, nòng cốt để phát triển kinh tế Việt Nam, là chỗ dựa bền vững cho kinh tế
đất nước, phải chăng là mọi thành phần kinh tế trong nước, bao gồm cả: Kinh tế
nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân? Như vậy, về định hướng vĩ mơ, liệu
chúng ta cần có sự thay đổi nào khơng để khơi dậy được mọi tiềm lực kinh tế
của đất nước, tạo ra một sân chơi thực sự công bằng, bình đẳng, trong thụ hưởng
chính sách, được tiếp cận các nguồn lực và việc tuân thủ luật pháp?
Thứ ba, với những biểu hiện lợi ích nhóm, biểu hiện của chủ nghĩa tư bản
thân hữu đang diễn ra trong nền kinh tế, cần phải có giải pháp gì để ngăn chặn,
để bảo đảm rằng những lợi ích từ phát triển kinh tế đất nước sẽ không bị một bộ
phận thiểu số trong xã hội chiếm dụng, mà sẽ được chia sẻ công bằng; bảo đảm
rằng sự phát triển của đất nước là sự phát triển có tính bao trùm chứ khơng quá
thiên lệch, tạo ra sự phân biệt về giàu nghèo quá lớn giữa các vùng miền, giữa
các thành phần, đối tượng trong xã hội.
Thứ tư, cần có chiến lược, cùng những giải pháp hữu hiệu như thế nào để
việc phát triển kinh tế của đất nước bảo đảm hài hòa hai yếu tố đó là: Phát triển
“nhanh” và “bền vững”. Đây là hai yêu cầu song hành. Bởi với một nền kinh tế
đang phát triển như Việt Nam nếu không có giải pháp để đạt một tốc độ phát
triển ở mức cao thì rất dễ bị tụt hậu, rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”. Thế
nhưng, việc phát triển nhanh về kinh tế phải bảo đảm yếu tố bền vững, đó khơng
phải là sự phát triển bằng mọi giá, đặc biệt không phải là việc hy sinh môi
trường sống để phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế đất nước khơng ngồi mục
đích nào khác là để bảo đảm cho mọi người dân có một cuộc sống sung túc,
hạnh phúc.
Động lực và triển vọng hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội đã, đang và sẽ
tiếp tục phụ thuộc vào những nhận thức và hành động thực tiễn mới, đầy đủ, sâu
sắc hơn về phát triển KTTT định hướng XHCN tại Việt Nam.


8


II.4. Một số giải pháp nhằm phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Trên cơ sở nguyên lý về mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung và những
vấn đề đặt ra, em xin đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển nền kinh tế thị
trường của Việt Nam như sau:
Thứ nhất, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần:
Thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ
quá độ là một trong những điều kiện cơ bản để thúc đẩy kinh tế hàng
hóa phát triển, nhờ đó mà sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của
mọi thành phần kinh tế.
Cùng với việc đổi mới, củng cố kinh tế nhà nước và kinh tế tập
thể, việc thừa nhận và khuyến khích các thành phần kinh tế cá thể, tư
nhân phát triển là nhận thức quan trọng về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong
thời kỳ quá độ. Tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, tuy
vị trí, quy mơ, tỷ trọng, trình độ có khác nhau nhưng tất cả đều là nội lực của
nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, mở rộng phân công lao động xã hội, tạo lập đồng bộ các yếu tố thị
trường:
Phân công lao động xã hội là cơ sở của việc trao đổi sản phẩm. Để
đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa, cần phải mở rộng phân công lao động xã
hội, phân bố lại lao động và dân cư trong phạm vi cả nước cũng như từng địa
phương, từng vùng theo hướng chun mơn hóa, hợp tác hố nhằm khai thác
mọi nguồn lực, phát triển nhiều ngành nghề, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất
– kỹ thuật hiện có và tạo việc làm cho người lao động. Cùng với mở
rộng phân công lao động xã hội trong nước, phải tiếp tục mở rộng quan
hệ kinh tế với nước ngoài nhằm gắn phân công lao động trong nước với

phân công lao động quốc tế, gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới.
Nhờ đó mà thị trường trong nước từng bước được mở rộng, tiềm năng về lao
động, tài nguyên, cơ sở vật chất hiện có được khai thác có hiệu quả.
9


Cần phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các
loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh: Phát triển thị trường
hàng hoá và dịch vụ; phát triển vững chắc thị trường tài chính bao gồm thị
trường vốn và thị trường tiền tệ theo hướng đồng bộ, có cơ cấu hồn chỉnh; phát
triển thị trường bất động sản bao gồm thị trường quyền sử dụng đất và bất động
sản gắn liền với đất; phát triển thị trường sức lao động trong mọi khu vực kinh
tế; phát triển thị trường khoa học và công nghệ… Điều này sẽ bảo đảm
cho việc phân bố và sử dụng các yếu tố đầu vào, đầu ra của quá trình sản xuất
phù hợp với nhu cầu của sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Thứ ba, đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và cơng nghệ,
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Trong kinh tế thị trường, các doanh nghiệp chỉ có thể đứng vững
trong cạnh tranh nếu thường xuyên đổi mới cơng nghệ để hạ chi phí,
nâng cao chất lượng sản phẩm. Muốn vậy, phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu
và ứng dụng các thành tựu mới của cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ vào
q trình sản xuất và lưu thơng hàng hóa. So với thế giới, trình độ cơng
nghệ sản xuất của Việt Nam cịn thấp kém, khơng đồng bộ, do đó, khả
năng cạnh tranh của hàng hóa nước ta so với hàng hóa nước ngồi trên
cả thị trường nội địa và thế giới còn kém. Bởi vậy, để phát triển kinh tế
hàng hóa, chúng ta phải đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hệ thống kết cấu hạ tầng cơ sở và dịch vụ hiện đại, đồng bộ cũng đóng vai
trị quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội. Hệ thống đó ở nước ta đã quá lạc
hậu, không đồng bộ, mất cân đối nghiêm trọng nên đã cản trở nhiều đến

quyết tâm của các nhà đầu tư cả ở trong nước lẫn nước ngồi, cản trở phát triển
kinh tế hàng hóa ở mọi miền đất nước. Vì thế, cần gấp rút xây dựng và củng cố
các yếu tố của hệ thống kết cấu đó. Trước mắt, Nhà nước cần tập trung ưu tiên
xây dựng, nâng cấp một số yếu tố thiết yếu nhất như đường sá, cầu cống, bến

10


cảng, sân bay, điện, nước, hệ thống thông tin liên lạc, ngân hàng, dịch vụ bảo
hiểm,…
Thứ tư, giữ vững ổn định chính trị, hồn thiện hệ thống luật pháp, đổi mới
các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả:
Sự ổn định chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng để phát triển. Nó là
điều kiện để các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và nước ngoài yên tâm đầu
tư. Giữ vững ổn định chính trị ở nước ta hiện nay là giữ vững vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, nâng cao vai trò hiệu lực quản lý của Nhà nước,
phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân.
Hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ rất quan trọng để quản lý nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần. Nó tạo nên hành lang pháp lý cho tất cả
mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế. Với hệ thống pháp luật đồng bộ và pháp chế nghiêm ngặt, các doanh
nghiệp chỉ có thể làm giàu trên cơ sở tuân thủ luật pháp.
Đổi mới chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả nhằm mục tiêu thúc
đẩy sản xuất phát triển; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, bảo
đảm quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, giảm bội chi ngân sách, góp
phần khống chế và kiểm sốt lạm phát; xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tích luỹ
và tiêu dùng.
Thứ năm, xây dựng và hoàn thiện hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô, đào tạo
đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi:
Hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô phải được kiện toàn phù hợp với nhu cầu

kinh tế thị trường, bao gồm: điều tiết bằng chiến lược và kế hoạch kinh tế, pháp
luật, chính sách và các địn bẩy kinh tế, hành chính, giáo dục, khuyến khích, hỗ
trợ và cả bằng răn đe, trừng phạt, ngăn ngừa, điều tiết thông qua bộ
máy nhà nước.
Mỗi cơ chế quản lý kinh tế có đội ngũ cán bộ quản lý, kinh tế (ở tầm vĩ mô
và vi mô) tương ứng. Chuyển sang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh sự
11


nghiệp đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ kinh doanh
cho phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế trong thời kỳ mới. Đội ngũ đó phải
có năng lực chun mơn giỏi, thích ứng mau lẹ với cơ chế thị trường,
dám chịu trách nhiệm, chấp nhận rủi ro và trung thành với con đường xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta đã chọn. Song song với đào tạo và đào tạo lại, cần
phải có phương hướng sử dụng, bồi dưỡng, đãi ngộ đúng đắn với đội ngũ đó,
nhằm kích thích hơn nữa việc khơng ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ,
bản lĩnh quản lý, tài năng kinh doanh của họ. Cơ cấu của đội ngũ cán
bộ cần phải được chú ý bảo đảm cả ở phạm vi vĩ mô lẫn vi mô, cả cán bộ
quản lý lẫn cán bộ kinh doanh.
Thứ sáu, thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Thực hiện có hiệu quả kinh tế đối ngoại, chúng ta phải đa dạng
hố hình thức, đa phương hố đối tác; phải qn triệt ngun tắc đơi bên
cùng có lợi, không can thiệp vào nội bộ của nhau và không phân biệt chế độ
chính trị – xã hội; cải cách cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, thu hút mạnh vốn và
đầu tư nước ngoài, thu hút kỹ thuật, nhân tài và kinh nghiệm quản lý của các
nước phát triển.
Những giải pháp nói trên tác động qua lại với nhau, sẽ tạo nên sức
mạnh thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa nước ta phát triển theo định hướng

xã hội chủ nghĩa.

12


KẾT LUẬN
Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam có mối liên hệ chặt chẽ với nền
kinh tế thế giới. Nước ta là nước XHCN cho nên tăng trưởng kinh tế gắn với
cơng bằng xã hội thì mơí thúc đẩy được KTTT phát triển. Khơng được nhìn
KTTT dưới một góc độ, một mặt mà phải xem nó trong mối liên hệ vời nhiều
yếu tố khác. Đất nước ta theo định hướng đã chọn của Đảng, của nhân dân là
xây dựng một nhà nước CNXH cho nên phải ổn định nền kinh tế để tiến đến
phát triển toàn diện nền kinh tế đất nước.
Nền KTTT được ứng dụng vào Việt Nam thì nó khơng hẳn mất đi nhũng
đặc tính của nó, mà nó chỉ bị biến đổi một cách phù hợp theo định hướng XHCN
mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Tức là giữa cái riêng và cái chung có sự biến
đổi, sự tác động và chuyển hoá lẫn nhau trong đó lấy cái riêng - định hướng
XHCN làm chủ đạo, chúng dần đan xen, thâm nhập, quy định và thống nhất để
rồi nó tạo thành cái mới phù hợp với hồn cảnh. Đó là nền KTTT Việt Nam, là
kết quả của mối quan hệ tương tác, sự kết hợp hài hoà của nền KTTT và nền
kinh tế định hướng XHCN nước nhà.
Giữa cái riêng và cái chung ln có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau.
Cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thông qua cái riêng để thể hiện sự tồn tại
của mình; cịn cái riêng tồn tại trong mối liên hệ dẫn đến cái chung. Với vai trò
là một “cái riêng”, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam cũng
tuân theo những quy luật chung mang tính bản chất của kinh tế thị trường, đồng
thời cũng chứa đựng những đặc điểm, bản sắc đặc trưng, vốn có, riêng của Việt
Nam cần được nghiên cứu và khai thác hiệu quả.
Hi vọng tiếp sau tiểu luận này, sẽ có những nghiên cứu chuyên sâu hơn vào
từng lĩnh vực, từng ngành kinh tế dựa trên mối liên hệ biện chứng giữa cái riêng

và cái chung, từ đó có thể đưa ra những giải pháp cụ thể, mang tính thực tiễn cao
hơn.

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2006, Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật
(2) Cẩm Nhung, 2017, Sức thuyết phục của kinh tế thị trường
định hướng XHCN, được lấy về từ:
ngày truy cập:
23/03/2020
(3) Nhiều tác giả, Báo điện tử Quân đội nhân dân, 2017, Kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa và những vấn đề đặt ra hiện nay, được lấy về từ:
/>
ngày

truy

cập:

23/03/2020
(4) Vũ Văn Hà, Tạp chí Cộng sản, 2019, Phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa - sự sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, được
lấy về từ: ngày truy cập: 23/03/2020

14




×