Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người và vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.51 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
---------***--------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI:
Quan điểm của triết học Mác – Lênin
về con người và vấn đề xây dựng nguồn lực con người
trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở nước ta hiện nay
Họ và tên: Trịnh Lê Việt Anh
Lớp: Anh 12 – KTKT – K59
MSSV: 2014815006
Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Tùng Lâm
Quảng Ninh, tháng 6 năm 2021


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................3
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CON NGƯỜI QUA QUAN ĐIỂM
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN................................................................4
1. Bản chất của con người.........................................................................4
1.1. Quan niệm về con người trong triết học phương Đông..............4
1.2. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây.................4
2. Quan điểm của triết học Mác-Lênin về bản chất con người.............5
2.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt
xã hội......................................................................................................5
2.2. Bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội...............6
2.3. Con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của lịch sử..............7
PHẦN II: VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG CÔNG NGHIỆP HĨA,
HIỆN ĐẠI HĨA ĐẤT NƯỚC......................................................................8


1.Tính tất yếu khách quan của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.............8
2. Hiện trạng và giải pháp cho nguồn lực con người ở nước ta hiện
nay...............................................................................................................9
TỔNG KẾT..................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................14

2


LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử phát triển của loài người là lịch sử phát triển của nền văn
minh, văn hóa. Con người là giá trị sản sinh ra mọi giá trị, và là thước đo của
mọi bậc thang giá trị. Con người không chỉ là chủ thể hoạt động của lịch sử
mà cịn đóng vai trị là chủ thể hoạt động sản xuất vật chất, yếu tố hàng đầu
quyết định trong lực lượng sản xuất. Chính vì vậy, con người ln đóng một
vai trị quan trọng dù trong bất cứ giai đoạn phát triển nào của thế giới.
Lý luận về vai trị của con người, chủ nghĩa Mác-Lênin đã có những
luận điểm khoa học, toàn diện và biện chứng. Những lý luận đó tạo tiền đề
vững chắc cho việc áp dụng vào xã hội thực tiễn những biện pháp giúp cải
thiện và phát triển con người.
Nhận thấy được tầm quan trọng của con người trong q trình cơng
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, tơi lựa chọn đề tài “Quan điểm của triết
học Mác-Lênin về con người và vấn đề xâydựng nguồn lực con người trong
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay” giúp ta có cái
nhìn rõ hơn về con người và vai trị của con người trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa - hiện đại hóa, từ đó góp phần xây dựng tầm nhìn chiến lược về
con người, nâng cao chất lượng người lao động và phát triển nền kinh tế của
đất nước.

3



PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CON NGƯỜI QUA
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
1.Bản chất của con người
1.1. Quan niệm về con người trong triết học phương Đông
Trong triết học Trung Hoa cổ đại, vấn đề bản tính con người được
quan tâm hàng đầu. Nho gia cho rằng bản tính con người là thiện, Pháp gia
cho rằng bản tính con người là bất thiện. Đạo gia nhấn mạnh bản tính tự
nhiên của con người. Từ sự khác nhau về quan niệm của các trường phái về
bản chất con người đã dẫn đến những quan điểm khác nhau về các vấn đề
chính trị, đạo đức, xã hội. Triết học Ấn Độ cổ đại cũng có nhiều quan niệm
khác nhau về bản chất con người. Phật giáo khẳng định bản tính vơ ngã
(khơng có cái tơi), vơ thường (ln thay đổi) và tính hướng thiện của con
người. Các trường phái khác đề cập nhiều tới con người tâm linh.
1.2. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây
Trong triết học phương Tây có hai khuynh hướng cơ bản là duy vật và
duy tâm trong quan niệm về con người. Các nhà duy vật từ cổ đại đã khẳng
định bản chất vật chất tự nhiên của con người, coi con người cũng như vạn
vật trong tự nhiên khơng có gì là thần bí. Tiêu biểu là quan niệm duy vật
theo tinh thần ngun tử luận của Đê-mơ-crít về con người. Ơng cho nguyên
tử là cơ sở để tạo nên thể xác và linh hồn con người. Đến thời kỳ phục hưng
và cận đại con người được đề cập một cách hiện thực hơn mặc dù cịn mang
tính cơ học. Các nhà duy tâm thì ngược lại, chú trọng hoạt động lý tính của
con người. Họ coi con người là sản phẩm của những lực lượng siêu tự nhiên.
Ví dụ, như quan niệm của Platôn ở Hy Lạp cổ đại; của Đê-các-tơ thời cận
đại; Hê-ghen trong triết học cổ điển Đức, v.v. Có thể nói, Phoiơbắc là nhà
duy vật lỗi lạc trước Mác có quan điểm duy vật, tiến bộ về con người.
Khơng phải ngẫu nhiên mà triết học của ông được gọi là triết học duy vật
nhân bản. Tuy nhiên, Phoiơbắc mới thấy con người có tính lồi, con người

sinh học, con người tự nhiên. Ông chưa thấy con người xã hội, con người
giai cấp, lịch sử. Ông lại sai khi cho tình yêu là yếu tố quyết định con
người.Các nhà triết học phương Tây hiện đại cũng chú ý khai thác nhiều

4


khía cạnh phi lý tính của con người như Phơrớt, triết học hiện sinh của
J.Sactơrơ, v.v.
Như vậy, nhìn chung triết học trước Mác về căn bản đã giải thích bản
chất con người trên lập trường duy tâm. Do đó, khơng giải thích được nguồn
gốc, bản chất thật sự tồn tại con nguời. Mặc dù vậy, nó vẫn đóng góp được
những thành tựu làm tiền đề cho khoa học nghiên cứu con người.

2. Quan điểm của triết học Mác-Lênin về bản chất con người
Kế thừa có phê phán và phát triển trên những quan niệm của các nhà
triết học trước đó cũng như tránh các sai lầm của họ, triết học Mác-Lênin có
những nghiên cứu và lý luận về con người một cách riêng và cụ thể hơn.
Điểm xuất phát để nghiên cứu về con người của triết học Mác-Lênin đó là
con người trong hoạt động thực tiễn, trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Triết
học Mác-Lênin đã đưa ra các quan niệm khoa học về con người như sau,
2.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã
hội.
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết
học, đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố
sinh học và yếu tố xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự nhiên.
Cũng do đó, bản tính tự nhiên của con người bao gồm tất cả bản tính sinh
học, tính lồi của nó. Yếu tố sinh học là điều kiện đầu tiên quyết định sự tồn
tại của con người. Vì vậy có thể nói, giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con

người”, con người là một bộ phận tự nhiên của con người, là kết quả của q
trình phát triển và tiến hóa lâu dài của môi trường tự nhiên.
Tuy vậy, mặt tự nhiên không phải yếu tố duy nhất quy định bản chất
con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người và thế giời loài
vật là phương diện xã hội. Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học
Mác nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong tồn bộ
tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật
chất: “Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tơn giáo,
nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự
5


tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người
quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người
đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình.”
Tính xã hội của con người thể hiện trong hoạt động sản xuất vật chất.
Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật
chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngơn
ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định
hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá
nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát
triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác
nhau nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy
luật về sự phù hợp cơ thể tự nhiên với môi trường, quy luật về sự trao đổi
chất,...Quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật
tâm lý ý thức hình thành và phát triển trên nền tảng sinh học của con người
như hình thành tình cảm, ý chí, hy vọng. Hệ thống quy luật xã hội quy định
mối quan hệ giữa người và người.

Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn
chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối
quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học
và nhu cầu xã hội trong đời sống con người.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ
giữa mặt sinh học với mặt tự nhiên là một thể thống nhất. Mặt sinh học là cơ
sở tất yếu tự nhiên của con người, mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân
biệt con người vói lồi vật. Hai mặt trên thống nhất, hòa quyện với nhau tạo
thành con người.
2.2. Bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội.
C.Mác đã xuất phát từ những cá nhân hiện thực cùng với những hoạt
động và những điều kiện sinh hoạt vật chất hiện thực của họ. Những điều
kiện mà họ thấy có sẵn trong tự nhiên cũng như những điều kiện do chính họ
tạo ra. Như vậy, theo C.Mác con người là một động vật có tính chất xã hội
6


với tất cả các nội dung văn hóa, lịch sử của nó. Đây là điểm xuất phát để
nghiên cứu con người của triết học Mác-Lênin.
Như vậy, bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện
thực, không phải là tự nhiên mà là lịch sử, không phải là cái vốn có trong
mỗi cá thể riêng lẻ mà là tổng hịa của tồn bộ quan hệ xã hội. Rõ ràng, con
người là con người hiện thực, sống trong những điều kiện lịch sử cụ thể,
trong một thời đại xác định. Thông qua các quan hệ xã hội con người bộc lộ
bản chất xã hội của mình.
Thừa nhận ý nghĩa quyết định của mặt xã hội đối với việc hình thành
bản chất con người, song khơng có nghĩa là triết học Mác-Lênin coi nhẹ mặt
tự nhiên, phủ nhận cái sinh vật trong yếu tố cấu thành bản chất con người. Ở
đây, con người với tư cách là sản phẩm của tự nhiên, mặt khác con người là
một thực thể xã hội. Sự tác động qua lại giữa mặt sinh vật và mặt xã hội

trong con người tạo thành bản chất con người.
2.3. Con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của lịch sử
Khơng có tự nhiên, khơng có lịch sử - xã hội thì khơng thể có con
người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài
của giới hữu sinh, nhưng con người luôn là chủ thể lịch sử - xã hội. C.Mác
đã khẳng định: “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản
phầm của những hoàn cảnh và của giáo dục…cái học thuyết ấy quên rằng
chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản than nhà giáo dục
cũng cần phải được giáo dục”. Con người chủ thể lịch sử-xã hội thể hiện ở
chỗ:
Với tư cách là thực thể xã hội, các cá nhân con người chủ động lựa
chọn sự tác động của xã hội đối với mình, khơng chịu khuất phục trước mơi
trường, điều kiện khách quan, mà chủ động tác động, cải tạo điều kiện khách
quan, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo ý mình. Từ đó, con người vơ tình
đã thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và tiêu
chuẩn do con người đặt ra, đồng thời cũng chính là lồi đã sáng tạo ra lịch
sử.

7


PHẦN II: VẤN ĐỀCON NGƯỜI TRONG CƠNG
NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA ĐẤT NƯỚC
1.Tính tất yếu khách quan của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là xu hướng phát triển của các nước
trên thế giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên
mục tiêu “Xã hội công bằng văn minh, dân giàu nước mạnh”. Cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà chính là q
trình biến đổi cách mạng sâu sắc với lĩnh vực đời sống xã hội, làm cho xã
hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Sự thành cơng của q trình

cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa địi hỏi ngồi mơi trường chính trị ổn định
phải có nguồn lực cần thiết như nguồn lực con người, vốn tài nguyên thiên
nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật. Trong đó nguồn nhân lực chính là động lực
phát triển. Nguồn nhân lực phát triển thì tất yếu cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa phải tiến hành để đáp ứng nhu cầu đó.
Nói đến nguồn nhân lực tức là nói đến chủ thể tham gia vào q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên nó khơng phải là chủ thể biệt lập
riêng rẽ, mà là chỉ thể được tổ chức thành lực lượng thống nhất về tư tưởng
hành động. Nói cách khác cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là tổng hợp những
chủ thể với những phẩm chất nhất định tham gia vào q trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Nhưng cần phải hiểu rằng tổng hợp những chủ thể này
không phải là tập hợp giản đơn số lượng người mà nó là sức mạnh tổng hợp
của chỉnh thể người trong hành động. Sức mạnh này bắt nguồn trước hết là
những phẩm chất vốn có bên trong của mỗi chủ thể và nó được nhân lên gấp
đôi trong hoạt động thực tiễn. Động lực cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là
những gì thúc đẩy quá trình vận động và phát triển.
Mặt khác, để xem xét vai trò nguồn lực của con người, cần đặt nó
trong quan hệ so sánh với cái nguồn lực khác và ở mức độ chi phối của nó
đến sự thành bại của công cuộc đổi mới đất nước. Khi cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật và công nghiệp hiện đại phát triển mạnh mẽ, lao động trí tuệ
ngày càng gia tăng và trở thành xu thế phổ biến của nhân loại. Khi cơng
nghiệp hóa gắn liền vói hiện đại hóa mà thực chất là hiện đại hóa lực lượng

8


sản xuất với cách tiếp cận như vậy vai trò quyết định nguồn lực của con
người được biểu hiện như sau:
Thứ nhất, con người là yếu tố quan trọng nhất vì con người là nguồn
lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ ý chí biết lợi dụng các nguồn lực khác gắn

kết chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp, tác động vào q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ hai, nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ là nguồn lực vơ tận.
Tính vơ tận, trí tuệ con người biểu hiện ở chỗ nó có khả năng khơng chỉ tái
sinh mà cịn tự sản sinh về mặt sinh học. Nó cũng đổi mới khơng ngừng,
phát triển về chất trong con người, nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác
hợp lý.
Thứ ba, trí tuệ con người có sức mạnh vơ cùng to lớn một khi nó được
vật thể hóa, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Thứ tư, kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho
thấy sự thành cơng của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa phụ thuộc chủ yếu vào
hoạch định đường lối chính sách cũng như tổ chức thực hiện, nghĩa là phụ
thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Việc thực hiện và hồn thành tốt cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
có ý nghĩa đặc biệt to lớn và có tác dụng hồn thiện nhiều mặt đối với đất
nước ta.
2. Hiện trạng và giải pháp cho nguồn lực con người ở nước ta hiện nay
Để thực hiện thành công q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, chúng ta phải sử dụng đúng nguồn lực, trong đó nguồn lực con người
là nguồn lực quan trọng nhất. Muốn sử dụng tốt nguồn lực này chúng ta phải
hiểu rõ thực trạng và tiềm năng của nó. Khi đó chúng ta mới có thể khắc
phục và phát triển nguồn nhân lực được.
Ở những nước đang phát triển như Việt Nam, lợi thế của chúng ta là
có nguồn lao động dồi dào. Được đánh giá là đất nước có nguồn lao động
đơng, giá rẻ và rất tiềm năng. Tuynhiên, nguồn lao động nông nghiệp - nông
thôn lại chiếm tỉ trọng lớn và trình độ chun mơn, tay nghề cịn thấp so với
mặt bằng chung của thế giới. Chính vì vậy chưa đáp ứng được nhu cầu của
9



các doanh nghiệp trong nước và đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài.
Điều này là do lao động ở Việt Nam không được đào tạo bài bản, chuyên
sâu, thiếu nhiều kĩ năng.
Trong thời gian gần đây, mặc dù lực lượng lao động tăng cả về số
lượng và trình độ chun mơn, song vẫn cịn nhiều vấn đề đặt ra đối với lực
lượng lao động Việt Nam hiện nay. Thứ nhất, lao động phân bổ không đều,
nhiều hạn chế trong việc dịch chuyển lao động dẫn tới hậu quả là nguồn
cung lao động khơng có khả năng đáp ứng nhu cầu của các vùng, các khu
công nghiệp. Thứ hai, dù chất lượng lao động chưa đáp ứng được như cầu
phát triển. Nguồn cung lao động ở Việt Nam hiện nay ln xảy ra tình trạng
thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao, lao động một số ngành
dịch vụ (ngân hàng, tài chính, thơng tin viễn thơng, du lịch…) và công
nghiệp mới. Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề còn thấp, kỹ năng, tay nghề,
thể lực và tác phong lao động cơng nghiệp cịn yếu nên khả năng cạnh tranh
thấp. Tình trạng thể lực của lao động Việt Nam ở mức trung bình kém, cả về
chiều cao, cân nặng cũng như sức bền, sự dẻo dai, chưa đáp ứng được cường
độ làm việc và những yêu cầu trong sử dụng máy móc thiết bị theo tiêu
chuẩn quốc tế. Kỷ luật lao động của người Việt Nam nói chung chưa đáp
ứng được yêu cầu đặt ra của quá trình sản xuất công nghiệp. Một bộ phận
lớn người lao động chưa được tập huấn về kỷ luật lao động công nghiệp.
Phần lớn lao động xuất thân từ nông thôn, nông nghiệp, mang nặng tác
phong sản xuất của một nền nông nghiệp tiểu nông, tùy tiện về giờ giấc và
hành vi. Người lao động chưa được trang bị các kiến thức và kỹ năng làm
việc theo nhóm, khơng có khả năng hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát
huy sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc.
Để tạo ra sự thay đổi căn bản về chất lượng trong nguồn lực con
người cần có hàng loạt những giải pháp thích ứng nhằm phát triển tốt yếu tố
của con người trong sự nghiệp đi lên của đất nước. Đó cũng là lý do đại hội
VIII của Đảng ta là đại hội cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa mở ra bước ngoặt
lịch sử đưa nước ta tiến lên một thời kỳ phát triển toàn diện “Lấy việc phát

huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững”. Vì vậy cần tập trung và chăm sóc, bồi dưỡng, đào tạo, phát huy sức
mạnh con người Việt Nam thành lực lượng lao động xã hội, lực lượng sản
xuất có đủ bản lĩnh và kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển đất
10


nước, đủ sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc hợp tác cạnh tranh trong kinh tế thị
trường mở cửa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nói đền nguồn lực con người là nói đến sức mạnh trí tuệ tay nghề.
Phương hướng chủ yếu của đổi mới giáo dục - đào tạo là phục vụ đắc lực
cho công cuộc phát triển đất nước, tức là cuối cùng phải tạo ra được nguồn
lực con người. Các trường chuyên nghiệp và đại học tập trung vào đào tạo
nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến như báo cáo chính
trị đại hội VIII đã chỉ ra. Phải mau chóng làm cho khoa học và cơng nghệ trở
thành nền tảng của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Giáo dục đại học phải kết
hợp với nghiên cứu khoa học, phát triển khoa học cả về cơ bản và ứng dụng.
Bảo đảm tập trung đào tạo đội ngũ nhân lực cho cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa với diện đại trà, đồng thời đặc biệt chú ý tới mũi nhọn - có chính sách
phát hiện bồi dưỡng và sử dụng người tài. Giáo dục kết hợp chặt chẽ với
khoa học kỹ thuật cơng nghệ mới có thể đóng góp xứng đáng và phát huy
nguồn lực con người. Tuy nhiên một yếu tố mà ngày nay con người cần phải
hoàn thiện thêm đó là coi trọng mặt đạo đức nhân cách của nguồn lực con
người.
Muốn có nguồn lực con người đáp ứng được công cuộc đổi mới giáo
dục, nhà trường cùng với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội phải làm tốt
việc phát động một cao trào học tập trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
nhằm đào tạo nên những con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về
thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức. Đó là động lực của
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời cũng là mục tiêu của chủ

nghĩa xã hội. Vậy mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước cần
phải quán triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát triển nhân tố con người.
Tuy nhiên, nhân tố con người chỉ được khai thác và phát huy tối đa
khi con người thật sự làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ chính
mình. Để phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo của con người trong mọi
hoạt động, bên cạnh việc nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo thì cần
cũng phải xây dựng và thực hiện một cơ chế dân chủ, quan tâm đến dân chủ
trực tiếp nhằm thực hiện hoá những giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa trong
đời sống xã hội. Việc phát huy dân chủ tạo ra cơ hội thuận lợi cho tất cả mọi
người có thể cống hiến năng lực của mình cho xã hội, tạo điều kiện thực
11


hiện cơ chế phản biện xã hội với tinh thần lành mạnh, xây dựng và phát huy
trách nhiệm công dân. Lấy dân chủ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước làm
nòng cốt để thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, tăng cường dân chủ nhằm
giải phóng mọi năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân, góp phần ổn
định chính trị - xã hội, tạo điều kiện cho sự nghiệp đổi mới và phát triển đất
nước.

12


TỔNG KẾT
Chủ nghĩa xã hội là do con người, vì con người. Chính bởi lẽ đó hình
thành mối quan hệ đúng đắn về con người về vai trò của con người trong sự
phát triển xã hội nói chung, xã hội chủ nghĩa nói riêng là một vấn đề khơng
thể thiếu được. Con người là khái niệm chỉ những cá thể người như một
chỉnh thể, trong sự thống nhất giữa hai mặt sinh học và mặt xã hội của nó,
bản chất con người Mác viết “Con người là tổng hòa của những quan hệ xã

hội.
Con người là chủ thể lịch sử, sáng tạo nên lịch sử. Trong cách mạng
xã hội chủ nghĩa, con người là yếu tố quyết định vừa là điểm xuất phát vừa
là mục tiêu của chính sách kinh tế - xã hội.
Đối với nguồn lao động hiện nay ở Việt Nam, nhìn chung bên cạnh
những lợi thế thì vẫn còn tồn tại những hạn chế cần được cải thiện như trình
độ, kỹ năng của người lao động. Chính vì vậy dẫn đến nền kinh tế của Việt
Nam tuy có phát triển nhưng vẫn cịn chậm.
Suy cho cùng, con người chính là yếu tố có ý nghĩa quyết định hàng
đầu tới sự phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước. Việt Nam cần phải
đầu tư nhiều hơn trong việc phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, giáo
dục tồn diện để có nguồn nhân lực đủ năng lực để thực hiện cơng cuộc
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tiến dần đến nền kinh tế tri thức.
Chỉ khi một quốc gia đào tạo được đội ngũ lao động chuyên nghiệp, khi đó
nền kinh tế mói có thể phát triển một cách nhanh chóng.

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình triết học Mác-Lênin – NXB Chính trị quốc gia (tập I, tập II).
2.Giáo trình kinh tế chính trị học – NXB Giáo dục, 1996.
3.Vấn đề con người trong sự nghiệp CNH, HĐH – Phạm Minh Hạc, NXB
Chính trị quốc gia 1996.
4.Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam – lý luận và thực tiễn – Nguyễn
Trọng Chuẩn, NXB Chính trị quốc gia.
5.Chiến lược huy động vốn và nguồn lực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước – Trần Kiên.
6. Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong q trình CNH,
HĐH – Phạm Tất Dong.


14



×