Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC TOÀN DIÊN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.86 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
CƠ SỞ QUẢNG NINH

Tiểu luận
Môn nguyên lí Mác LêNin 1
VẬN DỤNG NGUN TẮC TỒN DIÊN CỦA PHÉP
BIỆN CHỨNG DUY VẬT TRONG HOẠT ĐỘNG
KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
Sinh viên thực hiện : Trịnh Thị Quỳnh Dương
MSV : 2014815008
Lớp : Anh 12- Khoa KTKT K59
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Nguyễn Tùng Lâm


MỤC LỤC
LỜI NĨI
ĐẦU.................................................................................................
......1
NỘI
DUNG..............................................................................................
............ 2
I. CƠ SỞ LÝ
LUẬN..............................................................................................
2
1.Quan điểm tồn diện của phép biện chứng duy
vật......................................2
2. Khái niệm kinh tế đối ngoại, vai trị và tính tất yếu khách
quan của việc mở
rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại...............................................................................5
II. CƠ SỞ THỰC


TIỄN.........................................................................................6
1. Hiện trạng hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta hiện
nay......................6
2. Một số giải
pháp...........................................................................................9
KẾT
LUẬN...............................................................................................
.............12


LỜI NÓI ĐẦU
Hơn mười năm gia nhập WTO là một chặng đường
đủ dài để chúng ta nhận ra những điểm mạnh, điểm yếu
trong quá trình hội nhập kinh tế. Sự phát triển kinhtế đối
ngoại trong thời gian vừa qua đã có ý nghĩa hết sức quan
trọng, thậm chí làquyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế
của nước ta. Lợi ích kinh tế xã hội mà kinh tế đối ngoại mang
lại cho nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội được thểhiện
ở mức độ đóng góp vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế
xã hội như pháttriển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng
năng suất lao động, tích luỹ ngoại tệ,tăng nguồn thu Ngân
sách Nhà nước giải quyết việc làm cải thiện đời sống
nhândân...Tuy nhiên, hoạt động kinh tế đối ngoại vẫn còn tồn
tại những mặt hạn chế. Vìvậy việc mở rộng và nâng cao hiệu
quả kinh tế đối ngoại là vấn đề cấp bách và cần thiết đối với
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) của Đảng đã
ghi: Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho

hành động của mình. Xuất phát từ nhận thức, những kiến
thức được học nênem lựa chọn đề tài “Vận dụng nguyên
tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật trong hoạt
động kinh tế đối ngoại”.
Bằng phương pháp nghiên cứu kết hợp giữa lí luận và thực
tiễn, phân và tích tổng hợp, tiểu luận này giúp bạn đọc hiểu
thêm về thành tựu cũng như hạn chế,nguyên nhân cũng như
giải pháp cho hoạt động kinh tế đối ngoại nước ta hiện nay.Do
sự hiểu biết và vận dụng lý luận của Mác – Lê-nin cịn hạn chế
nên bàitiểu luận này của em khơng tránh khỏi những thiếu


sót. Kính mong các thầy cơ giúp đỡ, góp ý để em hoàn thành
bài tiểu luận này.

1
NỘI DUNG
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.

Quan điểm toàn diện của phép biện chứng duy vật.

Trong nhận thức và thực tiễn cần quán triệt quan điểm
toàn diện. Với tư cách là một nguyên tắc phương pháp
luận trong nhận thức các sự vật, hiện tượng, quan điểm
toàn diện đòi hỏi phải xem xét sự vật như một chỉnh thể
của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc
tính, cùng các mối liên hệ của chúng trong bản thân sự
vật; mối liên hệ giữa sự vật với các sự vật khác và với môi
trường xung quanh, kể cả các mặt các mối liên hệ trung

gian, gián tiếp.Trong nhận thức, tính tồn diện là u cầu
tất yếu của cách tiếp cận khoa học, cho phép tính đến
mọi khả năng của vận động có thể có của đối tượng
nghiên cứu trong tính tồn vẹn của nó. V.I.Lênin viết:
“Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát
và nghiêm cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và
“quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”; phải tính đến “tổng
hồ những quan hệ mn vẻ của sự vật ấy với những sự
vật khác”. Nghĩa là phải xem xét khách thể trong tất cả
những mối liên hệ và quan hệ của nó với khách thể khác.
Tuy nhiên, theo V.I.Lênin: “Chúng ta không thể làm được
điều đó một cách hồn tồn đầy đủ, nhưng sự cần thiết


phải xem xét tất cả mọi vật sẽ đề phòng cho chúng ta
không phạm sai lầm và sự cứng nhắc”. Sở dĩ chúng ta
khơng làm được điều đó một cách đầy đủ là với hai lý do:
Một là, sự vật trong quá trình tồn tại phải trải qua rất
nhiều giai đoạn khác nhau, trong mỗi giai đoạn tồn tại và
phát triển không phải bao giờ sự vật cũng bộc lộ tất cả
các mối quan hệ và liên hệ của nó cũng như các quan hệ
của sự vật với các sự vật khác, hơn nữa tất cả những mối
quan hệ và liên hệ ấy chỉ được biểu hiện ra trong những
điều kiện nhất định. Hai là, bản thân chúng ta - những
chủ thể nhận thức - những phẩm chất và năng lực của
chúng ta luôn bị chế ước bởi những điều kiện xã hội lịch
sử, do đó khơng bao giờ có thể bao quát được hết những
mối liên hệ và quan hệ của sự vật với các sự vật khác. Ví
dụ, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
mà chúng ta

đang thực hiện còn sơ khai, các yếu tố của thị trường mới
được tạo lập chưa đồng bộ , các quan hệ thị trường đang
trong giai đoạn hình thành và phát triển cịn đang biến
động, do đó, nhận thức về kinh tế thị trường của chúng ta còn
chưa đầy đủ. Do đó quan điểm tồn diện gắn chặt với quan
điểm lịch sử -cụ thể. Tuy nhiên về mặt nguyên tắc, trong
những điều kiện cho phép, cần phải nắm được thơng tin đầy
đủ nhất về sự vật để có nhận thức toàn diện nhất và đúng
đắn nhất về sự vật.
Quan điểm tồn diện cịn địi hỏi để nhận thức được sự vật
chúng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực
tiễn của con người. Cùng một sự vật, xuất phát từ nhu cầu
khác nhau chủ thể sẽ phản ánh những mặt khác nhau của sự
vật và do vậy, nó biểu hiện ra là những cái khác nhau. Mối
liên hệ giữa sự vật với nhu cầu của chủ thể rất đa dạng, trong


một hoàn cảnh nhất định, con người chỉ phản ánh một số mối
liên hệ xác định của sự vật với nhu cầu nhất định của mình,
nên nhận thức về sự vật cũng mang tính tương đối, khơng
đầy đủ, khơng trọn vẹn. Nắm được điều đó chúng ta sẽ tránh
được việc tuyệt đối hố những tri thức đã có về sự vật và
tránh xem đó là những chân lý bất biến, tuyệt đối cuối cùng
về sự vật, không thể bổ sung, khơng thể phát triển.
Xem xét tồn diện tất cả các mặt của những mối quan hệ
của sự vật đòi hỏi phải chú ý đến sự phát triển cụ thể của các
quan hệ đó. Chỉ có như vậy chúng ta mới thấy được vai trò
của các mặt trong từng giai đoạn cũng như của tồn bộ q
trình vận động, phát triển của từng mối quan hệ cụ thể của
sự vật. V.I.Lênin viết: “Phép biện chứng đòi hỏi người ta phải

chú ý đến tất cả các mặt của những mối quan hệmtrong sự
phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó, chứ không phải
lấy một mẩu ở chỗ này, một mẩu ở chỗ kia”. Như vậy xem xét
tồn diện nhưng khơng bình qn dàn đều mà có trọng tâm,
trọng điểm; phải tìm ra vị trí từng mặt, từng yếu tố, từng mối
liên hệ ấy trong tổng thể của chúng; phải từ tri thức về nhiều
mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát để rút ra
cái chủ yếu nhất, bản chất nhất, quan trọng nhất chi phối sự
tồn tại và phát triển của sự vật.
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện.
Quan điểm phiến diện chỉ thấy một mặt mà không thấy mặt
khác, hoặc giả chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét tràn
lan, dàn đều, không thấy được bản chất của sự vật. Quan
điểm này cuối cùng rơi vào thuật nguỵ biện và chủ nghĩa
chiết trung. Chủ nghĩa chiết trung cũng tỏ ra chú đến nhiều
mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật nhưng lại không biết cách
rút ra mặt bản chất, mối liên hệ căn bản của sự vật, xem xét
mộtcách bình quân, kết hợp một cách vô nguyên tắc các mối
liên hệ khác nhau, tạo thành một mớ hỗn tạp các sự kiện,


cuối cùng sẽ lúng túng, mất phương hướng và bất lực trước
chúng.
Trong tác phẩm “Lại bàn về cơng Trong đồn...”, V.I.Lênin đã
chỉ rõ: “Sai lầm của Bukharin về mặt lý luận - trong trường
hợp này về mặt nhận thức luận - là đã thay thế phép biện
chứng bằng chủ nghĩa chiết trung”. Điều đó làm cho Bukharin
lúng túng mất phương hướng và rơi vào chủ nghĩa cơng đồn.
Cịn “Sai lầm của Trốtxki là tính phiến diện, sự thiên lệch, thổi
phồng, ngoan cố”. V.I.Lênin cho rằng: “Nếu cứ giữ mãi sai lầm

đó, thì kết quả khơng phải là cái gì khác hơn là một thiên
hướng cơng đồn chủ nghĩa chống lại chủ nghĩa cộng sản”.
Thuật nguỵ biện cũng để ý đến nhiều mặt nhiều mối liên hệ
khác nhau của sự vật nhưng lại đưa cái không cơ bản thành
cái cơ bản, cái không bản chất thành cái bản chất. Cả chủ
nghĩa chiết trung lẫn thuật nguỵ biện đều là những biểu hiện
của phương pháp luận sai lầm trong xem xét các sự vật, hiện
tượng. Vạch rõ đặc điểm của chủ nghĩa chiết trung và phép
nguỵ biện khác với phép biện chứng, V.I.Lênin viết: “Tính linh
hoạt tồn diện, phổ biến của các khái niệm, áp dụng một
cách chủ quan bằng chủ nghĩa chiết trung và nguỵ biện. Tính
linh hoạt áp dụng một cách khách quan nghĩa là phản ánh
tính tồn diện của quá trình vật chất và sự thống nhất của
quá trình đó, thì đó là phép biện chứng, là sự phản ánh chính
xác sự phát triển vĩnh viễn của thế giới ”
Trong bối cảnh quốc tế cuối những năm 1980 đầu những
năm 1990 của thế kỉ XX, khi chủ nghĩa xã hội hiện thực ở
Đông Âu và Liên Xô sụp đổ và tan vỡ, chủ nghĩa xã hội thế
giới lâm vào khủng hoảng và thoái trào, một số nước tư bản
lại có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất. Trong bối


cảnh đó, lối xem xét phiến diện, một chiều sẽ làm người ta dễ
hoang mang dao động, phủ nhận tính tất yếu diệt vong của
chủ nghĩa tư bản, phủ nhận nội dung và tính chất của thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
tồn thế giới.
Rõ ràng ngun tắc tồn diện khơng đồng nhất với cách
xem xét dàn đều, liệt kê những tính quy định khác nhau của
sự vật hay hiện tượng đó; nó địi hỏi phải làm nổi bật cái cơ

bản, cái quan trọng nhất của sự vật hay hiện tượng đó. Từ
những phân tích trên cho thấy, lơgíc của q trình hình thành
quan điểm tồn diện trong nhận thức, xem xét sự vật sẽ phải
trải qua nhiều giai đoạn cơ bản là đi từ ý niệm ban đầu về cái
toàn thể đến nhận thức một mặt, một mối liên hệ cụ thể của
sự vật rồi đến nhận thức nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự
vật đó, và cuối cùng đi tới khái quát những tri thức phong phú
đó để rút ra tri thức về bản chất của sự vật.
Từ nguyên tắc toàn diện trong nhận thức , chúng ta đi đến
nguyên tắc đồng bộ trong hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc
này đòi hỏi muốn cải tạo sự vật hiện tượng phải áp dụng
đồng bộ một hệ thống các biện pháp , các phương tiện khác
nhau để tác động nhằm thay đổi các mặt , các mỗi liên hệ
tương ứng của sự vật. Song từng bước , từng giai đoạn phải
nắm bắt đúng khâu trọng tâm, then chốt. Nghĩa là phải kết
hợp chặt chẽ giữa “ Chính sách dàn đều” và “ Chính sách có
trọng điểm” trong cải tạo sự vật .
Từ việc nghiên cứu quan điểm biện chứng về mối liên hệ
phổ biến của sự vật hiện tượng, triết học Mác – Lênin rút ra
quan điểm toàn diện trong nhận thức. Vì bất cứ sự vật, hiện
tượng nào trên thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ với các
sự vật, hiện tượng khác và mối liên hệ rất đa dạng, phong
phú, do đó khi nhận thức về sự vật, hiện tượng, chúng ta phải
có quan điểm tồn diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ xét
sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về
bản chất hay về tính quy luật của nó.


Quan điểm tồn diện địi hỏi để có được nhận thức đúng
đắn về sự vật, hiện tượng, một mặt chúng ta phải xem xét nó

trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các
thuộc tính khác nhau của chính sự vật, hiện tượng đó. Mặt
khác, chúng ta phải xem xét nó trong mối liên hệ với các sự
vật khác (kể cả trực tiếp và gián tiếp). Đề cập đến 2 nội dung
này, Lênin viết “muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn
bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ trực
tiếp và gián tiếp của sự vật đó”.
Đồng thời quan điểm tồn diện địi hỏi chúng ta phải biết
phân biệt từng mối liên hệ, phải biết chú ý tới mối liên hệ bên
trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ
tất nhiên…để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp
tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt
động của bản thân. Đương nhiên, trong nhận thức và hành
động, chúng ta cũng cần lưu ý tới sự chuyển hóa lẫn nhau
giữa các mối liên hệ ở những điều kiện nhất định.
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác
động vào sự vật, chúng ta vừa phải chú ý tới những mối liên
hệ nội tại của nó, vừa phải chú ý tới những mối liên hệ giữa
sự vật ấy với các sự vật khác. Từ đó ta phải biết sử dụng đồng
bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động
vào sự vật nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.
Hơn thế nữa, quan điểm toàn diện đòi hỏi, để nhận thức
được sự vật cần phải xem xét nó trong mối liên hệ với nhu
cầu thực tiễn của con người. Ứng với mỗi con người, mỗi thời
đại và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, con người bao
giờ cũng chỉ phản ánh được một số lượng hữu hạn những mối
liên hệ. Bởi vậy, tri thức đạt được về sự vật cũng chỉ là tương
đối, không đầy đủ trọn vẹn. Ý thức được điều này, chúng ta
mới tránh được việc tuyệt đối hóa những tri thức đã có về sự
vật và tránh xem nó là những chân lí bất biến, tuyệt đối



không thể bổ sung, không thể phát triển. Để nhận thức được
sự vật, cần phải nghiên cứu tất cả các mối liên hệ, cần thiết
phải xem xét tất cả mọi mặt để đề phòng cho chúng ta khỏi
phạm sai lầm và sự cứng nhắc.
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện
khơng chỉ ở chỗ nó chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên hệ.
Việc chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên hệ vẫn có thể là
phiến diện nếu chúng ta đánh giá ngang nhau những thuộc
tính, những quy định khác nhau của sự vật được thể hiện
trong những mối liên hệ khác nhau đó. Quan điểm tồn diện
chân thực địi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt,
nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát để rút ra cái
bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện
tượng đó.

2.

Khái niệm kinh tế đối ngoại ,vai trị và tính tất yếu
khách quan của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại.
a. Khái niệm

Kinh tế đối ngoại của một quốc gia là một bộ phận của
kinh tế quốc tế, là tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học, kỹ
thuật, công nghệ của một quốc gia nhất định với quốc gia
khác còn lại hoặc với tổ chức kinh tế quốc tế khác, được thực
hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và cơ sở phát triển của
lực lượng sản xuất và phâncơng lao động quốc tế.

b.

Vai trị

Có thể khái quát vai trò to lớn của kinh tế đối ngoại qua
các các mặt sau đây:


- Góp phần nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sản
xuất và trao đổi quốc tế; nối liền thị trường trong nước với thị
trường thế giới và khu vực.
- Hoạt động kinh tế đối ngoại góp phần thu hút vốn đầu tư
trực tiếp (FDI) và vốn viện trợ chính thức từ các chính phủ và
tổ chức tiền tệ quốc tế (ODA); thu hút khoa học, kỹ thuật,
công nghệ; khai thác và ứng dụng những kinh nghiệm xây
dựng và quản lý nền kinh tế hiện đại vào nước ta.
- Góp phần tích luỹ vốn phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp
lạc hậu lên nước công nghiệp tiên tiến hiện đại.
- Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều công
ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập, ổn định và
cải thiện đời sống nhân dân theo mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tất nhiên, những vai trò to lớn của kinh tế đối ngoại chỉ
đạt được khi hoạt động kinh tế đối ngoại vượt qua được
những thách thức (mặt trái) của tồn cầu hố và giữ đúng
định hướng xã hội chủ nghĩa.
c . Tính tất yếu của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
Thế giới ngày nay là một thể thống nhất, trong đó các quốc
gia là những đơn vị độc lập, tự chủ, nhưng phụ thuộc vào

nhau về kinh tế và khoa học công nghệ. Sự phụ thuộc giữa
các quốc gia bắt nguồn từ những yếu tố khách quan. Do điều
kiện địa lý, sự phân bố không đều của các nguồn tài ngun
thiên nhiên, khơng một quốc gia nào có khả năng đảm bảo
tất cả những sản phẩm cơ bản. Mọi quốc gia đều phụ thuộc
nước ngoài với mức độ khác nhau về các sản phẩm đó. Chính
vì vậy mở rộng mối quan hệ kinh tế đối ngoại đã và đang là
xu hướng tất yếu đối với hầu hết các nước. Tính khách quan
và phổ biến của nó bắt đầu từ yêu cầu của quy luật về sự
phân công và hợp tác quốc tế giữa các nước, từ sự phân bố
tài nguyên thiên nhiên và sự phát triển không đồng đều về


trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật giữa nước này với nước
khác, dẫn đến nhu cầu sử dụng sao cho có hiệu quả nguồn
lực mỗi quốc gia. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, dưới sự tác
động của cuộc cách mạng khoa học hiện đại, xu hướng mở
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại ngày càng trở nên sôi động.
Mặt khác, sự phụ thuộc giữa các quốc gia còn bắt nguồn từ
sự phát triển của lực lượng sản xuất và cuộc cách mạng khoa
học công nghệ trên thế giới. Lịch sử thế giới đã chứng minh
rằng khơng có một quốc gia nào trên thế giới có thể phát
triển nếu thực hiện chính sách tự cấp, tụ túc. Ngược lại,
những nước có tốc độ tăng trưởng cao đều là những nước dựa
vào chiến lược KTĐN để thúc đẩy kinh tế trong nước phát
triển; biết sử dụng những thành tựu của cuộc cách mạng
khoa học-cơng nghệ để hiện đại hố nền sản xuất, biết khai
thác những nguồn lực ngoài nước để phát huy các nguồn lực
trong nước.
Đối vối nước ta, vốn là một nước nghèo và kém phát triển,

nông nghiệp lạc
hậu, trang bị kỹ thuật và cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội thấp
kém, song có nhiều tiềm năng chưa được khai thác, việc phát
triển ngoại thương, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học cơng
nghệ với bên ngồi là một tất yếu khách quan và là một yêu
cầu cấp bách.

II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.

Hiện trạng hoạt động kinh tế đối ngoại của
nước ta hiện nay.
a.

Những thành tựu đã đạt được

Sau chặng đường hơn 10 năm gia nhập WTO, kết
quả đáng ghi nhận là kinh tế nước ta đã phát triển mạnh


mẽ trên mọi lĩnh vực, đặc biệt trong thương mại, dịch vụ,
thu hút đầu tư nước ngoài (FDI). Trong 5 năm 2006-2010,
tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện 45
tỉ USD, vượt 77,8% so với kế hoạch. Tổng số vốn FDI đăng
ký mới và bổ sung đạt 146 tỉ USD, gấp 7 lần so với giai
đoạn 2001-2005. Hội nhập, đã phá được thế bao vây cấm
vận, tạo được sự bình đẳng trong thương mại quốc tế.
Hoạt động kinh tế đối ngoại trong đó nịng cốt là ngoại
thương tiến bộ rõ rệt. Thị trường được rộng mở tới 149
nền kinh tế thành viên. Kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng

trưởng. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu 9 tháng năm
2018 ước tính đạt 178,91 tỷ USD, tăng 15,4% so với cùng
kỳ năm 2017 (quý III đạt 64,73 tỷ USD, tăng 13,9%). Chỉ
tính riêng tháng 9 năm 2018 có 26 mặt hàng có kim
ngạch uất khẩu trên 1 tỉ USD , chiếm tới 90,3% tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước, trong đó có 5 mặt hàng đạt
trên 10 tỷ USD, chiếm 58,2%.
Ngành du lịch Việt Nam đã có bước phát triển đáng kể.
Số khách du lịch quốc tế vào Việt Nam năm 2017 đã đạt
12,9 triệu và hiện có hàng trăm ngàn lao động Việt Nam
đang làm việc ở nước ngoài, đem lại nguồn thu nhập
hàng tỷ USD hàng năm cho đất nước.
Các doanh nghiệp trong nước đã được quyền bình đẳng
với doanh nghiệp nước ngồi trong xuất khẩu, giảm thiểu
sự phân biệt hoặc rào cản thương mại bất hợp lý. Điều đó
thể hiện rõ đối với doanh nghiệp dệt may khi đón nhận cơ
hội chuyển dịch sản xuất từ các nước phát triển sang
những nước đang phát triển thông qua làn song chuyển
giao công nghệ, mẫu mã. Đặc biệt, vấn đề hạn ngạch –
vốn là rào cản, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong
nhiều năm, được dỡ bỏ bên cạnh việc doanh nghiệp được
bình đẳng về thuế quan với doanh nghiệp các nước. Một
sân chơi mới, rộng lớn và song phẳng đã mở ra, tạo điều


kiện cho cộng đồng doanh nghiệp huy động, sử dụng các
nguồn lực một cách chủ động để phục vụ mục tiêu phát
triển bền vững. Q trình hiện đại hóa trang bị, dây
chuyền sản xuất đã diễn ra với tốc độ cao ở hầu hết
doanh nghiệp. Doanh nghiệp đang kết hợp cả hoạt động

gia công với việc tự sáng tạo mẫu mà, tự tìm thị trường
xuất khẩu và cạnh tranh có hiệu quả. Tác dụng to lớn về
mặt xã hội từ xuất khẩu hàng dệt may được xác nhận vì
cứ một tỷ USD xuất khẩu bảo đảm cho 150 ngàn người có
việc làm ổn định. Việt Nam đang đứng trong số 10 nước
dẫn đầu về xuất khẩu dệt may, với tốc độ tăng trưởng
bình qn 25%/ năm
b.

Những vấn đề cịn tồn tại và nguyên nhân.

Thứ nhất, năng lực cạnh tranh của hàng hóa nước ta ở cả 3
cấp quốc gia, ngành hàng, doanh nghiệp còn kém, thể hiện là
giá thành còn cao, phẩm cấp thấp so với chuẩn quốc tế, chất
lượng phục vụ thiếu chuyên nghiệp. Nguyên nhân của vấn đề
này do chi phí sản xuất của ta nói chung cịn cao so với các
quốc gia trong khu vực: tuy chí phí lao động thấp nhưng giá
các dịch vụ như liên lạc, viễn thông, hàng không, điện nước,…
đều cao, công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp
Việt Nam thì chưa được gọi là tiên tiến.
Thứ hai, đồng tiền Việt Nam cho đến nay, chưa có thể
chuyển đổi tự do. Bn bán quốc tế lớn đến thế, mà đồng tiền
không chuyển đổi tự do được, có nghĩa là các nhà kinh doanh
xuất nhập khẩu của ta phải chịu các chi phí chuyển đổi tiền
với thủ tục phiền hà và tốn kém thời gian. Đã thế họ còn phải
chịu thiệt do quy định về kết hối ngoại tệ, tiền của họ thu
được do xuất khẩu, khi nhập khẩu cần ngoại tệ lại phải xin


phép ngân hàng cấp. Cung cấp tín dụng cho xuất khẩu là một

trong các yếu tố quyết định sự thành công của xuất khẩu, thế
nhưng ở nước ta việc cung cấp các tín dụng này, đặc biệt là
cung cấp vốn lưu động cho các nhà xuất khẩu gặp nhiều trở
ngại. Những trở ngại này liên quan tới những thủ tục vay vốn
phiền hà, những quy chế phức tạp về thế chấp, nhất là trong
điều kiện thị trường bất động sản hoạt động rất kém, sự phân
biệt đối xử đối với các loại hình doanh nghiệp, và chưa có cơ
chế tái chiết khấu các thương phiếu... Việc cung cấp tín dụng
yếu kém đã tác động xấu cả tới việc thu hút vốn FDI và du
lịch, vì các nhà đầu tư ít có cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn
trong nước để phát triển kinh doanh.



×