Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Đề tài giáo dục đại học việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.33 KB, 16 trang )

Giáo duc Đai hoc Viêt Nam

1.

Tình hình giáo dục đại học Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

1.1 Mâu thuẫn giữa phát triển sổ lượng với nâng cao chất lượng giáo dục
Chất lượng giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ
mới... Trong giáo dục chưa giải quyết được mâu thuẫn giữa phát hiển số lượng với nâng
cao chất lượng. Trong nhiều năm gần đây, quy mô giáo dục đại học phát triển, số lượng
các trường cao đẳng, đại học tăng mạnh trong khi các điều kiện về đội ngũ giảng viên,
cơ sở vật chất - kỹ thuật nhà trường chưa phát hiển đủ để đảm bảo được chất lượng đào
tạo của các cơ sở này.
Số lượng sinh viên đại học tăng đột biến lên 5,55 lần trong thập niên 1990-2000,
bình quân 18,7% mỗi năm với hậu quả chất lượng giảm sút hầm trọng. Theo dự thảo
chiến lược giáo dục thì số sinh viên tăng 1,75 lần trong 8 năm từ 2001-2008, bình quân
7.25% mỗi năm, trong khi đó tỷ lệ sinh viên hên một vạn dân tăng 1,6 lần, và với tốc độ
này thì có thể năng tỷ lệ sinh viên trên dân số lên 4,5% vào năm 2020.
Tỷ lệ sinh viên trong thanh niên độ tuổi học đại học hiện nay khoảng 15% mà dự
thảo chiến lược giáo dục đặt mục tiêu tăng thành 40% năm 2020 là không khả thi. Mặt
khác tỷ lệ sinh viên ngồi cơng lập hiên nay là 11,8% mà dự thảo chiến lược giáo dục
đặt mục tiêu tăng thành 30% - 40% năm 2020 lại càng khơng khả thi hơn, nhất là khi
nhiều trường ngồi cơng lập được mở ào ạt trong thời gian vừa qua chưa đủ các điều
kiện để bảo đảm chất lượng đào tạo.
Dự thảo chất lượng giáo dục cũng nêu mục tiêu mới về chất lượng đào tạo: “Sinh
viên sau khi tốt nghiệp có kiến thức hiện đại, kỹ năng thực hành nghề nghiệp vững
chắc, có khả năng lao động sáng tạo, có tư duy độc lập, phê phán và năng lực giải quyết
vấn đề, có khả năng thích ứng cao với những biến động của thị trường lao động, có khả
năng sử dụng tiếng Anh trong học tập, nghiên cứu và làm việc sau khi tốt nghiệp...
1.2 Tình hình giáo dục
Nền kinh tế Việt Nam đang trải qua những thử thách đầy gay go. Ai cũng nhận


thức được rằng, nguyên nhân cơ bản là do trình độ quản lý yếu kém và sự thiếu thốn
nghiêm trọng nguồn nhân lực có trình độ ở mọi tế bào của nền kinh tế. So sánh với các
nước trong khu vực, một điều rõ ràng là chúng ta đã khơng có sự chuẩn bị về vốn người

1


Giáo duc Đai hoc Viêt Nam

cho sự phát triển. Trách nhiệm đó, một phần rất lớn là thuộc về giáo dục đại học. Đặc
biệt là sự xuống cấp về chuẩn mực đào tạo.
Tại một số trường đại học trên địa bàn TP HCM, nổi lên trào lưu làm giảm nhẹ
dần những nguyên tắc sư phạm đã có từ lâu đời ở mọi quốc gia. Cụ thể là yêu cầu thi
giữa kỳ bị bỏ hẳn hoặc buông lỏng, tùy giảng viên tự tổ chức; và việc lập hội đồng bảo
vệ khóa luận tốt nghiệp cũng được làm đơn giản hóa, bằng cách chỉ giao cho hai giảng
viên chấm khóa luận. Những sửa đổi “nhỏ” này ít được ai quan tâm. Vấn đề không phải
là không ai nhận thức được việc làm như vậy gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới kỷ luật
học tập và chất lượng đào tạo. Nhưng với cách tổ chức giảng dạy hiện nay, dường như
đó là một thực tế khó tránh khỏi.
Một điều ai cũng biết là số lượng sinh viên ở một số trường hiện nay quá đơng, có
lúc tới 500 sinh viên trên đầu một giảng viên. Và việc phải dạy nhiều giờ để kiếm thu
nhập bây giờ đã trở thành một “chuẩn mực” trong giáo dục đại học. Nhiều giảng viên
phải dạy tới 30 giờ một tuần, khiến cho họ ln ở trong tình trạng bị q tải. Hiếm có
giảng viên nào cịn đủ sức lực và tâm huyết để dẫn dắt, kích thích óc sáng tạo của học
sinh. Giờ học trở nên một sự lặp lại nhàm chán, thiếu hơi thở của thực tiễn. Khi đó, việc
ra bài tập và làm bài kiểm tra, trở nên ít có ý nghĩa bởi chính tính giáo điều, khô khan
của nội dung dạy. Khi mà số lượng bài tập và bài thi phải chấm lên tới con số hàng
trăm, thậm chí hàng nghìn, thì người có trách nhiệm nhất cũng phải đứng nhìn.
Trước thực trạng đó, nhiều giảng viên chỉ giao lấy lệ một hoặc hai bài tập trong cả
một khóa học. Đe bài tập, bài kiểm tra dường như khơng thay đổi qua nhiều năm.

về phía mình, sinh viên chỉ việc mua đáp án bài tập và bài thi với giá 5 ngàn
đồng, thay vì bỏ cơng ra tu luyện. Và cứ theo tập tục đó, đến khi làm khóa luận tốt
nghiệp, nhiều sinh viên chỉ việc chọn một trong những đề tài có sẵn, với nội dung rất ít
thay đổi qua các năm, ngoại trừ tiêu đề, một vài mô tả dữ liệu, và bảng biểu.
Với cách dạy và học mang tính dập khn nhu vậy, thì việc rèn luyện kỹ năng tu
duy và óc sáng tạo khơng cịn là trọng tâm ở nhiều truờng Đại học nữa. Việc bỏ thi giữa
kỳ, hay bỏ tổ chức bảo vệ khóa luận tốt nhiệp, mà đã quá lâu chỉ cịn mang tính hình
thức, trở thành một thực tế hợp lý. Chỉ có điều, chất luợng “đào tạo” mặc sức bị buông
trôi. Nhung liệu chất luợng đã rớt tới mức độ nào?

2


Giáo duc Đai hoc Viêt Nam

Đe phân tích, chúng ta hãy bắt đầu bằng việc xem xét sự lựa chọn truờng của
những thí sinh thi đại học, nhằm tăng cao nhất kỳ vọng trúng tuyển, và khả năng kiếm
đuợc việc làm sau khi ra truờng.
Giáo dục đại học Việt Nam, giống nhu các hệ thống giáo dục đại học trên thế giới,
đã kinh qua nhiều thay đổi lớn, toàn diện và nhanh chóng. Các thay đổi đó bắt đầu từ
cuộc cải tổ giáo dục đại học năm 1987 khi cơ chế thị truờng đuợc giới thiệu vào xã hội
Việt Nam. Với sự mở rộng đào tạo của các truờng đại học, tăng số luợng lớp học, số
luợng sinh viên và các khóa học, qui mơ đào tạo ở các truờng đại học Việt Nam ngày
càng mở rộng đến nổi khó có thể kiểm sốt đuợc chất luợng giáo dục, và dẫn đến tình
trạng yếu kém về chất luợng.
Điểm yếu quan trọng nhất của chúng ta là thiếu một hệ thống lý luận chặt chẽ và
khoa học về vai trò, tầm nhìn, sứ mạng, mục đích và mục tiêu của giáo dục đại học. Bên
cạnh đó, việc thiếu các văn bản có tính quy phạm và chuẩn mực quản lý càng làm cho
việc phát triển của các truờng đại học luôn ở trong tình trạng tự phát và manh mún. Nói
một cách khách quan, giáo dục đại học Việt Nam từ sau đổi mới đã có nhiều thay đổi

tích cực từ hình thức đến nội dung đào tạo và nghiên cứu. Tuy nhiên, nếu so với trình
độ phát triển của giáo dục đại học thế giới thì khoảng cách giữa họ và ta vẫn cịn khá
rộng. Đe có thể cải tiến và thúc đẩy tốc độ phát triển, điều mà các nhà quản lý và giáo
dục thuờng làm là xác định mục tiêu, hoạch

3


Giáo đuc Đai hỡc Viêt Nam

đỉnh chiến lược, cơ chế quản ỉý, phương pháp và thực hiện, và cuối cùng là đánh
giá kết quả. Mà chúng ta thì chưa quen làm đỉều đó.
Việc cải tổ một nền giáo dục là vơ cùng khó khăn, dài hạn và chưa phải ai cũng
muốn. Để tránh làm một cuộc cách mạng không cần thiết, chúng ta chấp nhận sự thay
đồi từng bước. Đước thứ nhất của quá trình thay đỗi này là việc xác định những mặt
còn yếu kém của giáo dục đại học. Bước thứ hai, việc xác định các mục tiêu lâu dài và
trước mất là vô củng cần thiết. Điều này cũng giống như việc định hướng chiến lược,
làm cơ sở cho các bước kế tiếp là vạch ra các bước, các kế họach thực hiện, chuẩn bị
nguồn lực, phân công trách nhiệm và đánh giá việc thực hiện. Cổ thể tóm tắt các bước
đó trong sơ đồ sau đây:

Nếu so sánh với nhiều nền giáo dục tiên tiến trên thế giới, có thể dễ dàng nhận ra
sự yếu kểm của chúng ta trong vỉệc quản lý giáo dục đại học. Trong khi thế giới đang
tiến nhanh đến việc phát triển các gỉá trị mang tính tồn cầu cho các thế hệ tương laỉ
của nhân loại, chúng ta còn loay hoay với các khái niệm cơ bản về quản lý giáo dục đại
học. Sự hội nhập của các hệ thống quốc gia trong lĩnh vực giáo dục đại học thành một
hệ thống giáo dục tồn cầu là sự đóng góp của giáo dục và khoa học trong cơng cuộc
hình thành nên một nền văn minh nhân loại một cách toàn diện, vào sự tiến bộ của nền
dân chủ, vào tiến trình hồ bình và tự do. Chúng ta cần nhanh chóng cải tiến cách nghĩ,
cách làm để hướng tới một nền giáo dục mà trong đó chú trọng đến tính nhân bản và

4


Giáo duc Đai hoc Viêt Nam

tính tồn diện. Đó chính là mục đích chiến lược và bản chất của nền giáo dục đại học
mà cả thế giới và chúng ta đang hướng đến.
1.3 Những vấn đề cần được nhìn nhận và giải quyết để đại học và khoa học
Việt Nam có tư thế ngày càng vững vàng hơn trong quá trình hội nhập vối thế giói.
Một là, các trường đại học chỉ chiếm 55% số công bố quốc tế của Việt Nam trong
khi ở Thái Lan nghiên cứu khoa học tập trung chủ yếu ở các trường đại học (95%). Gắn
nghiên cứa khoa học với đào tạo đại học là ưu thế của các nước đi sau mà ta không tận
dụng. Xem nhẹ sự gắn kết này dẫn đến chất lượng đại học sa sút và những tri thức khoa
học mới nhất không được lan tỏa đến cộng đồng để góp phần nâng cao dân trí.
Hai là, cơng bố quốc tế của ta cịn dựa q nhiều vào nước ngồi, những cơng
trình do nội lực tạo ra, và đồng thời gắn kết hơn với đời sống của đất nước, chỉ chiếm
một phần ba, còn lại chủ yếu làm ở các nước tiên tiến thông qua con đường đào tạo
hoặc hợp tác, có nội dung liên quan trực tiếp với đất nước họ. Trong khi đó, tỷ lệ cơng
trình nội lực ở nhiều nước khác đều cao hơn nhiều, Philippines: 55%, Thái Lan: 65%,
Malaysia: 75%, Trung Quốc: 80%, chứng tỏ nhiều nước trong vùng đã xây dựng được
tiềm lực khoa học đủ mạnh để giải quyết những đề tài khoa học do kinh tế và đời sống
của họ đặt ra.
Ba là, những cơng trình do nội lực được trích dẫn ít hơn hẳn so với những cơng
bố có nước ngồi hợp tác (thậm chí có cơng trình hầu như khơng được ai trích dẫn),
phản ảnh sự khác biệt quá xa giữa trình độ khoa học trong và ngồi nước.
Bổn là, dẫn đầu danh sách các cơng trình do nội lực của Việt Nam là Toán và Vật
lý lý thuyết, hai ngành đuợc đầu tu rất ít và hầu nhu khơng cần những cơ sở hạ tầng
nghiên cứu tốn kém. Ở các nuớc khác tình hình hồn tồn nguợc lại. Ở Đại học
Chulalongkom chẳng hạn, công bố quốc tế do nội lực tập trung vào các lĩnh vực ứng
dụng gắn liền trực tiếp đến đời sống nhu hóa học, y duợc, cơng nghệ ... Trên thực tế

chúng ta đầu tu khơng ít cho khoa học ứng dụng, công nghệ, xã hội nhân văn ...., song
đầu ra trên các diễn đàn quốc tế chỉ lác đác.
1.4 Sự đầu tư ít ỏỉ trong giáo dục
Tỷ lệ đầu tư cho giáo dục mới đạt 3 % GDP, trong khi tỉ lệ này ở Philippines là
4,2 %, ở Thái Lan là 5,4 % và ở Malaysia là 6,7 %; tỉ lệ này ở Mỹ vào năm 1995 đã là

5


Giáo duc Đai hoc Viêt Nam

5,3 %, ở Anh là 5,5 %, ở Canada là 7,3 %. Một cách so sánh khác : Chính phủ hiện quy
định mức trần thu học phí đối với các trường Đại học cơng lập là 1,8 triệu đồng/ năm/
sv, chỉ bằng khoảng 20 - 25 % định mức chi phí đào tạo thường xuyên cho một sv (định
mức này ở hai Đại học quốc gia là 9 360 000 đồng/ sv, các trường Đại học cơng lập
khác vào khoảng 7 - 8,5 triệu đồng).
Cịn các trường đại học dân lập (ĐHDL) trên thực tế thu học phí ở mức thấp hơn
rất nhiều, ví dụ ở trường ĐHDL Quản lý và Kinh doanh HN (thuộc loại cao nhất) cũng
chỉ khoảng 4 triệu đồng/năm học. Với định mức và mức thu học phí như hiện nay,
khoảng cách chênh lệch với các nước khác là rất lớn. Ở Mỹ học phí của trường Đại học
Caliíbmia, Berkeley, một trong những trường Đại học công lập nổi tiếng, vào năm 1999
chỉ là 4 355 USD, trong khi đó học phí ở các trường Đại học tư thục rất cao : ở Harvard
là 22 802 USD, Yale là 23 700 USD, Staníbrd là 21 389 USD...
2.

Những bất ổn trong giáo dục đại học ở Việt Nam

Nen kinh tế Việt Nam đang trải qua những thử thách đầy gay go. Ai cũng nhận
thức được rằng, nguyên nhân cơ bản là do trình độ quản lý yếu kém và sự thiếu thốn
nghiêm trọng nguồn nhân lực có trình độ ở mọi tế bào của nền kinh tế. So sánh với các

nước trong khu vực, một điều rõ ràng là chúng ta đã khơng có sự chuẩn bị về vốn người
cho sự phát triển. Trách nhiệm đó, một phần rất lớn là thuộc về giáo dục đại học. Đặc
biệt là sự xuống cấp về chuẩn mực đào tạo. Cụ thể:
2.1 Tiêu chuẩn trong công tác thỉ cử, tổ chức thỉ cử - bảo vệ, chấm thỉ chưa
được quy định thống nhất cho các trường
Hiện nay việc thi cử của các trường bị xem nhẹ điều này làm cho chất lượng giáo
dục cũng như xác định năng lực học của sinh viên không thật sự chính xác. Việc đánh
giá điểm 30%, điểm giữa kỳ 20% và điểm cuối kỳ 50% của một số trường đặc biệt là
các trường dân lập cịn mang tính hình thức nghĩa là để đáp ứng đủ cột điểm do trường
quy định nên đề kiểm tra ít được đầu tư, vì thế khơng thể đánh giá năng lực của sinh
viên cũng như khơng phát huy va tìm kiếm được nhân tài nhằm đầu tư và phát triển cho
mục đích phát triển chung của ngành và của đất nước.
Công tác ra đề thi phần lớn do giảng viên giảng dạy ra đề và việc kiểm duyệt đề
còn khá hời hợt và chưa thật sự chặt chẽ, nên khi tổ chức thi theo hình thức ngân hàng

6


Giáo duc Đai hoc Viêt Nam

đề thi thì phát sinh tình trạng đề thi của các giảng viên khơng ngang tầm nhau trong
cùng một khoảng thời gian làm bài chung, vì vậy dẫn tới tình trạng tiếp theo là đề thi
của giảng viên nào được chọn thi những sinh viên học giảng viên đó làm được bài tốt
và ngược lại những sinh viên học những giảng viên khác thì làm không được tốt.
Việc tổ chức thi cử của một số trường chưa thật sự tốt, chưa đúng quy chế đó là
bố trí giảng viên coi thi cũng chính là giảng viên dạy môn đang tổ chức thi.
Tại một số trường chưa quan tâm tốt đến chế độ cho giảng viên ra đề thi và chấm
thi trong khi đó thời gian để ra đề thi và chấm thi chiếm thời gian khá nhiều, bỏ nhiều
cơng sức, vì vậy tạo cho nhiều tiêu cực xảy ra.
2.2 Lựa chọn ngành học không phù hợp của sinh viên

Việt nam vừa ra nhập WTO, và đang thiếu trầm trọng nguồn nhân lực có kỹ năng
vì những sinh viên tiềm năng khơng cịn lựa chọn vào các truờng đào tạo về kỹ thuật,
thuơng mại hay đối ngoại.
Đối với nhiều học sinh có tu chất, việc đuợc vào học tại các truờng có tên tuổi dĩ
nhiên là một điều đáng mong uớc. Nhung họ phải đối mặt với một tỷ lệ chọi cao. Vì
vậy, rủi ro bị đẩy xuống học các ngành không theo đúng nguyện vọng cũng tăng lên. Do
đó, khi áp lực của cuộc đua càng lớn, thì càng có một tỷ lệ cao hơn thí sinh có tiềm
năng chọn vào những truờng có đẳng cấp thấp hơn; nhung chắc chắn hơn trong việc
trúng tuyển vào những ngành mà mình mong muốn.
Việc lựa chọn sai ngành nêu trên còn chịu chi phối bởi một xu thế khác nữa. Đó là
ngay ở những truờng đuợc tiếng là tốt, thì việc giảng dạy cũng đang ngày càng trở nên
giáo điều. Điều đó bao hàm rằng, thi vào học ở những truờng lớn vất vả hơn, nhung
khơng có nghĩa là triển vọng về việc làm sẽ tốt hơn hẳn, nếu cũng sinh viên ấy, xin vào
học những truờng ít đòi hỏi hơn, nhung thuộc lĩnh vực đang thịnh. Ví dụ: Theo kế
hoạch, từ nay tới 2010, Intel sẽ phải tuyển vào khoảng 3000 kỹ su điện tử và tin học.
Nhung cho đến giờ họ mới chỉ tuyển đuợc có 40 nguời. Điều đáng nói là, ngay sau khi
bị loại khỏi vịng đánh giá trắc nghiệm, thầy cơ và chính những sinh viên tham dự tuyển
dụng đều khẳng định rằng, chun mơn nghiệp vụ đó đã đuợc học rồi. Nếu quả thực
nhu vậy, thì một câu hỏi cần đặt ra về việc rèn luyện kỹ năng chuyên sâu, và khả năng
phân tích tình huống khơng có sẵn trong sách vở tại các truờng đào tạo về tin học.

7


Giáo duc Đai hoc Viêt Nam

Kết quả tuyển dụng tồi nhu vậy cũng đã gióng hồi chng báo động về tính giáo
điều, kém hiệu quả của hệ thống giáo dục chính quy hiện nay. Và yêu cầu về tính linh
hoạt trong việc tự trang bị kiến thức, nhằm đáp ứng đuợc những thách thức nghề
nghiệp, ngày càng trở nên bức bách.

Trong bối cảnh đó, việc chọn những trường ít cạnh tranh hon sẽ cho phép sinh
viên đối phó dễ hơn với những môn học bắt buộc, nhưng không mấy hữu dụng. Và họ
có thể giành nhiều thời gian và nỗ lực cho việc tự trau dồi kiến thức cần thiết ở các
trung tâm, hoặc qua web. Bằng cách đó, họ có thể phản ứng linh hoạt với yêu cầu của
nhà tuyển dụng. Khơng ít sinh viên mới tốt nghiệp ra từ các trường hạng trung bình,
nhưng nắm vững một số kỹ năng khơng q địi hỏi, với một khả năng ngoại ngữ tốt, đã
kiếm được việc làm với tiền lương cao tại những ngành công nghiệp mới mở sau WTO.
Khi hướng nghiệp, thí sinh có hồi bão phải tính tới hai loại rủi ro. Thứ nhất là
phải học khác ngành mình mong muốn, khi tỷ lệ chọi cao. Và thứ hai là khơng nhận
được việc làm mình mong muốn, khi bằng cấp trường lớn khơng có ý nghĩa vượt trội.
Khi đó, việc chọn ngành có thể là quan trọng hơn so với việc chọn trường. Điều đó lý
giải cho sự lựa chọn sai ngành vừa nêu trên. Việc cố thi vào để lấy bằng ở những trường
hàng đầu khơng cịn đủ hấp dẫn với rất nhiều thí sinh có tư chất nữa. Mặc dù khơng ai
chối từ rằng, người có bằng cấp như vậy là có tư chất. Điều đáng nói là nếu hai loại rủi
ro trên càng cao, thì càng có một số lượng lớn hơn thí sinh có tiềm năng chọn thi vào
những trường hạng hai. Các thí sinh trung bình và kém dĩ nhiên sẽ khơng chọn các
trường hạng nhất. Vì vậy, nếu để cho chất lượng đào tạo tại các trường top bị xuống
cấp, hoặc nếu tạo kẽ hở cho việc chạy tiền để vào trường tốt, khi số lượng tuyển sinh bị
hạn chế, thì điều đó sẽ làm dấy lên cuộc đua hướng vào những trường thuộc hạng xoàng
2.3 Đỉ sâu vào hạn chế giáo dục Đại học nước ta hiện nay
Việt Nam hiện còn rất bị hạn chế so với các trường trong khu vực trong việc đào
tạo nguồn nhân lực, có đủ kỹ năng và ngoại ngữ để làm việc tại các công ty nước ngoài.
Đại học Việt nam lại làm ngơ trước triển vọng FDI sẽ còn tiếp tục đổ mạnh vào các lĩnh
vực sản xuất, lắp ráp hàng công nghệ. Và sự khan hiếm nguồn nhân lực tại chỗ sẽ còn
trầm trọng hơn nữa trong tương lai gần.

8


Giáo duc Đai hoc Viêt Nam


Trong một nền kinh tế mở, khi cầu nội địa về nguồn nhân lực có kỹ năng càng
bức bách, thì càng thúc đẩy các tổ chức giáo dục quốc tế đến lập các chi nhánh đào tạo
tại chỗ. Nơi họ chọn để lập chi nhánh sẽ chính là những cơ sở giáo dục hàng đầu của
Việt nam. Và nhu vậy, thì chỉ cần một sự định huớng đúng, là có thể làm khởi đầu một
quá trình hội nhập về giáo dục của Việt nam vào mạng luới tri thức khu vực. Theo đó,
chất luợng đào tạo đội ngũ kỹ su và kỹ thuật viên sẽ đuợc nâng dần lên, dẫn đến một sự
thu hút mạnh hơn nũa vốn đầu tu và công nghệ. Giáo dục chua phải là quan điểm chủ
đạo trong chính sách đại học Việt nam. Hệ quả là từng cơ sở giáo dục thấy bị quá sức,
nếu phải tự mình tạo lập đội ngũ và tổ chức giảng dậy theo huớng tiếp cận dần với giáo
dục khu vực. (Cho dù, ai cũng nhận thức đuợc lợi ích của việc làm đó). Nguợc lại, xu
thế “xã hội hóa” giáo dục, mà thực chất chỉ là việc bỏ dần các chuẩn mực đào tạo, mở
rộng số luợng đầu vào để tăng lợi nhuận, đang là xu thế chủ đạo. Nó chi phối ngay cả
những truờng hàng đầu, mà yêu cầu rất cao về nỗ lực dạy và học là điều kiện tiên quyết
để tạo ra nguồn nhân lực có kỹ năng. Hệ quả là, Đại học Việt nam có cơ bị đẩy lùi dần
vào cái bẫy của chất luợng tồi.
Chất luợng, hiệu quả đào tạo của giáo dục Đại học Việt Nam đều thấp, chua đáp
ứng đuợc nhu cầu ngày càng cao về nguồn lực.
Giáo dục Đại học Việt Nam chua đạt chuẩn hội nhập quốc tế, thiếu lien tục, tuyển
sinh bất cập và tốn kém, chất luợng và hiệu quả kém. Cho đến nay, trong nhiều hoạt
động tác nghiệp, các truờng Đại học không đuợc tự điều hành quản lý mọi công việc
của mình và đang chịu sự chi phối của Bộ giáo dục - đào tạo. Do Bộ thực hiện các hoạt
động tác nghiệp của các truờng Đại học nên các truờng trở nên thiếu chủ động. Cụ thể
là các truợng Đại học trong cả nuớc đang ở tình trạng bị động trong công tác tuyển sinh,
ở hầu hết các khâu nhu: ngày tổ chức kỳ thi, việc phát hành hồ sơ đăng ký dục thi, nhận
hồ sơ, hình thức ra đề, xây dựng điểm chuẩn hay xét tuyển đều do Bộ quy định, điều
hành.
Các trường không được tự thiết kế và ấn hành văn bằng và nhiều loại giấy tờ, hồ
sơ khác cho sinh viên. Trong khi đó các nước phát triển và nhiều nước đang phát triển
đầu coi đây là những việc riêng của các trường Đại học vì mỗi trường có cách tuyển

chọn thí sinh, điều kiện tuyển chọn và mẫu đon tuyển sinh riêng. Vì vậy các trường Đại

9


Giáo duc Đai hoc Viêt Nam

học ở các nước được chủ động tuyển sinh theo cách của mình nên việc tuyển sinh nhẹ
nhàng mà chính xác, khơng làm cả xã hội căng thẳng như kỳ thi tuyển sinh Đại học của
nước ta.
Phần lớn các trường Đại học Việt Nam ở trong tình trạng khép kín, khép kín giữa
các trường Đại học với nhau và khép kín giữa trường Đại học với thực tiễn cuộc sống.
Nhiều trường chỉ đào tạo không chính quy cao hơn cả hệ chính quy, trong khi số lượng
giảng viên lại được khoán rất hạn chế, khiến ở hầu hết các trường Đại học, người giảng
viên phải tập trung cho việc giảng dạy với cường độ lớn. Giảng viên phải dạy hai ca,
thậm chí ba ca ở các hệ đào tạo khác nhau, vượt gấp máy lần định mức. Giảng viên chỉ
có dạy và dạy, dạy nhiều đến mức khơng cịn có thời gian tự bồi dưỡng và nghiên cứu
khoa học thì về chất lượng giảng dạy dẫn đến chất lượng sản phẩm đào tạo thấp.
Tình hình Giáo dục Đại học Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập, 3 trong số
những bất cập đó liên quan đến: Mục tiêu, chương trình và phương pháp.
* Mục tiêu
Cho tới thời điểm hiện nay, các trường Đại học Việt Nam vẫn chưa xác định mục
tiêu cụ thể để đào tạo sinh viên. Các trường Đại học trên thế giới thường hướng đến 3
mục tiêu chính sau để đào tạo sinh viên: Trang bị kiến thức nghề nghiệp chuyên môn;
Hướng dẫn sinh viên ứng dụng chuyên môn đã học vào cơng việc thực tế; nâng cao
trình độ nhận thức văn hóa cho sinh viên trong khi đó các trường Đại học Việt Nam lại
hướng đến những mục tiêu to lớn, không cụ thể như: trung thành với tổ quốc, xây dựng
xã hội chủ nghĩa... nên nhiều lúc chính cả thầy và trò còn mơ hồ về mục tiêu dạy và học
của mình.
Giảng viên Việt Nam thường dạy cho sinh viên những kiến thức cụ thể, những

hiểu biết mà mình tích lũy được trong kinh nghiệm giảng dạy mà không chú trọng đến
việc dạy nghề cho sinh viên.
Các giảng viên Việt Nam thường ít cập nhật kiến thức chun mơn liên quan đến
nhu cầu thực tế. Bài giảng của thầy đôi khi khơng cịn phù hợp với tình hình xã hội hiện
tại. Nếu sinh viên chỉ học ở trýờng, khơng có õiều kiện va chạm với cuộc sống bên
ngồi thì khả năng thích ứng với nhu cầu xã hội là thấp vì khoảng cách giữa lý thuyết
và thực tế là khá xa.

1
0


Giáo duc Đai hoc Viêt Nam

Sinh viên đại học đương nhiên phải có trình độ nhận thức văn hóa cao, cụ thể là
phải có những phẩm chất đặc biệt. Các trường ĐH Việt Nam cho rằng việc giáo dục
phẩm chất cho sinh viên thuộc về trách nhiệm của các bậc học phổ thơng trước đó hoặc
thuộc về chính bản thân sinh viên nên đã khơng chú trọng rèn luyện khía cạnh này.
*

Chương trình

Hiện nay, chương trình giáo dục ĐH tại Việt Nam vẫn còn kém hiệu quả. Nguyên
nhân do Bộ khống chế quá chặt về chương trình khung và yêu cầu các trường phải tuân
thủ một cách cứng nhắc. Cụ thể: Kiến thức chuyên ngành sinh viên được học quá ít. Ví
dụ, một chương trình cử nhân, bao gồm 125-130 tín chỉ tất cả các mơn, trong đó có
khoảng 80-90 tín chỉ là mơn chung. Các mơn chung của ngành cũng khoảng 20 tín chỉ
nữa. Cho nên những kiến thức sẽ học để sau này sinh viên đi làm thực tế chỉ cịn
khoảng 20 tín chỉ nữa, tương đương với 4-5 môn.
*


Phương pháp

Hiện nay giảng viên tại các trường Đại học Việt Nam chủ yếu vẫn sử dụng
phương pháp giảng dạy truyền thống " thầy đọc, trò chép". Phương pháp dạy và học
hiện nay chủ yếu chạy theo chương trình, đối phó với các kỳ thì, thi xong thì chẳng cịn
gì. Sinh viên có cảm nhận hẫng hụt vì vẫn là hình thức “đọc, chép”, rất ít hội thảo, ít đề
tài nghiên cứu, khơng tham khảo tạp chí chun ngành và khi ôn thi thày vẫn cho vài
chục câu hỏi khơng khác gì những học sinh cấp 4.
Sự đổi mới về phuơng pháp giảng dạy trong các truờng đại học hiện nay chỉ mang
tính hình thức. Thiết bị giảng dạy nhu: máy chiếu, video ... chỉ là phuơng tiện hỗ trợ để
nâng cao chất luợng giảng dạy nhung quan trọng hơn cả là việc ý thức đuợc giáo dục
phải mang tính sáng tạo, tinh thần trách nhiệm thể hiện qua việc cải tiến về phuơng
pháp và chuơng trình học thì vẫn chua đuợc chú trọng. Một bất cập nữa là phuơng pháp
đánh giá, kiểm tra ở các truờng đại học. Hiện tại các truờng Đại học đánh giá sinh viên
qua 2 kỳ thi: Kiểm tra giữa kỳ chiếm 30%- 40% điểm số và thi cuối kỳ chiếm 60%-70%
là không hợp lý vì khơng phát huy đuợc tinh thần tự học, tự nghiên cứu của sinh viên.
Việc đánh giá dựa hoàn tồn vào bài thi mà khơng đánh giá sinh viên trong suốt quá
trình học tập.

1
1


Giáo duc Đai hoc Viêt Nam

• Hơn 50% sv đuợc khảo sát không thật tự tin vào các năng lực/ khả năng
học của mình.



Hơn 40% cho rằng mình khơng có năng lực tự học;



Gần 70% sv cho rằng mình khơng có năng lực tự nghiên cứu;



Gần 55% sv đuợc hỏi cho rằng mình khơng thực sự hứng thú học tập.

2.4 Giáo dục đại học nước ta đua theo sổ lượng hơn chất lượng
Do chất luợng đào tạo ở các truờng hàng đầu khơng đáp ứng đuợc địi hỏi của
thực tiễn. Cho nên, ngày càng có tỷ lệ lớn hơn những nguời có tu chất, sắp ra nhập thị
truờng lao động, tìm đến những truờng hạng hai. Ở đây, kỳ vọng trúng tuyển vào những
ngành đang thịnh trên thị truờng là cao hơn. Và khi đã lọt đuợc vào ngành mình muốn,
chi phí cho việc lấy tấm bằng là thấp hơn. Đồng thời, nỗ lực giành cho việc tự trau dồi
kiến thức sẽ nhiều hơn. Vì vậy khi có nhu cầu tuyển dụng, doanh nghiệp trong nuớc
cũng quan tâm nhiều hơn tới sinh viên mới tốt nghiệp thuộc ngành mà họ cần. Và ít
quan tâm hơn tới truờng nào đào tạo.
Dầu sao đi nữa, doanh nghiệp cũng biết rằng, có một tỷ lệ đáng kể những người
mới tốt nghiệp từ ngành họ cần, là có kỹ năng tồi. Tiền lương, do vậy phải trả ở mức
trung bình, có tính đến rủi ro là có thể tuyển phải nhân viên khơng có năng lực. Mặc
dầu vậy, mặt bằng lương có xu hướng tăng dần lên ở những ngành, mà nhu cầu thị
trường là nóng hơn.
Cấu trúc tiền lương như vậy phản ánh niềm tin của doanh nghiệp rằng, ngành
càng thịnh, thì càng có một tỷ lệ cao hơn người có năng lực chọn vào học, bất kể đào
tạo là có vấn đề hay khơng. (Vì người tài có thể tự trang bị nghiệp vụ). Nhưng với mặt
bằng lương phân biệt theo ngành như thế, thì thí sinh giỏi sẽ có lợi hơn, nếu chọn vào
ngành hot hơn là vào trường top, như đã nói. Sự lựa chọn của họ, do đó, khẳng định
niềm tin của doanh nghiệp là đúng.

Hệ quả là cấu trúc tuyển chọn và tiền lương được phân tầng rõ rệt, trừ phi trật tự
về độ hot của các ngành bị đảo lộn. cấu trúc đó là một thể chế hợp lý, khi doanh nghiệp
mất khả năng phân biệt chất lượng của người đi xin việc qua tấm bằng. Nhưng về dài
hạn, nó đặt ra khá nhiều vấn đề.

1
2


Giáo duc Đai hoc Viêt Nam

Một mặt, từng doanh nghiệp thấy khó có thể giữ được những người trẻ, có thực
tài. Điều đó lý giải cho tỷ lệ “nhẩy việc” rất cao gần đây ở những ngành nóng, như tài
chính - ngân hàng. Mặt khác, nó có thể gây nên cuộc đua tranh theo số lượng từ phía
cung, giữa các trường đại học, theo hướng làm giảm mạnh chất lượng đào tạo.
Vấn đề là ở chỗ, với cấu trúc phân tầng theo ngành đang thịnh của thị trường lao
động hiện nay, các trường hạng hai không phải quá lo lắng bị đào thải vì chất lượng tồi.
Ngược hẳn lại, chỉ cần tạo một cải vỏ bọc tốt, chứng minh rằng lĩnh vực mình đào tạo là
thuộc loại đang thịnh. Khi đó, việc thu hút số lượng đầu vào và đảm bảo cung tiêu đầu
ra sẽ được thiết lập tự động, khá độc lập với chất lượng đào tạo.
Tình hình này dẫn tới hai hiệu ứng: Thứ nhất, những trường càng thiếu thốn
nguồn lực giảng viên, càng ít tính chuyên nghiệp, thì càng hay lao vào mở khóa đào tạo
ở những ngành đang nóng nhất. Thứ hai, càng thiếu thốn nguồn lực, thì họ càng muốn
thay đổi bản chất và quy trình giảng dạy theo hướng ít chun nghiệp hơn. Do vậy, thu
lợi nhuận cao hơn. Hay ít ra là làm giảm sức ép phải xây dựng lực lượng giảng viên có
trình độ cho phù hợp với u cầu đào tạo. Chất lượng dạy tồi, do vậy, hết sức dễ lây lan.
Khi một trường đã bỏ đòi hỏi về chuẩn mực chất lượng để tăng số lượng đào tạo vì lợi
nhuận, thì các tổ chức khác khó lịng mà ngồi n. Logic ở đây là, nếu khơng tăng khóa
học, tăng số lượng đào tạo, thì nguồn đầu vào sẽ bị trường khác hút mất. Và hiện tượng
quá tải, dẫn đến phải giảm địi hỏi về chất lượng, trá hình hay cơng khai, cứ vậy mà

mặc sức lan truyền. Ngay ở những trường lâu năm, tình trạng quá tải dẫn đến việc giảng
viên phải dậy nhiều giờ. Khi mà khối lượng giảng dạy rất lớn, thì việc nâng bậc lương
theo chất lượng công việc bị xem nhẹ. Tiền lương thấp, và thường chỉ là phép cộng đơn
thuần của số giờ giảng, nhân với hệ số quy đổi, rất ít có sự phân biệt về chất lượng, hay
năng lực giảng dạy. Điều đó kích thích giảng viên khơng có trình độ phải giảng dạy
nhiều hơn, và tu luyện ít hơn. Nhưng nó khơng kích thích người có trình độ vào làm
cơng tác giảng dạy. Do vậy, nạn thiếu trầm trọng giáo viên giỏi có xu hướng tồn tại dai
dẳng, đi kèm với sự gia tăng lợi nhuận siêu ngạch trong đào tạo.
Ai cũng nhìn thấy cuộc đua tranh vì lợi nhuận này. Nhưng ít ai đánh giá hết hậu
quả của nó. Khi nền kinh tế đang nổi lên, từng thời kỳ sẽ xuất hiện nhu cầu rất lớn về
một ngành nào đó. Tuy nhiên, thị trường việc làm càng nóng, thì càng kích thích việc

1
3


Giáo duc Đai hoc Viêt Nam

đào tạo trở nên thiếu tính chuyên nghiệp, nếu để lợi nhuận ngắn hạn chi phối mục đích
đào tạo. Điều này tạo ra một nghịch lý của sự phát triển: Tại những ngành cần nhiều lao
động có kỹ năng nhất, thì vốn người về chất càng ít được vun đắp nhất. Khơng kể đến
mất mát do những tài năng trẻ đang bị hút vào những ngành nóng, nhưng lại bị mai một
do cách giáo dục giáo điều, rập khuôn. Sự thiếu ý thức về gây dựng vốn người đang
thực sự đe dọa sự phát triển dài hạn của nền kinh tế.
3.

Giải pháp cho thực trạng giáo dục ở Việt Nam

3.1. Thành lập ủy ban nghiên cứu và giám định chất lượng giáo dục
Để tìm hiểu nguyên nhân và từ đó nâng cao chất lượng đào tạo cho tương đương

với các tiêu chuẩn quốc tế, ngay bây giờ, ta cần có một ủy ban có nhiệm vụ chính là
nghiên cứu phương pháp giảng dạy đề ra tiêu chuẩn đồng nhất về đào tạo (kể cả sách
giáo khoa) và thẩm tra chất lượng đào tạo cho tất cả các trường Đại học và cơ sở đào
tạo cấp Đại học hay sau Đại học. ủy ban này nên độc lập với Bộ giáo dục - đào tạo,
nhưng phải có đại diện của Bộ, của các trường Đại học, của chính quyền địa phương,
các doanh nhân cơ sở nghiên cứu và các nhà khoa bảng ở nước ngoài.
3.2. Mở rộng truy cập mạng Internet
Ngày nay công nghệ thông tin được công nhận là một bộ phận không thể thiếu
được trong giáo dục. Internet không những là một kho tàng thông tin, một thư viện bách
khoa vĩ đại của nhân loại mà còn là một trường đại học của cộng đồng thế giới. Mạng
Internet đã và đang làm thay đổi hầu như trong mọi vận hành, kể cả cách thức giảng
dạy và nghiên cứu, trong tất cả các trường Đại học ở phương Tây. Thật là khó tưởng
tượng các đại học này sẽ hoạt động như thế nào nếu không có mạng Internet. Trong khi
đó, số lượng Học sinh, Sinh viên và các nhà khoa học trong nước có điều kiện truy nhập
vào mạng Internet cịn q ít. Do đó, giúp đỡ và tạo điều kiện cho các Nhà nghiên cứu,
Sinh viên, Học sinh trong nước tham gia vào cuộc cách mạng về công nghệ thông tin
này cần phải được đưa lên một trong những quốc sách hàng đầu trong nền giáo dục.
3.3. Tranh thủ sự hợp tác và hỗ trợ của các nhà khoa học gốc Việt đang làm
ở nước ngoài
Hiện nay, số lượng người Việt đang định cư hay làm việc ở nước ngoài đã lên đến
con số hai hiệu, trong số này, có ít nhất là 10% có trình độ Đại học trở lên. Trong số này

1
4


Giáo duc Đai hoc Viêt Nam

có nhiều người có khả năng khoa học kỹ thuật cao, có kinh nghiệm lâu năm trong
nghiên cứu khoa học, có uy tín đối với các cơ quan cung cấp tài chính cho nghiên cứu

và quan trọng hơn nữa, là họ có tâm huyết với nền giáo dục trong nước. Thế nhưng cho
tới nay, việc huy động và sử dụng nguồn nhân lực khoa học này phục vụ đất nước vẫn
được tiến hành một cách có hệ thống.
3.4. Đẩy mạnh đào tạo đội ngũ giảng dạy
Theo như một thống kê gần đây, trung bình mỗi năm Việt Nam chỉ đào tạo
khoảng 630 người, một con số rất ư là khiêm tốn, có khi cịn thấp hơn con số của một
trường lớn ở các nước phương Tây. Ta cần đào tạo hơn 2500 Tiến sĩ và 4700 Thạc sĩ,
một số lớn này phải được đào tạo từ nước ngồi. Do đó, Việt Nam cần mạnh dạn gửi
học viên và giảng viên ra nước ngoài học hậu Đại học nhiều hơn nữa, đồng thời đẩy
mạnh hợp tác nghiên cứu với các Đại học nước ngoài, để qua đó đào tạo được thêm
chuyên viên nghiên cứu và giảng viên với kinh phí vừa phải.
3.5. Ổn định địi sổng các nhà khoa bọc và khoa bảng
Đại học là nơi tập trung những thành phần trí thức ưu tú, là cái nôi phát triển và
nuôi dưỡng nhân tài. Nhưng ở Việt Nam ngày nay là đại học khơng có sức thu hút nhân
tài, vì tình trạng lương bổng quá nghèo nàn, khơng đủ ni sống những nhà khoa học có
tài thực sự. Vì thế cần phải ổn định một số nhỏ nhà nghiên cứu làm nghiên cứu cơ bản
qua tăng lương một cách xứng đáng cho họ có thể sinh sống trong một nền kinh tế thị
trường, có chính sách cụ thể khuyến khích các nhà khoa bảng làm nghiên cứu ứng dụng
và qua đó tăng khả năng thu nhập riêng cho họ và cho trường Đại học. cần phải khuyến
khích bằng các phần thưởng xứng đáng về vật chất và danh dự cho các sinh viên tham
gia thành công vào nghiên cứu khoa học.
Chính phủ cần phải tăng cường ngân sách giáo dục lên ít nhất là 15%.
4.

Kết luận

Để thực trạng giáo dục ở Việt Nam hạn chế được những bất cập và đồng thời phát
huy truyền thống hiếu học vốn có của dân tộc ta thì chúng ta cần phải đổi mới đại học
và trước hết phải đổi mới tư duy hước, bắt đầu bằng việc thổi một luồng sinh khí khai
phóng vào mơi trường đại học, cho người thầy biết chỗ đứng khiêm tốn của mình trong


1
5


Giáo duc Đai hoc Viêt Nam

một thế giới (người và đại học) mà trí thức đồng nghĩa với tìm tịi và khám phá. Đổi
mới quản lý giáo dục sao cho có hiệu quả hơn. Nâng cao chất lượng giảng dạy
Bên cạnh đó Bộ Giáo dục đào tạo khơng nên quy định các trường đại học phải
tuân theo chương trình khung một cách cứng nhắc mà hãy để các hường đại học chủ
động biên soạn chương trình. Chương trình của Bộ đưa ra để các trường dựa vào đó mà
điều chỉnh phù hợp với mục tiêu giáo dục, phù hợp với ngành nghề đào tạo.
Hơn nữa cần phải đầu tư nhiều hơn cho giáo dục kể cả việc dạy cũng như việc
học. Tức là phải thường xuyên chăm lo đến đời sống của người làm cơng tác giảng dạy
nói riêng, người làm cơng tác giáo dục nói chung, hơn nữa phải tham khảo cách thức tổ
chức quản lý giáo dục của một số nước phát tri ổn đã thành công trong giáo dục. Bên
cạnh đó phải đưa khoa học kỹ thuật vào giáo dục để hỗ trợ nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục lên hơn nữa.
Tài liệu tham khảo
GS. Phạm Phụ ( Nhà xuất bản Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh năm
2005): về khn mặt mới của giáo dục Đại học Việt Nam
/> />
Bài giảng của TS. Võ Thị Bích Hạnh: Giáo dục Đại học Việt Nam
Vũ Minh Giang (2006). Đối mới giảo duc đai hoc bắt đầu từ giảng viên. Đuợc
truy cập ngày 09/08/2006 tại
http ://203 ■ 162 ■ 168 ■ 143/giaoduc/vande/2006/08/600207/
Sơn Hà (2008). Giảo duc nhồi nhét thì dân đến vơ văn hóa. Đuợc truy cập
ngày 26/10/2008 từhttp ://www. chungta. com/Desktop ■ aspx/ChungTaSuvNgam/Giao - Duc/Giao duc nhoi nhet thi dan den vo van hoa/


1
6



×